Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

2 truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch

http://www.lebichson.org/Pics/Logobd.gif
NGƯỜI  CHÉP  SỬ
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
     Sử quan chép cái sử gì
     Chuyện vua ăn uống, chuyện đi thuyền rồng
     Đại sự: “Bí sử thâm cung”!
      Cho nên sử thật nằm trong nấm mồ!
                       (Sử quan – Đ.N.T)
Trong số những người dòng họ Nguyễn Cửu theo  phò Chúa Nguyễn, có một người văn võ song  toàn, tài ba khác thường, mà không thấy sử sách nào của nhà Nguyễn ghi chép, đó  là Nguyễn  Cửu Long. Nguyễn Ánh luôn giữ Cửu Long  bên mình, như hình với bóng, nhưng bắt đổi tên là Võ. Cho mãi đến năm Nhâm Tuất  (1802), khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua thì  Võ đột ngột lâm bệnh, phải trị thuốc hơn ba năm mới khỏi. Võ khỏi bệnh, vua Gia Long muốn ban cho Võ một chức võ tướng trong đội cấm vệ, nhưng Võ lại xin một chức sử quan. Vua Gia Long chấp thuận. Năm 1812, khi đã xây dựng xong kinh đô Huế, Gia Long mật chỉ  giao cho Cửu Võ viết bộ sử, tính từ chúa Nguyễn Hoàng (1524- 1613), mở đầu vào phương Nam dựng nước, đến khi  Gia Long lên ngôi Hoàng đế  lập nên triều Nguyễn (1802). Thời hạn hoàn thành công việc là 5 năm. Thế là từ đó, Nguyễn Cửu Võ âm thầm ngồi viết  bộ sử “Chúa Nguyễn dựng nước”…
      Sau ba năm, Nguyễn Cửu Võ đã viết xong  bộ sử và dâng vua Gia Long. Vua Gia Long đọc xong liền cho gọi Cửu Võ tới nói :
     - Ta đã đọc xong rồi. Ta thật  không ngờ nhà ngươi lại biết nhiều chuyện của các  Chúa Nguyễn như vậy ? Có cả những chuyện mà chính ta cũng chưa được nghe nói tới bao giờ ?
      Võ nói :
     - Tâu bệ hạ ! Kẻ hạ thần đã gắng sức đem hiểu biết nông cạn của mình ra để viết bộ sử này. Có điều gì sơ suất mong bệ hạ phán xét …
      Vua Gia Long lại nói :
     - Nhà ngươi có biết rằng trong bộ sử viết về những  chuyện  riêng  kín  đáo của các Chúa Nguyễn quá nhiều không ? Nhà ngươi có biết rằng để thiên hạ biết quá nhiều về  các bậc vua chúa là bất  lợi như thế nào không ?  Và tại sao những trận đánh thắng  của các Chúa Nguyễn nhà ngươi lại viết quá sơ sài, còn những trận thua lại viết quá  tỉ mỉ ? Sao không làm ngược lại ? Sao nhà ngươi  không tự biết rằng, có những chuyện, dù rất hệ trọng cũng không được phép ghi ra sử sách, nếu có phương hại đến thanh danh của các bậc vua chúa ? Chẳng hạn, những lần ta rút quân ra Phú Quốc hoặc  Côn Lôn, rồi những lần ta tiếp xúc với các giáo sĩ Tây Phương, những  chuyện ấy  không ai được phép biết đến ! Những kẻ biết rõ những  chuyện đó, nhà ngươi phải biết xử như thế nào không ?
      Nguyễn Cửu Võ không biết nói sao, đứng ngây như tượng .
      Vua Gia Long thấy vậy mỉm cười nói :
- Ngươi đừng  sợ  ! Ta sẵn lòng tha thứ cho dù nhà ngươi phạm tội. Đó là cái tình của ta giành riêng cho ngươi sau bao nhiêu năm đã trung thành theo ta, vượt qua những trận tử chiến kinh hoàng nhất…Nhưng ngươi phải khai không sót một ai, tên những người đã biết rõ mọi chuyện của ta thời còn đánh nhau với quân Tây Sơn. Và, ngươi cấp tốc viết lại bộ sử này trong thời hạn một  năm ! Những chỗ nào ta đánh  dấu đều phải viết lại ! Xong, đem cả hai bản lại cho ta xem, ta sẽ trọng thưởng !
   Suốt đêm hôm ấy và bao đêm kế tiếp, Cửu Võ thường thức trắng. Những năm tháng tưởng như đã trôi vào lãng quên bỗng hiện về rõ mồn một. Trước đây, Võ nhìn việc Nguyễn Ánh giết những đại công thần như Đỗ Thành Nhơn, rồi Nguyễn Văn Thành và nhiều tướng tâm phúc khác, theo lẽ thường tình là: kẻ nào trái ý vua chúa đều có thể mất đầu như chơi! Nhưng giờ đây, Võ nhìn những vụ “trị tội” ấy bằng con mắt khác hẳn! Võ thấy vua Gia Long hiện ra trước mặt rõ mồn một với hình ảnh kinh hoàng của một bạo chúa!...Và Võ giật mình bàng hoàng hồi lâu khi nghĩ đến lưỡi gươm trừng phạt của bạo chúa sẽ giáng xuống chính mình!...
     Cửu Võ lo nghĩ nhiều mà thành bệnh. Song, Võ gắng gượng chống lại con bệnh mà mải miết viết  thâu đêm, không mấy khi rời khỏi thư phòng.
     Ngày tháng vùn vụt trôi đi, đã được nửa năm. Võ viết xong ba tập sách dày. Tối hôm đó, vào một đêm cuối năm Gia Long thứ 17(1818), Nguyễn Cửu Võ gọi Nguyễn Cửu Sơn, người con trai với một người thiếp tới, nói:
- Đây là bộ sử thật về các chúa Nguyễn. Mọi việc lớn nhỏ cha đều viết tường tận, không thiên vị ai, dù đó là vua chúa hay những người trong dòng họ ta. Chính vì thế, nay cha trao bộ sách này cho con vì con là người có tư chất khác thường sau này tất làm chuyện lớn, và bộ sách này sẽ có ích cho con nhiều lắm…
Cửu Sơn lạy tạ nhận sách, ngậm ngùi không nói nên lời. Trầm ngâm một lát, Cửu Võ nói tiếp:
- Cha sẽ xin cáo quan về ở ẩn như các bậc cao nhân thời xưa. Còn con, con hãy vào phương Nam , ngày đêm dùi mài kinh sử, cổ kim đông tây  phải làu làu. Khi nào đời cần đến, tự khắc con sẽ biết.
Ngày hôm sau, Võ âm thầm cấp lộ phí cho Cửu Sơn đi vào phương Nam xa xôi. Rồi Võ lại vào thư phòng, đóng chặt cửa, viết lại bộ sử theo gợi ý của vua Gia Long. Đúng hạn định, Võ dâng sách. Vua Gia Long đọc bộ sử mới viết lại, thấy mọi việc diễn biến đều hết sức ca ngợi những chiến công hiển hách của các chúa Nguyễn, thì lấy làm hài lòng lắm. Nhưng đọc đi đọc lại, vua Gia Long cảm thấy đó không phải là khẩu khí văn chương của Cửu Võ, không thấy cả tiếng gươm khua ngựa hý mà chỉ là những dòng chữ lạnh lùng, khô khốc! Vốn đa nghi, Gia Long không thể tin rằng một con người mạnh mẽ khác thường cả về thể lực và khí chất như Cửu Võ lại có thể thay đổi nhanh chóng như vậy được? Vì thế, khi Cửu Võ xin cáo quan về nhà, Gia Long chấp thuận ngay, nhưng mật sai Nguyễn Đức Xuyên, một danh tướng cũng từng phò tá hết lòng từ những năm tháng cùng khốn, đem binh phục ở quãng đường vắng để hạ sát Cửu Võ…Thương thay cho Cửu Võ cùng toàn thể gia quyến đã chết bi thảm trong một cuộc tàn sát âm thầm…
     Theo lời truyền lại của người trong vùng, chỗ Cửu Võ cùng gia quyến bị sát hại đã mọc lên một rừng trúc khác thường, đêm đêm trong rừng luôn vẳng tiếng nói rì rầm như người kể chuyện mãi không thôi. Người ta lấy ông trúc khoét sáo thì sáo có âm thanh thật kỳ lạ, khác hẳn sáo trúc của những vùng khác./.
Đỗ Ngọc Thạch
CHÚA TRỊNH - NGÀY TÀN
Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch 
Sau khi thoát được vòng vây của Nguyễn Hữu Chỉnh ở Quế ổ, Chúa Trịnh Bồng (1) chạy đến Hàm Giang, nương tựa vào Đinh Tích Nhưỡng (2). Nhưỡng là con của Đinh Văn Tả (1602-1685), là tướng nhà Hậu Lê, người làng Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, lập nhiều công trạng các thời chúa Trịnh từ Trịnh Tạc (1653-1682), tới Trịnh Căn (1682-1709).
Năm 1645, hai con thứ của Trịnh Tráng là Trịnh Lịch (trấn thủ Sơn Tây) và Trịnh Sầm (trấn thủ Hải Dương), muốn tranh ngôi thế tử với Trịnh Tạc, nhân lúc cha bị ốm bèn cùng nhau làm phản. Trịnh Tạc bèn cầm quân đi đánh. Đinh Văn Tả được cử làm tiên phong. Trịnh Lịch và Trịnh Sầm chia quân cắt quân Trịnh Tạc làm đôi. Trịnh Tạc phá được vây ra trước. Đinh Văn Tả bị hãm trong trận, hai người con Tả bị tử trận. Đinh Văn Tả tả xung hữu đột chém 18 tướng sĩ của Lịch và Sầm khiến quân địch phải dãn ra. Trịnh Tạc thấy Đinh Văn Tả còn sống bèn mang quân quay lại cứu, bắt được Trịnh Lịch. Trịnh Sầm chạy về Ninh Giang, sau cũng bị bắt. Cả hai đều bị xử chém.
Năm 1667, chúa Trịnh đem quân đánh Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng, Đinh Văn Tả làm đốc suất. Quân Mạc thua chạy vào vùng Miên Khâu, Châu Lăng núi non hiểm trở. Đinh Văn Tả truy kích đến nơi, bắt được 800 quân Mạc. Mạc Kính Vũ bỏ chạy sang Trung Quốc.
Đinh Văn Tả nhờ công đó được phong Quận công. Đầu năm 1668, chúa Trịnh cử Tả làm kiêm trấn thủ mấy trấn vùng biên là Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Đến tháng 6 năm đó, được gia phong làm đô đốc.
Tháng 8 năm 1677, khi đã 74 tuổi, Đinh Văn Tả tiến quân đánh tan Mạc Kính Vũ một lần nữa ở Cao Bằng. Tả thân đốc các tướng 4 mặt đánh thành, phá vỡ quân địch, chém được mấy trăm quân Mạc. Mạc Kính Vũ bị thua trận, quân sĩ đều tan vỡ, chạy sang Long Châu (Trung Quốc). Từ đó Mạc Kính Vũ không trở về Cao Bằng được nữa, đất này trở về với nhà Hậu Lê.
Chúa Trịnh thấy Đinh Văn Tả tuổi cao, liền triệu về kinh, giao cho Đặng Công Chất thay chức trấn thủ Cao Bằng.
Vì có nhiều công lao, Đinh Văn Tả được gia phong làm thượng tể, ban cho ruộng 300 mẫu.
Ngày 4 tháng 5 âm lịch năm 1685, Đinh Văn Tả mất ở kinh đô Thăng Long, hưởng thọ 84 tuổi.
Đinh Văn Tả có hai bà vợ, là hai cô cháu trong một nhà họ Phạm. Bà vợ cả là con gái nhỏ của vị quan họ Phạm, bà vợ thứ là cháu gái vị đó, cả hai cô cháu cùng cưới một ngày. Bà vợ cả sinh được 3 trai 1 gái; bà vợ thứ sinh được 1 trai 1 gái. Hai người con rể ông đều làm quận công.
Con cháu Đinh Văn Tả đều làm quan cho nhà Hậu Lê:
*
Lại nói về Chúa Trịnh Bồng, sau khi thoát khỏi  vòng vây của Nguyễn Hữu Chỉnh (3) ở Quế Ổ thì đến Hàm Giang nương nhờ Đinh Tích Nhưỡng, đám lính già yếu cho về quê hết, chỉ giữ lại Toại và Châu cùng gần một trăm dũng sĩ khỏe mạnh. Nguyễn Đình Toại và Trần Quan Châu chỉ là thổ hào ở vùng Kinh Bắc nhưng dũng cảm hơn người. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra kinh thành, chúa Trịnh Bồng phải chạy về trấn Kinh Bắc thì Toại vâng mật chỉ của Chúa kêu gọi các thổ hào vùng Thuận Thành, Từ Sơn mộ quân nghĩa dũng để đánh lại Nguyễn Hữu Chỉnh…Khi Chỉnh đánh đến Quế Ổ, Toại và Châu đều đốc xuất quân chiến đấu rất ngoan cường khiến Chỉnh không dễ dàng tiến binh, phải cho quân bao vây Quế Ổ chờ thời cơ. Trong cuộc phá vòng vây Quế Ổ, Toại và Châu mỗi người lãnh 50 dũng sĩ, vừa tiên phong mở đường máu cho Chúa thoát vòng vây vừa chặn hậu, tả xung hữu đột không khác gì Triệu Tử Long cứu ấu chúa thời Tam Quốc!   
Toại và Châu đêm ngày ở bên cạnh Chúa, nửa bước không rời. Nhưỡng có ý không mặn mà với Chúa và không ưa hai viên tướng thường đứng hầu bên cạnh Chúa. Đối với Toại thì Nhưỡng ganh ghét là con nhà tướng; đối với Châu thì Nhưỡng khinh rẻ là kẻ bạch đinh. Hai người dò biết ý Nhưỡng, sợ có điều gì bất trắc, nên đều từ giã chúa và ra đi cùng một ngày.
Chúa thương cảm khóc lóc tiễn đưa hai người mà rằng:
- Đúng là "chết đuối vớ phải bọt", bám cũng không được, chẳng bao lâu nữa ta cũng đi thôi, giữ các ngươi lại làm gì cho nhục!
Chúa ở lại hơn 10 ngày, Nhưỡng không hề nói đến việc đại sự. Chợt một đêm, Nhưỡng tới chỗ chúa ở, nói:
- Hôm nay gió mát trăng thanh, vẻ thu rất đẹp, thần đã đem rượu lên thuyền chờ đợi, xin chúa đi chơi một lúc, ngắm xem phong cảnh, cho khuây khỏa.
Chúa tỏ vẻ sầu não mà rằng:
- Phong cảnh vẫn sông núi ruộng đồng ấy mà ngước mắt thấy non sông khác lạ. Ta chưa giết được quân thù, không thể cởi giáp mà ngủ. Bơi thuyền uống rượu ngắm trăng không phải là việc của ta ngày nay. Tướng quân hãy đi mà chơi!
Nhưỡng đi rồi, chúa tựa ghế ôm sầu, buồn khổ vô cùng, bảo bọn người hầu:
- Quan võ đều không thể tin cậy, bọn quan văn có hy vọng gì chăng?
Có người nói: “Quan Bình chương Trương Đăng Quỹ là người được Vua Lê quý trọng, chúa có thể nhờ cậy người này!”
Chúa bèn viết bức thư, sai người ngầm đưa cho quan Bình chương là Trương Đăng Quỹ. Thư nói rằng: "Kiếp này sinh ra không gặp thời, lại là lúc nhà nước lắm nạn; lạm dự vào dòng đích nhà chúa, rất lo cho việc tôn miếu xã tắc. Dâng biểu trần tình, may được hoàng thượng cho về triều kiến. Lúc mới về, chỉ muốn giữ lấy việc thờ phụng tổ tiên cho tròn đạo hiếu, thực không có bụng dạ nào khác. Sự thế đổi thay, lại bị chư tướng ép buộc, thành ra trái ý hoàng thượng. Lúc Chỉnh vào kinh, cung khuyết liền bị tiêu huỷ. Con chim bị mất tổ, bay quanh không biết nương nhờ vào đâu. Vì thế phải phiêu bạt giang hồ, không dám về nơi kinh khuyết. Nay Quế Ổ, mai Hàm Giang, chỉ vì lo tìm nơi trú ngụ, bèn vướng lấy hình tích chống chế triều đình, khiến kẻ ghét mình có cớ mà nói. Mảnh lòng kính thuận, không có cách nào thấu đến bề trên. Ông hãy dùng lời lẽ khéo léo, tâu bày giúp cho. Lần này, dù tiến dù lui, tuỳ theo mệnh lệnh của hoàng thượng".
Đăng Quỹ nhận thư ấy, liền đem tâu vua. Vua ngậm ngùi mà rằng:
- Tấm lòng thật thà của chúa, trẫm đã lường biết. Chỉ vì không khéo xử sự trong lúc tai biến nên mới đến nông nỗi này. Nay nếu đã nghĩ lại và biết hối lỗi, trẫm sẽ có cách đối đãi, chẳng những giữ được dòng dõi, mà cũng không mất địa vị giàu sang.
 Vua Lê bèn sai Đăng Quỹ làm sứ thần đi nghênh tiếp, đón chúa về triều.
*
Lúc đó, chúa ở Hàm Giang, nghe nói Nhưỡng và Chỉnh ngấm ngầm đi lại với nhau, nghi ngờ   chúng có mưu đồ gì khác, liền than rằng:
- Đây không phải là chỗ   có thể gửi gắm cả sinh mạng được. Ta thà liều chết vượt biển vào núi còn hơn là ngồi lại mà chịu nhục!
Rồi chúa sai người hầu bí mật mượn mấy chiếc thuyền buôn, đang đêm đem cả bọn người thân tín, thủ hạ, thuận gió giương buồm chạy thẳng tới Sơn Nam . Sáng hôm sau, Nhưỡng mới biết, lấy làm kinh sợ mà rằng:
- Chúa đi sang nam mà không nói gì với ta, phải chăng là có ý ngờ ta? Nếu không theo chúa, lòng này không sao bộc bạch ra được, thiên hạ sẽ cho ta là người muốn bức hại chúa, làm sao mà thanh minh đây?
Tức thì, Nhưỡng cũng lên chiếc thuyền binh chạy theo chúa.

*
Chúa đến huyện Chân Định thì có Phạm Tôn Lân lên thuyền yết kiến.
Lân quê ở làng Bác Trạch, huyện Chân Định (nay là huyện Kiến Xương, thuộc Thái Bình), vốn dòng dõi quan lại, có nhiều quân công; ông tổ đời trước là Phạm Tôn Nhậm, một danh tướng của Trịnh Doanh, khoảng đầu niên hiệu Cảnh Hưng từng lập được nhiều chiến công. Tính Lân hào hiệp, khách ăn trong nhà thường có hàng trăm, chẳng khác gì Mạnh Thường Quân(4) bên Tàu ngày xưa. Trong đám thổ hào của trấn Sơn Nam hạ, Lân là bậc nhất.
Lúc gặp chúa, Lân bàn việc binh, vạch chước tiến thủ rất mạch lạc. Chúa rất mừng, cầm tay Lân nghẹn ngào: “ Tiếc rằng ta gặp ngươi muộn quá! Ngươi hãy gắng giúp ta để nối công đức của tổ tiên ngày xưa!”.
Lân nói:” Thần vốn không có tài gì. May được nhờ oai linh của chúa, dám đâu không hết sức”.
Nói rồi Lân mời chúa về nhà, kêu gọi thêm đồ đảng, hộ vệ cho chúa.
Hôm sau, Nhưỡng cũng đã theo đến nơi. Trước hết. Nhưỡng sai người đưa một tờ khải cho chúa, trong nói:
"Nhà thần bao đời được đội ơn dày, một lòng với nhà chúa. Nay thần với Chỉnh, nói về tình tuy có quen thuộc, nhưng nói về thế thì không thể nào cùng phe. Cả nước ai cũng biết điều đó, thần dám có lòng nào để nhục đến tổ tiên đời trước, xin chúa soi xét cho, khiến thần có thể lập được chút công, bù lại lỗi trước...".
Chúa xem khải rồi hỏi ý Lân, Lân vốn nghe tiếng tăm của Nhưỡng, thường coi là tay cự phách xứ Đông, nay may được chung sức làm việc thì rất lấy làm mừng, nên cố khuyên chúa đem lòng thành thực mà dùng Nhưỡng để thêm thế lực. Chúa nghe lời, Lân lập tức tự mình ra đón Nhưỡng cùng vào gặp chúa. Do đó, hai người rất là tương đắc. Họ liền đưa hịch đi các phủ Thái Bình, Kiến Xương, Thiên Trường hẹn cùng hội quân đánh Chỉnh. Trong khoảng mười ngày, người theo về có đến vài vạn. Họ định ngày cùng tiến quân, thuyền bè kín mặt sông, thanh thế lừng lẫy. Nhiều người tin rằng, nghiệp chúa có thể tính từng ngày mà khôi phục. Con em nhà quan lúc trước, như bọn Đoàn Nguyễn Tuấn, Phạm Giáp, Nhữ Công Liêu, Đào Nhữ Toản cũng đều chiêu mộ người làng đến họp. Các xứ đông tây cùng nổi dậy trong một lúc.
Bấy giờ Trương Đăng Quỹ vâng mệnh đi đón chúa, đến huyện Tiên Hưng, đường bị nghẽn, phải trở lại.
Chợt có người từ kinh thành tới yết kiến chúa, nói rõ việc Chỉnh chuyên quyền kiêu ngạo, lòng người không phục, vua cũng nghi ngờ Chỉnh làm phản, và khuyên chúa nên nhân lúc lòng người hướng theo mà gấp rút tiến binh đánh Chỉnh.
Chúa Trịnh Bồng nói: “ Ta có viên tướng cũ là Bùi Nhuận, hiện ở kinh thành, coi quân Kim-ngô, lĩnh chức tứ thành đề lĩnh, có thể bảo y làm nội ứng. Chức trách của Nhuận là việc tuần phòng, chắc không ai nghi ngờ”.
Rồi chúa bèn sai người đưa mật chỉ cho Nhuận, bảo làm nội ứng. 
Tiếp chỉ, Nhuận liền bàn với người thân tín, đổi hết các quân canh giữ cửa ô. Con Hữu Chỉnh là
Bái Xuyên hầu dò biết việc đó, lập tức bắt Nhuận; rồi sai tướng của Chỉnh là Nguyễn Viết Tuyển hiện làm chức trấn thủ Sơn Nam đem quân bản bộ đánh chúa Trịnh Bồng. 
Quân thuỷ của Tuyển tới sông Ngô Đồng (thuộc huyện Giao Thuỷ , Nam Định ) mà lính bộ chưa đến cửa Đại Hoàng (thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình), có người dò biết về báo với chúa. Nhưỡng đem hai chục thuyền biển lớn nhất, dàn ngang sông thành trận chữ "nhất", trên đầu thuyền bày đặt các thứ súng, trông như bức thành. Quân Tuyển đến đánh, vì thuyền nhỏ không thể chống cự, nhiều chiếc bị súng Bảo long bắn chìm xuống sông. Tuyển sợ, định lui giữ mạn sông Hoàng Giang (thuộc phủ Lý Nhân, Hà Nam ) để cùng bộ binh nương tựa lẫn nhau. 
Thình lình có gió đông nam nổi lên, Nhưỡng liền sai các hải thuyền tản ra, ghé sát vào hai bờ, rồi buộc thuyền lại mà lên bộ. Tiếp đó Nhưỡng chỉ huy quân lính từ trên bờ theo chiều gió bắn xuống thuyền quân của Tuyển. Nhưng quân của Nhưỡng toàn là quân ô hợp, đứng, ngồi, tiến, lui chưa quen hiệu lệnh, lại hờ hững không có chí chiến đấu; nên sau khi lên bộ, hàng ngũ lộn xộn, chẳng ra sao. Tuyển ở dưới sông trông thấy vậy, liền hô to: “Quân Nhưỡng thua rồi!”.
Thế là quân của Nhưỡng đâm nghi hoặc, rồi hoảng sợ, tan vỡ, đua nhau cướp đường mà chạy, giày xéo lẫn nhau, không sao ngăn cấm được nữa. Thuyền bè bỏ bừa ven sông, đều bị quân Tuyển bắt được.
Quân Lân ở sau, trông thấy quân của Nhưỡng thua chạy tan tác, lại nghe nói Nhưỡng đã bị giặc giết rồi, nên đều kinh sợ. Lân cũng không thể điều khiển được quân lính nữa, thế là cùng lúc ấy, đám quân tan vỡ luôn. Lân bèn hộ vệ chúa, lên một chiếc thuyền, xuôi dòng chạy sang phủ Thái Bình. Chừng nửa đêm, đến huyện Đông Quan, chợt nghe tiếng súng đùng đùng, giống như hiệu lệnh hành quân. Có người bảo quân Tuyển đuổi theo. Có người ngờ là bọn kẻ cướp. Sau Lân sai người đi dò, mới biết đó là quân của Trần Mạnh Khuông. 
Trần Mạnh Khuông là một hào mục ở huyện Đông Quan, gia tư giàu có, lại có nghĩa khí. Khi mới tiếp được tờ hịch, lập tức tụ tập quân lính trong huyện để hưởng ứng việc nghĩa, hẹn ngày hôm ấy xuất quân ra đi. Lúc này quân Khuông đóng ở Bái Hạ, cách đấy không xa.
Nghe nói, chúa bèn vội vàng sai người đến gọi Khuông. Khuông theo sứ giả tới yết kiến, chúa nói: “Quả nhân tài hèn, đức kém, không biết tự lượng sức mình, hễ hành động gì liền bị vấp ngã. Bây giờ nên làm thế nào?”. Khuông nói: “Thắng bại là sự thường tình của nhà binh, dù là đạo quân thắng trận luôn, cũng phải có một lúc thua trận. Cho nên tướng giỏi đời xưa trước hết phải xem hình thế, đắp doanh luỹ, chứa lương thực, phòng bị sẵn những khi xảy ra việc cần kíp, làm cho khi tiến có thể đánh, khi lui có thể giữ. Đó chính là cái kế vẹn toàn, không làm gì đến nỗi thua một trận mà đã đầu hàng. Ở huyện tôi có làng Bái Hạ, bốn mặt đều là đồng lầy, phía trước có sông lớn chặn ngang, chỉ có một lối ra vào, lại có khe nhỏ quanh co thông với con sông, có thể dùng để chuyển vận quân lương. Cuộc loạn lạc năm trước, địa phương đây ở vào chỗ xung yếu của hai vùng đông và nam, nên tôi đã cho sửa sang lại, nay hào thành đều đã bền vững. Chỉ hiềm luôn mấy năm mất mùa, thóc lúa tích trữ chưa được đầy đủ mà thôi. Xin chúa hãy tạm dời xa giá về đó, rồi thong thả sẽ tính chuyện sau”.
Chúa Trịnh nghe theo, bèn phong cho Lân làm quân phủ trưởng sử. Khuông làm chức hành doanh sứ, dẫn quân vào đóng ở ấp Bái Hạ.
Ở Bái Hạ mới được vài ngày, Khuông sai người đi trưng thu lương thực chưa về, thì Chỉnh đã lại sai Nguyễn Như Thái đem lính bộ đến, hợp với quân của Tuyển, hai đường thuỷ bộ tiếp nhau, hai mặt trước sau đánh dồn lại. Trong đồn dựa vào tình thế hiểm yếu mà giữ, quân Chỉnh đánh luôn mười ngày không hạ được. Tuyển bèn đắp luỹ dài để tuyệt đường lương thực của quân chúa. Quân chúa hết lương đến nỗi phải đào cả củ chuối mà ăn, tình thế rất là nguy khốn.
Lân và Khuông liền nói vơi các thủ hạ rằng:
- Ngồi đây để làm con ma chết đói của làng Bái Hạ, sao bằng quyết một trận tử chiến, giết lấy vài trăm tên giặc cho sướng tay? Các ngươi ai là người có thể chung lòng góp sức với ta, để ta khỏi mang tiếng phụ chúa mà các ngươi cũng không mang tiếng phụ ta. Dẫu có chết còn được làm con ma trung nghĩa. May mà không chết, rồi đây công lao sự nghiệp sẽ không biết đến đâu mà lường!
Mọi người nghe nói đều cảm động, có hơn trăm người xin theo. Đêm đến, bốn bề đã vắng lặng, họ bèn cưỡi thuyền nan, theo đường khe mà đi ra. Nhân lúc Tuyển và Thái sơ ý, họ liền phóng hoả đốt doanh trại. Hai người hoang mang không kịp chống cự. Lân và Khuông tức thì phá vỡ vòng vây, đem chúa ra, cướp mấy chiếc thuyền, rồi theo cửa biển chạy thẳng về phía đông. Tuyển đem quân đuổi theo, nhưng không kịp. Thái thả quân vào làng Bái Hạ, chém giết lung tung, trai, gái, già, trẻ, không sót lại một người. Từ khi dấy cuộc binh đao tới lúc này, không chỗ nào không có nạn chém giết, nhưng chưa có đâu bị chém giết thảm hại như ở đây.
 Lại nói, sau trận thua ở sông Ngô Đồng, Nhưỡng một mình chạy về phía đông, thuyền bè và đồ quân dụng bỏ mất gần hết.
 Đến khi đồn Bái Hạ bị vỡ, chúa chạy về Hải Dương, lại cùng bọn Lân vượt biển tới đất Quảng Yên, giả làm khách buôn, chia nhau ở trọ trong các nhà dân ở châu Vạn Ninh (nay là đất Móng Cái ). Chẳng bao lâu, Lân vì có việc nhà, cáo từ xin về, người theo hầu chúa chỉ còn lại Mạnh Khuông mà thôi. Sau đó hơn một tháng, Khuông lại mắc bệnh, rồi chết. Lúc bấy giờ, bên cạnh chúa không còn có ai, chúa một mình sống ẩn khuất ở vùng ven biển, tình cảnh rất là thương tâm mà không ai hay biết.
Chúa nghĩ bụng: "Giầu sang ở kiếp phù sinh, đều là cảnh mộng. Bởi vậy, ngày xưa đã có người xin thề đời đời đừng sinh vào nhà đế vương... Phật thương hết thảy chúng sinh bị chìm đắm trong biển khổ. Óc Người thông suốt, ý kiến Người thông suốt, thật như gương sáng muôn đời. Từ lúc ta ở trọ đất Chương Đức đã có ý nghĩ như thế. Bây giờ nên quay đầu lại là hơn".
Thế rồi chúa Trịnh Bồng gột sạch ma chướng ở đời, tự xưng là Hải đạt thiền sư, dạo khắp các chùa ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng. 
*
Bấy giờ có người học trò đất Kinh Bắc tên là Vũ Kiền, chạy loạn lên ở Lạng Sơn. Một hôm Kiền gặp Hải đạt thiền sư ở chùa Tam Giáo, nhân trong lúc đàm kinh thuyết pháp, Kiền ngầm biết đó là chúa, bèn báo với bọn phiên thần ở đó là Hà Quốc Ký, và Nguyễn Khắc Trần .
Hai người bèn vờ nói là có việc làm cơm chay, đón Hải đạt thiền sư về nhà, rồi đuổi hết người nhà ra mà bảo với nhà sư rằng:
- Chúng tôi nối đời làm bề tôi ở chốn biên cương, ở xa vẫn mến oai đức của triều đình, thường chỉ nghe người ta nói vua Lê chúa Trịnh như tiếng sấm ở trên trời. Nếu như thiên hạ vô sự, bọn chúng tôi làm sao được nhìn thấy chúa. Gặp lúc nhà nước có nạn, xe chúa phải tới nơi biên ải, thần dân ai cũng đau lòng. Đây chính là dịp cho kẻ trung thần nghĩa sĩ trổ tài kinh luân. Vậy chúng tôi xin rước chúa về ở Đoàn Thành (tức thành trấn Lạng Sơn), xướng nghĩa cả, để lo việc chấn hưng oai linh xưa, phục dựng lại sơn hà xã tắc. Nhờ vào hồng phúc của chúa, thành được việc lớn thì lũ tù trưởng nhỏ mọn ở xứ mọi rợ này mới có cơ may được dự vào hàng cuối ở vân đài (*) , ấy là ý nguyện của chúng tôi.
Nhà sư nhắm mắt chắp tay, khoan thai trả lời:
- Bần tăng xuất gia theo Phật, không can dự gì đến việc đời đã lâu. Các ông chớ có nhận lầm, khiến cho đương lúc yên lặng, lại sinh ra bao nhiêu nỗi phiền não. Trong thiên hạ, ai là vua, ai là chúa, đã có mệnh trời; bần tăng chỉ biết một lọ một bát, tu hành ở cửa thiền, làm môn đồ đức Phật Như lai mà thôi.
Vũ Kiền lúc ấy cũng thưa rằng:
- Thần tuy chưa được vào chầu phủ chúa, nhưng khi du học ở kinh sư cũng đã từng nhìn trộm dung nhan của chúa. Người trong nước còn có lòng ấy, chúa cũng không nên từ chối. Thần nghe nói, nghiệp vương phải khó nhọc, không thể ngồi yên mà có được. Bởi vậy, Quang Võ đã phải bạc cả tóc đầu, Tiên chúa (Quang Võ là vua đầu nhà Đông Hán. Tiên chúa tức Lưu Bị, là vua nhà Thục thời Tam quốc) thì phải mòn hết thịt vế. Những cơn nguy hiểm ở Quế ổ và Bái Hạ gần đây, cũng giống việc Tuy Thuỷ, Hô Đà đời Hán (**), chỉ vì không nản chí, không ngã lòng, rốt cuộc họ đã làm nên nghiệp lớn. Thần chưa từng bao giờ thấy ai đường đường là một vị vương giả mà lại lui về làm nhà sư nhàn hạ. Xin chúa hãy nghĩ lại!
Nhà sư khóc và nói:
- Cái cảnh "Thử ly","Mạch tú" (***) ở đâu cũng đều cảm động. Ta không phải là gỗ đá, sao có thể làm ngơ. Nhưng đã biết sức của ta, mà vẫn không thể dành được với trời, nên đành phải nín nhịn để giữ lấy mình, đâu còn dám làm càn để lại lầm lẫn lần nữa?
Chúa đã nói lộ bản tướng, liền bị mọi người vin lấy mà bắt buộc phải truyền sắc lệnh ra để điểm quân, thu lương.
Bọn Ký và Trần đều là kẻ tầm thường, không nghiêm cấm nổi thủ hạ, để chúng làm bừa những việc phi pháp. Nhân dân không thể chịu đựng được, họ bèn nổi lên làm loạn, giết bọn Ký và Trần, rồi đuổi chúa đi. Chúa chạy về đất Hữu Lũng (nay thuộc Lạng Sơn) rồi từ đó ẩn khuất trong chốn thâm sơn cùng cốc, không ai còn thấy mặt chúa ở đâu nữa.
Họ Trịnh từ Thái vương là Trịnh Kiểm thụ phong, truyền đến Thịnh vương là Trịnh Sâm, vừa được tám đời thì xảy ra biến loạn. Rồi đến Đoan nam vương là Trịnh Khải, Án Đô vương là Trịnh Bồng thì nghiệp chúa hết (****).
Xét trong địa ký chép về đất phát tích của tổ tiên họ Trịnh có lời tiên đoán rằng:
" Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ ".
Quả nhiên, sự hưng thịnh rồi suy vong của Chúa Trịnh đúng là như vậy! ./.
Sài Gòn, tháng 7-2010
Đỗ Ngọc Thạch 
-----
(*) Vân đài : Vân Đài có nghĩa “Đài cao chạm mây”, nơi vua Minh đế nhà Hán sai vẽ hình 28 vị công thần có công gây dựng Nhà Hán.
(**) Tuy Thủy, Hô Đà : Theo Hán thư, sau khi Hán vương là Lưu Bang vào chiếm Bành Thành, Sở vương là Hạng Võ đem quân trở về, phá tan quân Hán trên sông Tuy Thuỷ và vây Hán vương ba vòng, may gặp có gió lớn nổi lên, thổi tan quân Sở, Hán vương mới chạy thoát. Cũng theo Hán thư: Khi vua Quang Võ đi đến trạm Khúc Dương, phía sau có quân Lương Vang theo đuổi, mọi người đều kinh sợ. Quang Võ cho người đi dò đường thì họ nói, trước mặt có sông Hô Đà nước chảy mạnh lắm, không thể qua được. Quang Võ lại bảo Vương Bá đi xem lại. Vương Bá e quân lính hoảng sợ, bèn nói dối là ở sông băng giá đóng rất chắc, có thể đi qua được. Quang Võ bèn bảo Bá hộ vệ mình qua sông, nhưng mới qua được mấy người thì băng đã tan. Ở đây, mượn hai điển tích này để nói làm nên nghiệp lớn thế nào cũng phải trải qua nhiều gian nan, nguy hiểm thì mới đi tới thành công.
 (***) Thử ly, Mạch tú: Thử ly là một bài thơ trong Kinh Thi nói về cảnh cung điện nhà Chu bị tan hoang thành ra ruộng lúa. Mạch tú là bài hát của Cơ tử nói về việc nhà Thương mất nước, cung điện thành ruộng cấy lúa mạch: ở đây chỉ cảnh tang thương của họ Trịnh.
(****) Chúa Trịnh: Chúa Trịnh (1545 - 1787) là tập đoàn phong kiến kiểm soát quyền lực nhà nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê, khi nhà vua không có thực quyền vẫn được duy trì ngôi vị. Bộ máy triều đình lúc này hoạt động theo thể chế lưỡng đầu . Các đời chúa Trịnh tồn tại trong 243 năm (1545-1787), trải qua 12 đời chúa.
Người mở đầu sự nghiệp của họ Trịnh là Trịnh Kiểm, người huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tương truyền thuở nhỏ nhà Trịnh Kiểm nghèo, mẹ thích ăn gà nên ông thường bắt trộm gà của hàng xóm cho mẹ ăn. Hàng xóm rất ghét, nhân khi Trịnh Kiểm đi vắng bèn bắt mẹ ông ném xuống vực. Trịnh Kiểm về không thấy mẹ đâu bèn đi tìm, đến vực tìm ra xác mẹ thì mối đã xông đầy lên rồi. Sau có ông thày tướng đi qua chỉ vào ngôi mộ mẹ Trịnh Kiểm đọc rằng:
Phi đế phi bá /Quyền khuynh thiên hạ
Truyền tộ bát đại / Tiêu tường khởi vạ
(Chẳng đế chẳng bá / Quyền nghiêng thiên hạ / Truyền được tám đời/ Trong nhà dấy vạ)
Mẹ mất, nghe tin Nguyễn Kim nổi dậy dựng lại nhà Lê, Trịnh Kiểm bèn đến xin gia nhập. Nhờ tài năng, ông được Nguyễn Kim tin cậy và gả con gái là Ngọc Bảo cho. Nǎm 1539 ông được phong làm Đại tướng quân, tước Dực quận công. Năm 1545, Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền, được phong làm thái sư nắm toàn thể quân đội.

“Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ”:

Nắm quyền trong triều đình Nam triều nhà Lê, trước hết Trịnh Kiểm lo đối phó với các con của Nguyễn Kim để củng cố quyền lực: đầu độc giết con cả của Kim là Nguyễn Uông. Người con thứ là Nguyễn Hoàng sợ hãi xin xuống trấn giữ vùng Thuận Hóa – Quảng Nam ở phía Nam . Trịnh Kiểm cho rằng giết cả hai anh em Hoàng sẽ mang tiếng, mà Thuận - Quảng là nơi xa xôi, “ô châu ác địa” nên bằng lòng cho Hoàng vào đó để mượn tay nhà Mạc giết Hoàng. Từ đó Trịnh Kiểm nắm toàn bộ quyền hành của nhà Lê, xây dựng sự nghiệp cho họ Trịnh.
Năm 1556, vua Lê Trung Tông mất sớm không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê, nhưng còn do dự sợ dư luận, bèn sai người tìm đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm bấy giờ đang ẩn dật. Nghe theo lời khuyên của Trạng Trình (“ Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản ”), Trịnh Kiểm bèn đi tìm được người trong tôn thất nhà Lê là Lê Duy Bang, cháu 5 đời của Lê Trừ (anh Lê Thái Tổ), lập làm vua, tức là Lê Anh Tông. Từ đó họ Trịnh nối đời cầm quyền nhưng danh nghĩa vẫn tôn phò, làm bề tôi cho nhà Lê, hai họ sống chung trong cơ chế lưỡng đầu. Bởi vậy người đời truyền lại câu: “ Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong.
Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh quyền. Hai anh em dàn quân đánh nhau. Cùng lúc đó quân Mạc từ bắc kéo vào. Trịnh Cối bị kẹp giữa hai đường không thể cự nổi bèn đầu hàng nhà Mạc, được nhà Mạc thu nhận và phong chức.
Bản ý của vua Lê Anh Tông là ủng hộ ngôi con trưởng của Trịnh Cối, do đó mâu thuẫn với Trịnh Tùng. Vua Anh Tông mang 4 người con lánh đi nơi khác. Trịnh Tùng lập người con út của vua là Đàm lên ngôi, tức là Lê Thế Tông. Sau đó, Trịnh Tùng lùng bắt được cha con vua Anh Tông mang về lập mưu giám sát, rồi bức chết. Từ đó vua Lê hoàn toàn nép trong cung, Trịnh Tùng tự mình xử trí mọi việc trong triều. Các vua Lê sau có ý định chống lại đều bị xử tử và thay thế bằng một hoàng đế nhỏ tuổi hoặc dễ bảo hơn.
.Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Mạc Mậu Hợp thua chạy về Kim Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con là Toàn lên ngôi, tự mình làm tướng thống suất quân đội. Sau các cuộc chiến ác liệt tại khu vực các phủ Nam Sách, Hạ Hồng, Kinh Môn trong tháng 11 và 12 thì quân Mạc thua to. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn, bị bắt sống sau đó ít ngày và bị hành hình.
Sau vài cuộc chiến khác chống lại các thế lực tàn dư nhà Mạc, Trịnh Tùng rước vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long năm 1593. Họ Trịnh đánh dấu quyền lực bằng cách tiến hành xây Phủ Chúa ở Thăng Long.

“Truyền tộ bát đại, tiêu tường khởi vạ”:

Họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm là truyền được 8 đời chúa. Năm 1782, Trịnh Sâm qua đời. Ngay từ khi Sâm còn sống đã diễn ra cuộc tranh giành ngôi thế tử giữa con trưởng Trịnh Tông và con thứ Trịnh Cán. Cán còn nhỏ nên thực chất đó là phe Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Tuyên phi lôi kéo quận Huy là Hoàng Đình Bảo (cháu Hoàng Ngũ Phúc). Vì Tuyên phi được sủng ái nên Trịnh Cán được lập làm thế tử. Khi Sâm mất, Trịnh Cán lên thay, quận Huy phụ chính. Quân kiêu binh giúp Trịnh Tông làm binh biến giết chết quận Huy, phế bỏ Trịnh Cán và đưa Tông lên ngôi chúa, đổi tên là Khải.
Trịnh Khải và Trịnh Bồng dù không đủ năng lực nhưng cũng là những người biết cách rút lui . Trịnh Khải tự vẫn không để mình lọt vào tay Tây Sơn, Trịnh Bồng bỏ đi mai danh ẩn tích khi biết dòng họ mình không còn đủ uy tín để giữ ngôi cai trị. Không ai trong họ Trịnh đi cầu viện nước ngoài như những người đứng đầu các tập đoàn song song tồn tại khi đó là Nguyễn Phúc Thuần (định cầu viện nhà Thanh), Nguyễn Ánh (cầu Xiêm, Pháp, Bồ), Lê Chiêu Thống (cầu viện Thanh). Các tập đoàn phong kiến Lê và Trịnh gần như cùng mất một thời điểm nhưng cách rời bỏ vũ đài chính trị của họ Trịnh không giống với họ Lê.
(***) Vân Đài : Vân Đài có nghĩa “Đài cao chạm mây”, nơi vua Minh đế nhà Hán sai vẽ hình 28 vị công thần có công gây dựng Nhà Hán.
  (1) Trịnh Bồng là con Trịnh Giang, bác họ của Trịnh Tông. Lúc đầu Bồng được phong làm Côn quận công. Trịnh Tông thua, Trịnh Bồng lánh nạn ở huyện Văn Giang (Hải Dương) chiêu tập binh mã đợi thời cơ. Khi Nguyễn Huệ cùng anh là Thái Ðức Nguyễn Nhạc rút về Nam, Trịnh Lệ liền đem quân qua đò Thanh Trì kéo về chiếm lại phủ chúa. Ðang đêm, Trịnh Lệ cho nổi trống triệu tập triều quan đến bàn việc lập Lệ lên ngôi chúa. Việc hấp tấp vội vàng đã không thành. Vua Lê, sau khi gắn bó với Tây Sơn không muốn chia quyền cho họ Trịnh như trước nữa, quan hệ giữa Vua Lê và Trịnh Lệ rất căng thẳng, Trịnh Lệ định mưu thoán nghịch.
Giữa lúc ấy, một số người thân cận xui Trịnh Bồng viết biểu xin về chầu vua. Trịnh Bồng bấy giờ đã 40 tuổi, tính nết hiền từ, khoan hậu được nhiều người mến mộ. Cuối đời, Trịnh Sâm, vì việc lập con trưởng, con thứ khó quyết, có lúc Sâm định lập Trịnh Bồng để trả lại ngôi chúa cho anh con nhà bác. Vì thế Sâm cho Thị Huệ nuôi Trịnh Bồng đề phòng thay Cán nếu Cán mệnh mệt. Trịnh Tông lên ngôi, kiêu binh mấy lần muốn phò Côn Quận Công Trịnh Bồng, đã vào tận nhà để thúc ép và đón rước, Bồng đã một mực từ chối. Lúc quân Tây Sơn kéo ra, Bồng chỉ đem theo một đứa ở, một tên lính lánh vào huyện Chương Ðức, có tính chuyện đi tu. Biết Trịnh Lệ làm nhiều điều ngang ngược, trái phép, một số quan tìm gặp, khuyên Trịnh Bồng về triều giúp vua. Thấy Trịnh Bồng vào triều, triều thần theo giúp, thanh thế Trịnh Bồng ngày càng lớn. Bồng chưa có ý lấn quyền vua Lê nhưng do bộ hạ thúc giục nên đã nghe theo.
Bồng đến chầu, vua muốn Bồng trở về nhà cũ, phong làm Tiết chế thuỷ bộ chủ quân, Bình chương quân quốc trọng sự, Thái uý Côn quận công, cấp 3000 tên lính, 5000 mẫu ruộng và 200 xã dân tộc để phụng thờ họ Trịnh. Bọn Ðinh Tích Nhưỡng lại muốn Trịnh Bồng làm vương tại
phủ chúa đời chúa trước kia nên đã nhiều lần gan lì sang xin vua phong vương cho Trịnh Bồng. Ngược lại, vua Lê kiên quyết từ chối. Cuối cùng do sức ép của Ðinh Tích Nhưỡng kẻ nắm binh quyền, bất đắc dĩ, vua phải y theo, phong Bồng làm Nguyên soái, tổng quốc chính, Án Ðô vương.
 
Trịnh Bồng nhu nhược, lười biếng, không điều khiển được công việc, do đó chính sự lại lọt vào tay Ðinh Tích Nhưỡng. Chúng khuyên Bồng lập lại phủ chúa như xưa, phủ chúa thành một triều đình riêng. Từ đó, vua và chúa ngày càng mâu thuẫn. Vua Lê định cầu viện quân ngoài trấn vào kinh dẹp Trịnh, Trịnh Bồng biết, doạ giết, lập vua khác. Tình thế hết sức nguy khốn. Vua Lê buộc phải cho vời Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An cho quân về giúp. Quân Chỉnh vào Thăng Long một cách dễ dàng. Tướng lính Trịnh bỏ chạy. Họ Trịnh từ Thái vương Trịnh Kiểm truyền đến Trịnh Sâm vừa được 8 đời thì xảy ra biến loạn, đúng với lời phán đoán về đất phát tích của tổ tiên họ Trịnh. Ðến án Ðô vương Trịnh Bồng thì nghiệp chúa hết.
Trịnh Bồng chạy thoát, dâng biểu về cho Lê Chiêu Thống viết:
"Kiếp này sinh ra lỗi thời, gặp lúc nước nhà lắm nạn, rất lo cho việc tôn miếu xã tắc. Dâng biểu trần tình, rất mong được hoàng thượng cho triều kiến..."
Vua Chiêu Thống ngậm ngùi:
Tấm lòng thật thà của Bồng, trẫm đã lường biết, chỉ vì không khéo xử sự trong lúc gặp biến cố nên mới ra nỗi như thế. Nếu đã nghĩ lại và biết hối, trẫm sẽ có cách đối đãi, chẳng những giữ được dòng dõi mà cũng không mất địa vị giàu sang.
Nguyên lúc đó vua Chiêu Thống bị Hữu Chỉnh lộng quyền, không làm gì được nên lại có ý hợp tác với Trịnh Bồng. Tuy nhiên, khi Chiêu Thống sai người đi đón ông, Nguyễn Hữu Chỉnh hay tin, mang quân đánh tan quân của Đinh Tích Nhưỡng. Nhưỡng thua nặng, không còn thủ hạ, binh khí, bỏ chúa mà chạy. Trịnh Bồng phải sống lẩn lút ở ven biển và cuối cùng ông bỏ đi tu, tự xưng là Hải Đạt thiền sư , đi khắp vùng Lạng Sơn, Cao Bằng…
(2) Đinh Tích Nhưỡng : quê làng Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Ông là tướng cuối đời Hậu Lê, giỏi về thủy chiến. Được vua Lê và chúa Trịnh ưu đãi, ông phục vụ tận tâm, được phong tước Liễn Trung Hầu, rồi thăng Liễn Quận công. Khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc lần thứ nhất, ông đem thủy quân ra phía cửa Luộc. Nhưng trước sức tấn công của nghĩa quân Tây Sơn, phải bỏ thuyền mà chạy. Về sau ông trở mặt làm phản vua Lê Chiêu Thống, góp phần làm cho cơ nghiệp nhà Lê đổ nát.
  Đinh Văn Tả (1602-1685) là tướng nhà Hậu Lê, người làng Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, lập nhiều công trạng từ thời Trịnh Tạc tới Trịnh Căn.
Năm 1645, hai con thứ của Trịnh Tráng là Trịnh Lịch đang trấn thủ Sơn Tây và Trịnh Sầm đang trấn thủ Hải Dương , muốn tranh ngôi thế tử với Trịnh Tạc, nhân lúc cha bị ốm bèn dấy quân khởi loạn. Thế tử Trịnh Tạc bèn cầm quân đi đánh. Đinh Văn Tả được cử làm tiên phong. Trịnh Lịch và Trịnh Sầm chia quân cắt quân Trịnh Tạc làm đôi. Trịnh Tạc phá được vây ra trước. Đinh Văn Tả bị hãm trong trận, hai người con bị tử trận. Tả liều chết chém 18 quân địch khiến quân địch phải dãn ra. Trịnh Tạc thấy Văn Tả còn sống bèn mang quân quay lại cứu, đánh tan quân địch, bắt được Trịnh Lịch, còn Trịnh Sầm trốn vào Ninh Giang, sau cũng bị bắt nốt. Cả hai đều bị xử chém.
Năm 1647, có quân thổ phỉ ở Đông Hải quấy phá. Đinh Văn Tả được làm Đô tổng binh, giữ việc trấn thủ Yên Quảng, dẹp được quân thổ phỉ.
Năm 1667, chúa Trịnh mang quân đánh Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng, Đinh Văn Tả làm đốc suất. Quân Mạc thua chạy vào vùng Miên Khâu, Châu Lăng hiểm trở. Đinh Văn Tả mang quân truy kích đến nơi, bắt được 800 quân Mạc. Mạc Kính Vũ bỏ chạy sang Trung Quốc.
Đinh Văn Tả nhờ công đó được phong làm quận công. Tháng 2 năm 1668, chúa Trịnh cử ông làm kiêm trấn thủ mấy trấn vùng biên là Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Đến tháng 6 năm đó, liền được gia phong làm đô đốc.
Năm 1677, khi đã 75 tuổi, Đinh Văn Tả tiến quân đánh tan Kính Vũ một lần nữa ở Cao Bằng. Ông thân đốc các tướng 4 mặt đánh thành, phá vỡ quân địch, chém được mấy trăm quân Mạc. Mạc Kính Vũ bị thua trận, thủ hạ đều tan vỡ, chạy sang Long Châu (Trung Quốc). Từ đó Mạc Kính Vũ không trở về Cao Bằng được nữa, đất này trở về với nhà Hậu Lê.
Chúa Trịnh thấy Đinh Văn Tả tuổi cao, liền triệu ông về kinh, giao cho Đặng Công Chất thay ông trấn thủ Cao Bằng.
Vì có nhiều công lao, Đinh Văn Tả được gia phong làm thượng tể, ban cho ruộng 300 mẫu.
Ngày 4 tháng 5 âm lịch năm 1685, Đinh Văn Tả mất ở kinh đô Thăng Long, hưởng thọ 84 tuổi.
Đinh Văn Tả có hai bà vợ, là hai cô cháu trong một nhà họ Phạm. Bà vợ cả là con gái nhỏ của vị quan họ Phạm, bà vợ thứ là cháu gái vị đó, cả hai cô cháu cùng cưới một ngày. Bà vợ cả sinh được 3 trai 1 gái; bà vợ thứ sinh được 1 trai 1 gái. Hai người con rể ông đều làm quận công.
Con cháu Đinh Văn Tả đều làm quan cho nhà Hậu Lê:
(3) Nguyễn Hữu Chỉnh:   (?-1787) là tướng nhà Hậu Lê. Người huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, Trấn Nghệ An, nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất, Chỉnh đã bày mưu cho Nguyễn Huệ “phò Lê diệt Trịnh” thành công, còn làm mai mối cho Nguyễn Huệ cưới Ngọc Hân Công chúa…
  Vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) không muốn Nguyễn Huệ đánh ra Bắc Hà nên thân hành ra Bắc gọi em về. Nguyễn Huệ biết Nguyễn Hữu Chỉnh là người dễ thay lòng đổi dạ nên không muốn dung nạp, lập kế đột ngột rút quân về nam. Nguyễn Hữu Chỉnh biết người ở Bắc Hà ghét mình (vì dẫn đường cho quân Tây Sơn), sợ bị họ giết nên khi phát hiện quân Tây Sơn rút đi, Chỉnh vội vã chạy theo. Nguyễn Huệ thấy vậy liền sai Chỉnh trấn thủ Nghệ An là đất giáp ranh giữa Tây Sơn và đất nhà Lê.
Ở Bắc Hà sau khi Tây Sơn rút, các tướng ủng hộ họ Trịnh như Ðinh Tích Nhưỡng Hoàng Phùng Cơ, Dương Trọng Tế nổi dậy, dựng Trịnh Bồng làm chúa mới, tức là Án Ðô Vương, lại lấn át vua Lê mới là Chiêu Thống (cháu nội Hiển Tông).
Vua Lê nghe theo lời các văn thần, liền sai người vào Nghệ An mời Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp họ Trịnh. Được danh chính là lời gọi của vua Lê, Chỉnh chiêu tập hơn 1 vạn quân,Bắc tiến như chẻ tre. Quân Trịnh do Phan Huy Ích chỉ huy nhưng bị Chỉnh đánh bại, Ích bị Chỉnh bắt sống. Sau đó quân Chỉnh tiến thẳng ra Thăng Long, các tướng Trịnh thua trận bỏ chạy, Án Ðô Vương   Trịnh Bồng bỏ đi mất tích. Chiêu Thống sai đốt phủ chúa. Họ Trịnh từ đó không quay lại ngôi vị được nữa.
Dẹp xong chúa Trịnh, Nguyễn Hữu Chỉnh được vua Chiêu Thống phong là Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Ðại Tư Ðồ, Bằng Trung công.
Các tướng họ Trịnh cũ vẫn hoạt động chống lại nhà Lê. Nguyễn Hữu Chỉnh một tay lần lượt đánh bại và giết cả Đinh Tích Nhưỡng, Dương Trọng Tế và Hoàng Phùng Cơ. Cả Bắc Hà khi đó không còn đối thủ, Nguyễn Hữu Chỉnh cậy quyền thế lại coi thường lấn át vua Lê...
(4) Mạnh Thường Quân: Mạnh Thường quân tên thật là Điền Văn ( 田文 ), người nước Tề, làm Tướng quốc nước Tề thời Chiến Quốc, và là một trong Tứ Công tử Chiến Quốc. Điền Văn là con Tướng Quốc Điền Anh. Ông là một người giàu có, lại có lòng nghĩa hiệp, thích chiêu hiền đãi sĩ, văn cũng như võ trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi đến vài nghìn tân khách. Tiếng tốt đồn vang khắp các nước chư Hầu thời bấy giờ.
Hiện nay, trong tiếng Việt, danh từ Mạnh Thường Quân dùng để chỉ những vị giàu có, đầy lòng nghĩa hiệp, thường đóng góp nhiều cho các hoạt động từ thiện../.

Thứ Hai, 14 tháng 5, 2012

Chùm truyện mini; Quận He - Đỗ Ngọc Thạch

Chùm truyện mini Đỗ Ngọc Thạch    

1. CÔ  GÁI  VÙNG  CAO

Con gái vùng cao khác con gái đồng bằng, thành thị là đương nhiên rồi. Nhưng khác như thế nào thì ít người nói trúng và nói hết. Ca khúc Sơn Nữ ca của nhạc sĩ Trần Hoàn hay thật nhưng cũng chỉ  nói được phần nhỏ mà thôi! Có ba “Nhà” khá nổi tiếng rủ nhau lên vùng sơn cước với quyết tâm sẽ “Nói” bằng hết bí ẩn của Sơn Nữ trong chỉ một tác phẩm của mình!...
Người thứ nhất là họa sĩ, mới tới “Cửa rừng” của vùng sơn cước đã bắt gặp một thiếu nữ rất xinh đẹp. Sau khi ước lượng số đo của cả ba vòng của sơn nữ cửa rừng, họa sĩ mời cô gái làm người mẫu và hi vọng sẽ có bức tranh “Sơn Nữ” tuyệt vời. Cô gái sơn nữ cửa rừng đồng ý làm người mẫu cho họa sĩ nhưng chưa kịp thực hiện thì có cuộc thi tuyển người mẫu thời trang  và cuộc thi Hoa hậu miền sơn cước. Và thật bất ngờ, cô gái trúng á khôi ở cả hai cuộc thi và thế là họa sĩ “mất mối làm ăn”, đành ôm hận phục thù mười năm chưa muộn!
Còn hai người kia, một là nhà thơ, một là nhà văn, đi thêm một ngày nữa thì gặp phiên chợ Tình vùng cao đã nghe nói từ lâu mà nay mới mục sở thị! Thế là hai người bị hút vào chợ Tình rồi như người bị bỏ bùa, nhà văn theo một cô sơn nữ (nói chính xác là cô gái người H’Mông – trước đây gọi là người Mèo) về tận cao nguyên đá Hà giang, còn nhà thơ thì theo một sơn nữ (người Lô Lô) về tận cái nơi rất khó đọc :Mã Pì Lèng!... Nghe nói hai người đã ở rể và đến nay thì đã bị “Vùng cao hóa” đến nỗi quên cả tiếng Kinh, toàn nói tiếng H’Mông và Lô Lô!...
Đó là lý do vì sao cho đến nay, sơn nữ vẫn còn là bí ẩn đối với dân vùng xuôi, đồng bằng!...
2.KÉN  CHỌN  NHÂN  TÀI
Tỉnh nọ treo bảng tuyển dụng công chức từ cấp Trưởng Phòng các Sở cho đến phó giám đốc cấp Sở (hai chức danh này thực ra cũng xấp xỉ nhau cho nên tuyển chung một lượt). Vòng 1 chỉ có ý nghĩa thủ tục cho nên mọi người đều qua một cách dễ dàng (kiểm tra hồ sơ, lịch sử công tác chuyên môn, kiểm tra lại kiến thức chuyên ngành,v.v…). Vòng 2 khá gay cấn vì nội dung là kiểm tra những khả năng vượt trội, khả năng sáng tạo mà người bình thường không có được (như vậy mới đáng mặt  anh hùng để chỉ huy cả một đội quân chứ! Nếu tạm so sánh với bên quân đội thì có thể tương đương với chức vụ Trung đoàn trưởng – Trung đoàn nhiều khi phải độc lập tác chiến, nếu không có đầu óc sáng tạo thì …chỉ có thua trận!). Quả nhiên Vòng hai đã loại ra  8 phần 10 (điều này phản ánh đúng thực trạng chung của đất nước: 80% dân số nước ta là nông dân lạc hậu, văn hóa thấp, mù chữ…). Vòng 3 sẽ rất gay cấn và hứa hẹn nhiều bất ngờ  vì ai lọt vào Vòng 3 sẽ ngồi vào cái ghế phó Giám đốc Sở. Các thí sinh hầu hết đều rất căng thẳng và phải uống thuốc tăng lực, đương nhiên được gia đình chăm sóc kỹ lưỡng hơn cả võ sĩ quyền anh!...Đề ra của Vòng 3 thực ra rất đơn giản, không có tính  chất “đánh đố” mà chỉ có tinh chất thử việc , tức thí sinh phải thực hành nhiệm vụ sẽ đảm nhận, cụ thể là nghe cán bộ của Phòng đó báo cáo rồi nhanh chóng đưa ra kết luận về thực trạng và giải pháp thực hiện tiếp theo (gọi tắt là “thực trạng và giải pháp”). Vòng “thực trạng và giải pháp” này thực ra rất khó cho điểm (vì thiên lý vạn lý – cái lý của ai là đúng nhất, hay nhất thì chỉ có Ông Trời mới phân định được), vì thế có thể nói vòng này “Chấm điểm Mặt” là chính, giống như ngày xưa đã có chuyện “Mạo Trạng Nguyên” – tức vì có cái mặt đẹp giai mà được chấm là Trạng Nguyên! Vì thế, để cho công bằng, các thí sinh khi vào phòng phỏng vấn đều phải đeo mặt nạ có hình 12 con giáp trông rất ngộ, để sẵn ở ngoài phòng thi. Một câu hỏi có tính chất xếp hạng là mỗi thí sinh ghi nhận xét của mình về cuộc thi vào một lá phiếu nhỏ…
Cuộc thi tuyển rồi cũng đến hồi kết với một kết quả bất ngờ: một thí sinh đậu Trạng nguyên và được đặc cách giữ chức Giám đốc Sở  Nội vụ! Mọi người đoán già đoán non tại sao thí sinh này lại đậu Trạng Nguyên nhưng đây là chuyện bí mật, không công bố!...Phải đến 5 năm sau, thí sinh đậu Trạng nguyên ngày  ấy, giờ đã là Chủ tịch tỉnh, trong một cuộc vui  đã  tiết lộ :  Trong  lá  phiếu  nhận xét  về  cuộc thi  tôi  chỉ  viết  mấy chữ : “Tổ chức thi cho vui mà thôi, mọi vấn đề nhân sự đã được các  Sếp  trong  Ban Tổ  chức  Tỉnh  ủy  giải  quyết  từ lâu rồi !”


3. SỞ  THÍCH  NGƯỜI  GIÀ

Gia đình ông Lê Trường Bách nổi tiếng một vùng vì tuổi thọ cao, nhiều thế hệ cùng tồn tại. Tứ đại đồng đường (4 thế hệ cùng tồn tại) đã là hiếm, vậy mà ở nhà ông là Ngũ đại đồng đường (5 thế hệ cùng tồn tại): Ông Lê Trường Bách (và vợ) 102 tuổi, con là Lê Trường Thọ (và vợ) 80 tuổi, con là Lê Trường Niên (vợ mới chết 2 năm) 60 tuổi, con là Lê Trường Kỳ (và vợ) 40 tuổi, con là Lê Trường Thiên, 20 tuổi, mới cưới vợ hồi Tết Kỷ Sửu, nếu cuối năm vợ Trường Thiên sinh con Trâu Vàng thì gia đình ông Trường Bách sẽ là Lục đại đồng đường! Điều đáng chú ý là ông Bách vốn là VĐV điền kinh từ thời Pháp xâm lược VN, và sau này, con, cháu, chắt, chút đều nối nghiệp ông, lúc trẻ thì làm VĐV, lớn tuổi thì làm Huấn luyện viên môn Điền kinh. Điều đáng chú ý thứ hai là mỗi đời chỉ sinh một con mà lại đều là con trai. Điều đáng chú ý thứ ba là gia đình ông có thể nói là chuẩn mực về mọi mặt, trong ấm ngoài êm, không hề có bi kịch gia đình mà căn nhà (rộng 100 mét vuông xây từ thời Pháp xâm lược VN, đến nay vẫn còn tốt) của ông Bách có giàn hoa Thiên Lý luôn đầy ắp niềm vui và tiếng cười!...
Tuy nhiên, có rất nhiều phiền toái xảy ra từ khi ông Trường Bách ngoài trăm tuổi. Ấy là khi ông bước sang tuổi 101 thì ông bỗng nhớ cồn cào, nhớ da diết cái môn chạy Maraton mà thời trẻ, ông luôn ở trong top 5 người về đích trước nhất. Tuy thế, không hiểu sao, lần nào ông cũng ở vị trí thứ 5, không sao bứt lên được! Có phải vì thế mà bây giờ nó trở lại “nói chuyện” với ông? Có nghĩa là ngày nào cũng vậy, bất kể nắng mưa, 4 giờ sáng là ông dậy, chạy cho đến 8 giờ mới về nhà! Con cháu ông phải chiều ý ông, thay nhau chạy theo ông để “hộ tống”, đề phòng chuyện bất trắc! Ngặt nỗi là con, cháu ông Bách không ai là VĐV môn chạy mà chỉ là nhảy cao, nhảy xa, phóng lao, ném đĩa!...Đến tối, sau bữa cơm, mới là trung tâm của sự rắc rối: Ông Bách mê chơi cờ Tướng, ông Niên mê cờ Vua cho nên ông Thọ vừa phải chơi cờ Tướng với Cha (tức ông Bách) vừa phải chơi cờ Vua với ông con (tức ông Niên), mà ông Bách hay hoãn, hay đòi đi lại mặc dù luật chơi cờ là “Hạ thủ bất hoàn” ai chả biết! Trong khi ba ông chơi cờ làm ầm ỹ cả nhà thì hai bà vợ ông Bách và ông Thọ lại cần yên tĩnh để ngồi Thiền, vợ chồng ông Kỳ mải mê với các trang Website, vợ chồng  Thiên – thế hệ thứ 5 thì đang dán mặt vào màn hình Tivi! Lúc này, căn nhà ông Bách cứ như cái Hội chợ Triển lãm!...
Cũng có lúc, cả nhà ngồi lại “Họp gia đình” để tìm giải pháp vừa trên được dưới, nhưng mỗi người một ý, thật khó mà thống nhất, cứ như cái thời Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu! Cuối cùng, ông Bách chợt nghĩ ra điều gì đó và nói:”Bây giờ gia đình ta phải tập trung vào việc lấy vợ cho Trường Niên, vợ nó mất đã hai năm rồi! Gia đình ta như một cỗ máy đang hoạt động tốt, bỗng mất đi một chiếc đinh ốc quan trọng, thử hỏi sao không xảy ra trục trặc?” Mọi người ngớ ra một lúc rồi đều hiểu rằng không thể trì hoãn việc cưới vợ cho Lê Trường Niên! Thế  là từ đó, mọi ý nghĩ, mọi hành động của mỗi thành viên trong gia đình đều hướng vào việc hệ trọng đó! Kết quả thế nào đến nay vẫ chưa rõ!...

4. BÀI  CA  KHÔNG  QUÊN

Có một bài ca không bao giờ quên…là bài ca tôi vẫn hát…” -  đó là lời một bài hát mà những người cựu chiến binh không mấy ai không thuộc, và thỉnh thoảng họ lại hát lên khi chợt nhớ đến thời chiến tranh, khi chợt nhớ đến đồng đội. Nhưng những lời ca đó được hát thường xuyên, liên tục bởi một người lính đặc công năm xưa, nay tóc đã bạc phơ, hình hài thì gân guốc như tượng đồng. Điều đáng chú ý là người lính ấy không hát trên sân khấu rực rỡ ánh đèn mà được hát trên bệ cao dưới chân tượng đài ở giữa bùng binh của đường phố Sài Gòn. Bất kể nắng mưa, ngày đêm người ta đều thấy người lính già ấy đứng hát  dưới chân tượng đài. Hát xong một lượt người lính lại đi một bài quyền và mồm thì hô vang những câu thiệu nghe rất lạ tai! Ai  cũng bảo đó là một người tâm thần, một người điên, nhưng bà vợ tóc cũng bạc phơ và một cô con gái xinh đẹp như người mẫu thời trang chân dài thì không cho rằng chồng mình, cha mình bị điên, đúng giờ ăn họ lại đem đồ ăn thức uống tới cho “ca sĩ tượng đài”. Có người hỏi cô con gái : “Tại sao không tìm cách giữ ông già ở nhà? Có thể nhốt ông ấy trong buồng?”  Cô con gái nhẹ  nhàng đáp : “Chính vì nhờ những lời ca đó mà cha tôi còn sống đến bây giờ, chứ bạn bè đồng đội của ông ấy đã chết hết cả rồi!” Bà mẹ tóc bạc của cô gái thì nói : “Nhờ nghe những lời ca của ông ấy mà  tôi cũng còn sống đến bây giờ đó! Ông có biết vợ chồng tôi cùng  đã  102 tuổi  rồi  không! Còn  con gái chúng tôi nó đã hơn 70 tuổi rồi đó!”. “Trời đất ơi! – Người vừa hỏi tròn mắt  kinh ngạc – hơn 70 tuổi mà như người mẫu thời trang chân dài !”
       
5. NGƯỜI THIẾU PHỤ NAM XƯƠNG

Văn Chiến  cưới vợ được đúng ba ngày thì nhập ngũ, vào tuốt chiến trường, ba năm sau mới được trở về với vợ. Vợ Chiến đã sinh cho chồng một đứa con trai, rất kháu khỉnh, lúc Chiến trở về đứa bé đã ba tuổi. Lúc Chiến mới về, vợ Chiến bảo con:”Con chào bố đi, bố con đấy!” . Đứa bé ngó Chiến rồi nói:”Đây không phải bố con! Sao mẹ bảo khi mình đi ngủ thì bố mới về và chui vào mùng cơ mà?” . Chiến ngỡ ngàng không hiểu sao và sinh nghi ngờ vợ ở nhà gian díu với ai? Vợ Chiến thấy vậy thì buồn lắm, không biết giải thích với chồng thế nào? Đến tối đi ngủ, bóng của người vợ hắt lên tường, kề cái mùng, thằng bé liền reo lên:”Kìa! Bố con tới rồi!” . Vợ chiến bừng tỉnh, chợt nhớ mình đã đọc cái chuyện “Người thiếu phụ Nam Xương” ở nhà mẹ đẻ rồi thường kể cho con nghe! Vợ Chiến vội chạy về nhà mẹ đẻ, lấy cuốn truyện “Người thiếu phụ Nam Xương” đưa cho chồng đọc. Người chồng đọc xong thì ôm chầm lấy vợ mà nói:”Trời đất ơi! Cái truyện hay thế mà sao anh chưa được đọc! Chút xíu nữa đã bắt em phải chịu số phận bi thảm như người thiếu phụ Nam Xương!”…Sau đó, Chiến rất chăm đi mua sách về đọc, chỉ ba năm mà sách chất đầy nhà! Lúc ấy, vợ Chiến mới nói:”Anh đã đọc hàng ngàn cuốn sách rồi, bây giờ thử viết lấy một, hai cuốn xem sao?” Thế là từ đó, Chiến mải miết ngồi viết…Không biết kết quả thế nào, chỉ biết là gia đình Chiến rất êm ấm, vui vẻ…/.

6. HIẾU  TỬ  MẠNH  TÔNG

Trong  loạt  truyện Nhị Thập Tứ Hiếu có truyện Mạnh Tông hiếu tử : Mẹ bị bệnh,  đắng  miệng  không ăn được cơm, chỉ đòi ăn măng, mà lúc đó không phải mùa măng mọc, khiến cho Mạnh Tông đi khắp rừng sâu bạt ngàn mà không tìm được măng, cuối cùng Ông Trời động lòng thương hóa phép cho mọc lên một bãi măng!...
Thời nay cũng có chàng Mạnh Hiếu, cũng có mẹ già bị ốm, cũng đắng miệng đòi ăn măng hoài. Bây giờ người ta đã biết làm ra măng khô, măng chua cho nên lúc nào cũng có măng, nhưng ngặt nỗi bà mẹ chàng Mạnh Hiếu lại không thích ăn măng khô, măng chua mà chỉ thích ăn măng tươi, cho nên việc kiếm măng của chàng  Mạnh Hiếu cũng không phải dễ dàng gì …Cái khó nảy cái khôn! Chàng Mạnh Hiếu nghĩ:”Tại sao người xưa thích ăn măng, người thời nay cũng thích ăn măng? Chắc chắn không chỉ riêng mẹ ta thích ăn măng, mà còn biết bao bà mẹ khác?” Nghĩ là làm, thế là Mạnh Hiếu thành lập công ty Măng Mạnh Tông, có chi nhánh ở hầu khắp các tỉnh trên toàn quốc với đủ các chủng loại sản phẩm từ măng tre, măng trúc, măng giang, măng nứa…Tiếng lành đồn xa, Công ty Măng Mạnh Tông xuất phát từ lòng hiếu thảo đã chinh phục tuyệt đối khách hàng đã một lần dùng thử!
Hiện nay, Công ty măng Mạnh Tông của chàng hiếu tử Mạnh Hiếu đã phát triển không ngờ, nhiều bà con người Việt ở nước ngoài đã là khách hàng dài hạn, cung không đủ cầu! Đồng thời với việc mở rộng sản xuất, Mạnh Hiếu còn mời một số nhà khoa học đầu tư nghiên cứu những bí ẩn của món măng độc đáo này! Kết quả sẽ có nhiều bất ngờ!...        

7. CON GÁI ĐỒNG CHIÊM
Hình ảnh đặc trưng của thôn nữ đồng quê phải là vùng đồng chiêm trũng: mỗi khi đi làm đồng là có một bộ “Nông phục” lỉnh kỉnh không kém bộ đội binh chủng Hóa học mỗi khi lâm trận: một bộ xà-cạp để cuốn chặt hai chân (cuốn từ bàn chân cho tới bẹn), một tấm vải như cái đai cuốn quanh bụng, có cô không chịu được nóng nực, bức bối thì chỉ cần một sợi dây chuối. Cái đai  ngăn không cho các loại côn trùng chui vào chỗ có đôi nhũ hoa và là chỗ để treo một ống vôi (thường là một ống bằng nứa) để chống đỉa (đỉa nhiều vô kể, mỗi khi thấy đỉa bám vào đâu đó trên người thì cầm cái que cắm sẵn trong ống vôi chấm vào con đỉa một cái là nó tuột khỏi người ngay tức thì (đỉa rất sợ vôi đã thành tục ngữ “Sợ như đỉa  phải vôi”). Và cũng khá quan trọng trong bộ Nông phục là cái khăn mỏ quạ cuốn trên đầu chỉ hở hai con mắt! Cho nên, đứng trước một đội quân được trang bị từ đầu đến chân kín mít như vậy, ta không thể biết ai là cô Đào, ai là cô Mận, Mơ…
Những năm chiến tranh chống Mỹ, chúng tôi đã đóng quân ở một vùng đồng chiêm trũng như thế. Và, tiểu đội trưởng Ban của tôi đã yêu tha thiết một cô thôn nữ tên Huệ. Cô Huệ lúc đó lại đang là Trung đội phó dân quân (vừa sản xuất vừa chiến đấu mỗi khi có máy bay Mỹ bay tới oanh tạc), rất bận rộn nên chưa muốn cho tiểu đội trưởng của tôi xin cưới. Nhưng chàng Ban khẩn thiết xin cưới ngay, nếu không mẹ chàng sẽ bắt chàng về quê cưới vợ! Lúc đó, cả Trung đội nữ dân quân đi đến quyết định: Cho 10 cô gái cao bằng nhau, gày béo như nhau đứng một hàng, nếu chàng Ban  nhận ra được ai là cô Huệ thì sẽ cho cưới ngay, không thách cưới gì cả! Sáng  hôm sau  sẽ tổ chức thách đố thì nửa đêm, cô Huệ lén đến báo cho chàng Ban biết sẽ chấm một vết vôi vào vai trái để cho chàng nhận ra mình! Không ngờ chuyện đó bị lộ, khi mười cô gái xuất hiện trước mặt chàng Ban thì vai trái của cả mười cô đều có chấm vôi!...Khỏi nói chàng Ban và cả cô Huệ nữa đã “đau”  như thế nào! Và cái sự “đau” này  trở thành nỗi đau thật sự và tàn khốc khi buổi trưa hôm đó, trận địa pháo của chúng tôi bị trúng bom của máy bay Mỹ, và quả bom rơi và nổ ngay sát tiểu đội trưởng Ban khi anh đang phất cờ lệnh cho khẩu pháo nhả đạn!...Trong đám tang tiểu đội trưởng Ban sau đó, cả mười cô gái có chấm vôi hôm ấy đều đội khăn tang với nghi thức người vợ… Nhưng , Ban ơi, anh chỉ cần một cô Huệ thôi phải không?!


8. MÙI  CHỒNG 

Thị  Đào là một thôn nữ đẹp người đẹp nết, được làng xóm quý mến, nhưng không hiểu sao bất hạnh lại ập đến dồn dập : Lấy chồng được ba bảy hai mốt ngày thì chồng nhập ngũ, đi một mạch tới tận chiến trường ác liệt. Thị Đào nhớ thương chồng mỏi mòn con mắt…Một năm, hai năm rồi ba năm vẫn không thấy chồng về mà cũng chẳng có tin tức gì , Thị  Đào khóc thương nhiều quá đến nỗi mù cả hai mắt, chẳng làm ăn gì được, suốt ngày cứ lần mò xếp đi xếp lại những bộ quần áo, vật  dụng của chồng…Xếp nhiều đến nỗi  chỉ thoáng ngửi qua là biết ngay đó là quần áo, đồ vật mà chồng thường dùng trước đây…
Nói về người chồng, tên gọi Lực Điền,  sau ba năm chiến đấu, sắp tới ngày đại  thắng thì lại bị thương rất nặng và oái oăm thay vết thương toàn ở phần mặt làm cho khuôn mặt của anh ta bị biến dạng, không còn hình thù như mặt người bình thường nữa. (Đúng lúc này ở nhà người vợ bị mù… - có sự thần giao cách cảm gì đây?). Sau khi vết thương lành, đáng lẽ từ trại an dưỡng  người chồng sẽ đi thẳng về nhà như bao người lính khác. Nhưng anh chàng Lực Điền lại nghĩ:  Bộ mặt mình gớm ghiếc  thế này về chỉ làm khổ vợ mà  thôi!  Anh chàng Lực Điền bèn xin vào làm việc ở một cơ sở sản xuất của thương binh, cách nhà tới chục cây số…Muốn quên tất cả đi nhưng không sao quên được, làm việc được một tuần lễ  thì  anh chàng Lực Điền lần mò về nhà. Đêm hôm ấy trời tối đen như mực, anh chàng Lực Điền nấp ở bụi cây sau nhà, nhìn vào nhà thấy vợ ngồi một chỗ như người bị mù thì bồn chồn không yên!  Chỉ sau khoảng mười phút, anh chàng Lực Điền nghe tiếng vợ nói từ trong nhà vọng  ra: “Chàng Lực Điền ơi!  Về rồi sao không vào nhà, đứng đó muỗi đốt chết!” Anh chàng Lực Điền nghe mà bàng hoàng, sửng sốt,  thoáng  nghĩ:  “Tại sao vợ mình lại biết mình về nhỉ? Mình là lính đặc công, đến không ai biết đi không ai hay  cơ mà!  Tiếng người vợ lại vọng  ra: “Chàng còn nghĩ  ngợi gì nữa ! Em đã ngửi thấy cả mùi vết thương trên mặt chàng rồi đó! Vào nhà đi, vợ chồng hội ngộ mà còn e ngại nỗi gì!”.
Chàng Lực Điền chạy vút vào nhà, ôm chầm lấy người vợ rồi khóc rống: “Tại sao vợ tôi lại bị mù thế này?” . Người vợ sờ lên những vết sẹo trên mặt chồng mà nói: “Thôi đi nào, khóc như trẻ con thế! Em nay tuy đã mù nhưng mũi lại thính lắm, anh vừa về tới đầu nhà là em ngửi thấy mùi anh liền! Anh dù có bị thương đầy mặt  cũng chẳng sao!” . Nói rồi hai vợ chồng lại ôm lấy nhau mà khóc, khóc vì vui sướng! …Được một lúc, người vợ nói:”Cái “của quý” ấy nó không những không bị thương mà còn khỏe ra thế a?!” . Chàng Lực Điền không nói gì mà chỉ nghĩ:”Nó mà bị thương thì còn gì đời trai!” . Còn người vợ không nói gì nữa mà nghĩ:”Ôi, thật là kỳ diệu! Tiếc là ta bị mù rồi, không biết mặt mũi nó ra sao mà khỏe thế?!”…Đó là lúc cả hai vợ chồng Lực Điền và Thị Đào cùng sung sướng tột đỉnh!... /.              

Đỗ Ngọc Thạch

QUẬN  HE


Truyện ngắn ĐỖ NGỌC THẠCH
Từ khi kết thúc chiến tranh phía nam với Chúa Nguyễn (Trịnh – Nguyễn phân tranh) và dứt được việc cát cứ ở Cao Bằng của họ Mạc, các chúa Trịnh là Tây Định vương Trịnh Tạc và Định Nam vương Trịnh Căn ra sức củng cố chính quyền ở Đàng Ngoài (Bắc Hà).
Năm 1729, An Đô vương Trịnh Cương mất, con là Trịnh Giang lên thay, tức là Uy Nam vương. Từ khi Trịnh Giang cầm quyền, chính sự Bắc Hà bắt đầu suy. Năm 1732, Giang phế bỏ vua Lê Duy Phường và sau đó giết chết vua, lập anh Duy Phường lên ngôi, tức là Lê Thuần Tông (1732 - 1735). Các đại thần của Vua Lê như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn cũng bị giết hại. Giang sống xa xỉ, vì thế thuế má ngày càng nhiều, sưu dịch ngày càng nặng khiến dân chúng Đàng Ngoài vô cùng cực khổ, cơm không đủ ăn, áo không có mặc. Ăn xin, ăn mày đầy đường, tình cảnh thật thê thảm. “Bần cùng sinh đạo tặc” - nông dân Đàng Ngoài nổi lên khởi nghĩa khắp nơi.
Năm 1737, nhà sư  Nguyễn Dương Hưng nổi dậy khởi nghĩa ở Tam Đảo. Năm 1739, Vũ Đình Dung nổi dậy ở Ngân Già ,hậu duệ nhà Mạc (đã bị đổi họ) là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển cùng Vũ Trác Oánh nổi dậy ở Hải Dương. Theo "Lê Triều dã sử", Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển tin theo Sấm Trạng Trình: "Phá điền thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành" (Vỡ ruộng thiên tử ra, không đánh tự nhiên thành) nên dựng cờ khởi nghĩa. Khởi nghĩa này sau đó không lâu bị dẹp nhưng thuộc hạ của hai người là Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu tiếp tục tập hợp lực lượng và trở thành hai cánh quân khởi nghĩa lớn và làm hao binh tổn tướng của chúa Trịnh nhiều hơn cả.
Tại Tam Đảo, sau khi Nguyễn Dương Hưng thất bại, Nguyễn Danh Phương nổi dậy và cũng trở thành một cuộc khởi nghĩa lớn trong nhiều năm. Tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật cũng định làm binh biến ở Thăng Long để lật đổ họ Trịnh nhưng không thành nên rút ra ngoài khởi nghĩa, cát cứ suốt 30 năm.
Phong trào khởi nghĩa trải rộng khắp Bắc bộ vào tới Thanh Hoá, Nghệ An. Các cuộc khởi nghĩa phần đông lấy tiếng "phù Lê diệt Trịnh" làm cớ. Nhân dân mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo quân khởi nghĩa, đông thì có hàng vạn người, ít thì cũng có đến hàng trăm hàng nghìn người, rồi đi cướp phá ở các hương thôn và vây các thành ấp, quân triều đình đánh dẹp không được…
Trong cung, Trịnh Giang xa xỉ, bại hoại, gian dâm với cung nữ của cha, lại bị sét đánh nên tin theo lời hoạn quan, làm nhà hầm ở luôn dưới đất để tránh sét, còn việc chính trị thì để cho các hoạn quan là bọn Hoàng Công Phụ chuyên quyền làm bậy.
Trước tình hình đó, gia tộc họ Trịnh quyết định phế truất Giang, lập em Giang là Trịnh Doanh lên ngôi, ấy là vào năm 1740. Là người “hữu trách”, Trịnh Doanh bắt đầu chỉnh đốn tình hình trong nước, ra tay đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa.
Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển giữ đất Đỗ Lâm ở Gia Phúc, núi Phao Sơn ở Chí Linh, làm đồn, xây lũy liên lạc với nhau, lực lượng nghĩa quân có tới hàng mấy vạn, quân triều đình đi đánh, rất khó khăn. Mãi đến năm 1741, thống lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá mới phá được các đồn quân khởi nghĩa ở Phao Sơn, ở Ninh Xá và Gia Phúc; Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết, Vũ Trác Oánh trốn đi mất tích. Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn được mấy tháng, lại về Đông Triều, nhưng vì hết lương phải vào nấp ở núi Ngọa Vân, bị Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũi đem về kinh hành hình…
**
Nguyễn Hữu Cầu (1) xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, văn võ kiêm toàn, lại bơi lội rất giỏi nên người đời gọi là Quận He. He (2) là tên loài cá ở biển Đông. Còn Quận là tước phong của triều đình cho những quan lại có công lớn gọi là Quận công. Nguyễn Hữu Cầu được dân gian  phong tước “Quận công” là sự mến mộ đặc biệt, cũng giống như bên Văn, dân gian sẽ phong danh hiệu Trạng cho ai thực sự giỏi giang!
Thuở hàn vi, Hữu Cầu vì nhà nghèo nên thường đi theo bọn cướp. Lúc đó, có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân(3), một thủ lĩnh là Nguyễn Cừ mến tài Cầu nên thu nhận Cầu. Cầu được Cừ tin tưởng gả con gái yêu là Nguyễn Ngọc Quỳnh cho. Chẳng bao lâu Cầu nổi tiếng là một viên tướng giỏi võ nghệ, dũng cảm gan dạ và nhiều mưu lược.
Khi Nguyễn Cừ bị Phạm Đình Trọng bắt ở núi Ngọa Vân, Nguyễn Hữu Cầu thay vị trí Thủ lĩnh nghĩa quân của Nguyễn Cừ, đem thủ hạ về chiếm giữ núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn. Năm 1743, quận He Hữu Cầu giết được Thủy Đạo đốc binh là Trịnh Bảng, tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân, thanh thế rất lớn. Sau đó bị Hoàng Ngũ Phúc đem binh đến vây ở núi Đồ Sơn, Hữu Cầu phá vây ra, về đánh lấy thành Kinh Bắc. Trấn phủ là Trần Đình Cẩm và Đốc đồng là Vũ Phương Đề đem quân đánh Cầu ở Thị Cầu nhưng đại bại, phải bỏ ấn tín mà chạy. Thăng Long được tin ấy, triều đình rất lo lắng.
**
Bấy giờ Trịnh Doanh (4) mới lên ngôi, đêm ngày cùng triều đình lo việc đánh dẹp. Tháng 2 năm 1743 Hoàng Ngũ Phúc (5) dâng 12 điều về “binh pháp dẹp loạn” lên chúa Trịnh. Trịnh Doanh biết Phúc là người có tài, nên rất ưng ý, liền sai Phúc thống lĩnh kỳ binh đạo Hải Dương, cùng thống tướng Hoàng Công Kỳ đánh Nguyễn Hữu Cầu.
Hoàng Ngũ Phúc liền cùng với Trương Khuông tiến đánh Cầu và lấy lại thành Kinh Bắc, nhưng thế lực Hữu Cầu vẫn mạnh: phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu. Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh Hữu Cầu ở Xương Giang. Hai bên vẫn ở thế giằng co…
Vì ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên quận He đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có. Nguyễn Hữu Cầu được người đời đánh giá là bậc anh hùng kiệt hiệt, nhiều mưu mẹo nhất trong số các thủ lĩnh khởi nghĩa lúc đó. Có khi bị vây hàng mấy vòng, Cầu chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo.
Các tướng sĩ họ Trịnh ai cũng ngại đụng độ với Quận He, duy chỉ có Phạm Đình Trọng là bạn học thuở nhỏ là người hiểu rất kỹ Quận He. Hai người đố kỵ nhau từ trước sau đó lại thành đối địch, Hữu Cầu đào mồ mẹ Trọng đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu.
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng cùng học một thầy. Trọng hay được thầy khen nhưng Cầu không phục. Một hôm đi đám ma về, thày cho cả hai người đi theo. Nhà đám biếu thủ lợn, Cầu và Trọng đùn đẩy nhau không ai chịu xách. Thầy bèn ra vế đối, bảo ai đối được thì không phải xách: Huề trư thủ (xách đầu lợn).
Trọng đối lại: Phan long lân (Vịn vây rồng). Còn Cầu đối: Diệt Tần phá Sở.
Thầy gõ quạt lên đầu Cầu, nói : “Câu đối không chuẩn, lại thừa chữ! Trò Cầu phải xách thủ lợn rồi!”. Nhưng Cầu vẫn gân cổ cãi: “Tôi đối sai thật, nhưng ý tôi là muốn bóc vẩy rồng kia, chứ không thèm vịn vây rồng như Trọng”! Thầy giật mình bảo: “Trò ăn nói phạm thượng như vậy tất có ngày mang vạ!”.
Một lần khác thầy lại ra vế đối: Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo. Trọng đối: Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc. Cầu lại đối rằng: Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động.
Thầy nghe xong bảo: “Thằng Trọng có khẩu khí làm quan, còn thằng Cầu thì chỉ làm giặc”!
Rồi từ đó ông Thầy sợ không dám nhận dạy Cầu nữa. Sau này quả nhiên Trọng làm quan cho nhà Lê còn Cầu gia nhập quân khởi nghĩa chống lại triều đình.
**
Năm 1746, quận He cho người đem vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng Nghĩa Hầu.
Nguyễn Hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về đánh phá ở đất Sơn Nam. Phạm Đình Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng. Hữu Cầu nhân lúc kinh thành không ai phòng bị, nên lẻn về đánh, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đình Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy, về cùng với Hoàng Công Chất đánh cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi. Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An.
Chúa Trịnh Doanh lên ngôi Chúa từ năm 1740, được chục năm rồi mà vẫn chưa dẹp được Hữu Cầu, lấy làm buồn bực, nói với Phạm Đình Trọng: “Ta cứ nghĩ tại sao chỉ tên giặc Cầu mà hai đại tướng của ta là Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đánh mãi tới chục năm trời mà vẫn chưa xong, cứ để nó chạy quanh như đèn kéo quân?”. Trọng thưa: “Bẩm Chúa công! Thực ra chỉ cần một mình thần là có thể bắt được Cầu. Hoàng Ngũ Phúc nhiều lúc muốn tranh công mà làm lỡ chuyện! Nay xin Chúa giao việc này cho thần, chỉ nay mai là có thể bắt Cầu dâng Chúa bởi Cầu chạy vào Nghệ An là chạy vào tử địa, sẽ không còn ai theo Cầu nữa mà còn có thể bắt Cầu giao nộp cho triều đình lĩnh thưởng!”. Chúa Trịnh Doanh cho là phải, liền bảo Hoàng Ngũ Phúc cùng Chúa đi đánh Nguyễn Danh Phương và giục Trọng kéo quân vào Nghệ An đánh Cầu.
Phạm Đình Trọng tức tốc kéo quân vào Nghệ An tiến đánh Cầu rất gấp. Hữu Cầu quân ít, tướng ít không cự nổi, chạy đến làng Hoàng Mai thì bị bắt, ấy là vào năm 1751. Trọng đóng cũi giải Cầu về nộp chúa Trịnh. Trịnh Doanh cùng lúc đó bắt được Nguyễn Danh Phương, giải về Kinh đô, đi đến làng Xuân Hi, huyện Kim Anh, gặp Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt Danh Phương dâng rượu, Hữu Cầu thổi kèn…
Khi Cầu bị giải về kinh thành, vượt ngục nhưng trời không giúp: Lính canh ngục đã bí mật giúp Cầu và cả Danh Phương thoát ra khỏi ngục, nhưng khi trèo qua một đoạn tường thành thì do hai người quá nặng mà đoạn tường thành đổ sập, quân lính thấy động đổ xô tới bắt!...Tháng 3 năm 1751, Hữu Cầu bị hành hình. Phạm Đình Trọng mang quân về quê Hữu Cầu, quật mộ bố Nguyễn Hữu Cầu, giết 3 họ gia quyến của Cầu, không sót người nào.
**
Chim trong lồng là bài thơ nổi tiếng  của Nguyễn Hữu Cầu làm trước khi bị đem hành hình còn lưu truyền đến ngày nay. Bài thơ làm bằng tiếng Hán và cả tiếng Nôm, ai đọc cũng đều thương cảm…
Khi Cầu bị bắt, Trọng lại gần xem “bạn học cũ” có yêu cầu gì không, nhưng thấy Cầu ngồi hát xướng rất bình thản. Trọng hỏi: “Anh bây giờ như con chim trong lồng, còn gì mà hát? Nghe nói anh có tài xuất khẩu thành thơ, trong trường hợp nào cũng làm được! Vậy anh thử làm bài thơ “Chim trong lồng” xem sao?”
Cầu không cần đợi giục tới lần thứ hai, liền ngâm một mach:

…Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán
Phá vòng vây làm bạn kim ô
Giang sơn khách diệc tri hồ?

Trọng nghe Cầu đọc thì đứng lặng hồi lâu, đoạn bỏ đi mà không nói gì.
**
Dẹp được Cầu, Trọng được phong làm Binh Bộ thượng thư. Nhưng cũng chỉ 3 năm sau (1754), Trọng chết lúc mới 40 tuổi. Có Cầu thì có Trọng đối địch, Cầu không còn thì Trọng cũng ra đi, cũng không khác chuyện Trạng Quỳnh: "Trạng chết thì chúa băng hà".
Ngày nay có nhiều nơi thờ Nguyễn Hữu Cầu. Tại thôn Cựu Điện, xã Nhân Hoà, huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng) có đền thờ Nguyễn Hữu Cầu rất lớn. Tại Đồ Sơn, Nguyễn Hữu Cầu được thờ ở miếu Ngọc Xuyên, trong 6 vị tiên công và 2 vị thần có Nguyễn Hữu Cầu (gọi là "bát bộ tôn thần"). Cũng tại Đồ Sơn có "đài lên ngôi" của quận He.
Tại thôn Kinh Giao (An Hưng, An Nại, Hải Phòng) quê của Phạm Đình Trọng, bên cạnh đền thờ Đình Trọng có cả đền thờ Nguyễn Hữu Cầu.
Trên đường Yên Tử, gần Suối Tăm, có miếu nhỏ thờ Nguyễn Thị Quán (được tôn là Nguyệt Nga công chúa) là em gái quận He - người cũng tham gia khởi nghĩa, vợ của bộ tướng Giang Tâm. Tương truyền bà tự vẫn ở bến Đầu Cầu.
Giữa cánh đồng xã Lôi Động, gần sông Ngựa Lồng (Thanh Hà, Hải Dương), có đền thờ nơi phát tích của quận He, có bia ghi: "Tiên triều Ninh Đông vương phát tích mộ".
Tại làng Trà Cổ, thị xã Móng Cái (Quảng Ninh) có đình Trà Cổ thờ các vị tổ (Thành Hoàng làng), đồng thời là nơi thờ Quận He…

Sài Gòn, tháng 7-2010
Đỗ Ngọc Thạch
------
Chú thích:
(1) Nguyễn Hữu Cầu: Nguyễn Hữu Cầu (?– 1751) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ 18, người xã Lôi Động, huyện Thanh Hà, Hải Dương…
(2) Cá He: Đặc điểm hình thái của cá He: Đầu nhỏ, nhọn. Mõm ngắn. Miệng trước co duỗi được. Có 2 đôi râu, râu mép dài hơn râu mõm và tương đương với đương kính của mắt. Mắt to hơi lồi ra ngoài và hơi lệch về phía lưng của đầu, gần chót mõm hơn gần điểm cuối của nắp mang. Phần trán giữa hai mắt gần như cong lồi nhưng ở những cá thể nhỏ gần như phẳng.Thân cao, dẹp bên. Cao thân tương đương 1/2 dài chuẩn. Lưng gù. Vảy tròn, to, phủ khắp thân. Mặt lưng của thân và đầu màu xanh rêu, lợt dần xuống hai bên hông và bụng có màu trắng bạc. Toàn thân ánh lên màu vàng, mép sau lỗ mang, rải rác trên nắp mang có sắc tố đen. Vây ngực màu vàng, các vây khác màu đỏ son.  
(3) Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài : Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê Chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ khoảng năm 1739 và kết thúc năm 1769, trong 2 đời vua Lê là Lê Ý Tông và Lê Hiển Tông, 3 đời chúa Trịnh là Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. Các cuộc khởi nghĩa nông dân đáng chú ý hơn cả là:
Nguyễn Hữu Cầu (quận He), người huyện Thanh Hà (Hải Dương), trước vì nghèo nên đi làm cướp, sau theo Nguyễn Cừ khởi nghĩa. Khi Nguyễn Cừ bị bắt, Nguyễn Hữu Cầu đem thủ hạ về giữ núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn. Năm 1743, quận He giết được Thủy Đạo đốc binh là Trịnh Bảng, tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân, thanh thế rất lớn…
.Nguyễn Danh Phương (quận Hẻo), trước là thủ hạ của các thủ lĩnh Tế và Bồng khởi nghĩa ở Sơn Tây. Năm 1740, tướng Vũ Tá Lý đánh bắt được Tế và Bồng ở huyện An Lạc. Nguyễn Danh Phương đem thủ hạ về giữ núi Tam Đảo, một mặt thì mộ quân trữ lương và một mặt thì cho người về nói dối xin hàng. Bấy giờ Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất đang hoạt động mạnh ở phía đông nam nên Trịnh Doanh cho hàng.
Năm 1744, quận Hẻo đem hơn một vạn quân về giữ đất Việt Trì, sang cướp phá ở bên huyện Bạch Hạc. Bấy giờ Đốc suất Sơn Tây là Văn Đình Ức đem binh đến vây đánh, Danh Phương chạy sang giữ làng Thanh Linh (huyện Bình Xuyên, đất Thái Nguyên). Từ đó quận Hẻo lập đại đồn ở núi Ngọc Bội (giáp huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương), trung đồn ở đất Hương Canh, ngoại đồn ở đất Ức Kỳ, rồi tự xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân, làm cung điện, đặt quan thuộc, thu các thứ thuế ở đất Tuyên Quang, thanh thế lừng lẫy.
Năm 1750, Trịnh Doanh cùng Hoàng Ngũ Phúc đem đại quân đi đường Thái Nguyên đến đánh phá được đồn Ức Kỳ. Khi quân tiến lên đến đồn Hương Canh, quân khởi nghĩa bắn súng, đạn ra như mưa, quân triều đình hơi lùi. Trịnh Doanh ra lệnh nghiêm ngặt khiến quân lính mạnh dạn xông vào, phá được đồn Hương Canh. Quận Hẻo rút quân về giữ đồn Ngọc Bội, quân Trịnh tiến lên đuổi đánh. Tướng Nguyễn Phan sai thủ hạ cầm đồ đoản binh cho tự tiện đi trước mà vào, đại quân theo sau. Quận Hẻo giữ không nổi bỏ chạy tan vỡ. Nguyễn Danh Phương chạy vào núi Độc Tôn, quân Trịnh đuổi đến làng Tĩnh Luyện ở huyện Lập Thạch thì bắt được. Trịnh Doanh giải Phương về kinh đô xử tử.
Lê  Duy Mật là con thứ vua Lê Dụ Tông. Năm 1738 đời vua Ý Tông, ông cùng các hoàng thân Lê Duy Quy và Lê Duy Chúc định mưu giết họ Trịnh, nhưng không thành phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Sau Duy Quy và Duy Chúc bị bệnh mất, Duy Mật giữ đất thượng du phía tây nam. Những người đồng mưu với Duy Mật đều bị họ Trịnh bắt được giết cả.
Lê Duy Mật đánh thắng quân Trịnh vài trận, bắt giết được tướng Phạm Công Thế. Từ khi chạy về Thanh Hóa, Duy Mật chiêu tập binh sĩ. Năm 1740, Duy Mật mang quân đánh ở Hưng Hóa và Sơn Tây, sau lại cùng với thủ lĩnh quân khởi nghĩa nông dân tên là Tương giữ đồn Ngọc Lâu (thuộc huyện Thạch Thành). Đến khi tướng họ Trịnh phá được đồn Ngọc Lâu, Tương tử trận, Lê Duy Mật lại chạy vào Nghệ An, rồi sang Trấn Ninh giữ núi Trình Quang làm căn cứ lâu dài.
Năm 1764, Lê Duy Mật sai người đem thư vào cầu cứu chúa Nguyễn Phúc Khoát nhưng chúa Nguyễn không muốn gây sự với họ Trịnh nên không giúp.
Năm 1767, được tin Trịnh Doanh vừa mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa, Lê Duy Mật đem quân về đánh ở huyện Hương Sơn và Thanh Chương rồi lại rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối loạn.
Năm 1769, Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt làm thống lĩnh đất Nghệ An, Nguyễn Phan làm chánh đốc lĩnh Thanh Hóa, Hoàng Đình Thể làm đốc binh đất Hưng Hóa, cả ba đạo đều tiến sang đánh Trấn Ninh. Khi quân Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan đến vây Trình Quang. Lê Duy Mật định cứ giữ hiểm không ra đánh. Không ngờ là người con rể là Lại Thế Chiêu làm phản, mở cửa lũy cho quân họ Trịnh vào. Duy Mật biết có nội biến, bèn cùng với vợ con tự thiêu mà chết.
(4) Trịnh Doanh: Minh Đô Vương Trịnh Doanh (1720-1767) là vị chúa Trịnh thứ tám thời Lê Trung Hưng, ở ngôi từ năm 1740 đến 1767, đồng thời là một nhà thơ Việt Nam.
Quê ở làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, Trịnh Doanh là người có công đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài, ổn định lại chính trị ở Bắc Hà vốn suy yếu trầm trọng thời Trịnh Giang.
Trịnh Doanh là con thứ 3 của An Đô Vương Trịnh Cương, đồng thời là em của Uy Nam Vương Trịnh Giang. Từ khi còn trẻ Doanh đã sớm bộc lộ là người có vǎn tài võ lược, được Trịnh Giang rất tin tưởng, phong làm Khâm Sai Tiết Chế các xứ thủy bộ chủ quân, thái úy An Quốc Công, cho mở phủ đệ riêng để phòng có người nối ngôi.
Trịnh Giang bỏ bê chính sự, không đoái hoài tới công việc, từ nǎm 1736 đã trao quyền nhiếp chính cho Trịnh Doanh, lúc đó mới 17 tuổi. Mỗi tháng ba lần, Doanh thay Giang triều kiến trǎm quan ở Trạch Các để nghe tâu trình công việc. Giang bị bệnh, tin dùng hoạn quan nịnh thần Hoàng Công Phụ, làm nhà dưới đất ở không ra ngoài; lại tăng thuế và lao dịch khiến dân chúng bất bình nổi dậy khởi nghĩa, triều đình bất lực, không trị nổi.
Khi mới lên nắm quyền nhiếp chính, Trịnh Doanh phải đối phó với sự ganh ghét của Hoàng Công Phụ. Công Phụ hạ lệnh cho các quan khi muốn tâu việc gì với Doanh không được dùng chữ “bẩm” mà phải dùng chữ “thân” (trình). Hơn nữa Phụ chỉ để cho ông một căn nhà nhỏ phía nam phủ chúa gọi là “để”.
Biết Công Phụ muốn hại mình, Trịnh Doanh kín đáo nín nhịn. Năm 1740, Trịnh thái phi họ Vũ triệu các đại thần Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Công Thái, Trịnh Đạc, Vũ Tất Thận, Nguyễn Đình Hoàn họp trừ khử Phụ để đưa Doanh lên ngôi. Nhân lúc Phụ mang quân bản bộ đi dẹp quân khởi nghĩa Nguyễn Tuyển, Nguyễn Quý Cảnh mang hương binh vào bảo vệ phủ chúa rồi chầu vua Lê, xin chỉ lập Trịnh Doanh, sau đó điều quân giết hết bè cánh của Công Phụ. Trịnh Doanh thay quyền ngôi chúa, lấy hiệu là Minh Đô Vương, tôn Trịnh Giang làm Thái Thượng Vương.
Ngay khi lên ngôi, Minh Đô Vương Trịnh Doanh lập tức chấn chỉnh bộ máy cai trị, bãi bỏ việc xây dựng chùa chiền, đường sá của Trịnh Giang, trả lại ruộng đất cho dân cày cấy và dùng nhiều biện pháp khác để nới sức dân. Nhiều sắc chỉ quy định dưới thời Trịnh Cương bị Trịnh Giang bãi bỏ nay được dùng lại.
Để dẹp loạn, Trịnh Doanh đã trọng dụng, cất nhắc các nhân tài như Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng, Hoàng Nghĩa Bá,…
Năm 1740, ngay sau khi lên ngôi, Trịnh Doanh tự cầm quân đi dẹp quân khởi nghĩa của Vũ Đình Dung ở Ngân Già (Sơn Nam), bắt được Dung đem chém, đổi tên đất ấy là Lai Cách.
Sau khi Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển bị Hoàng Nghĩa Bá và Phạm Đình Trọng dẹp được, thủ hạ là Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu lại nổi dậy, thanh thế rất lớn. Cùng lúc tại Tam Đảo, Nguyễn Danh Phương cũng khởi nghĩa. Trước tình thế phải đối phó với nhiều cánh quân mạnh, Trịnh Doanh cho Danh Phương đầu hàng dù biết Danh Phương chỉ muốn tạm hàng để củng cố lực lượng. Tạm yên mặt bắc, Doanh dồn sức đánh Hữu Cầu và Công Chất ở phía đông nam.
Có người gièm pha Phạm Đình Trọng khi Trọng đang cầm quân đánh dẹp. Trịnh Doanh vẫn tin tưởng Trọng, còn gửi một bài thơ trấn an động viên.
Nhờ sức hai tướng giỏi là Đình TrọngNgũ Phúc, Trịnh Doanh đánh bại cả hai cánh quân khiến Cầu phải bỏ chạy vào Nghệ An, Chất chạy vào Thanh Hóa. Từ đó hai cánh quân này bị tách rời nhau không hợp sức tác chiến được nữa. Công Chất chạy lên phía tây bắc chiếm cứ Mường Thanh xa xôi hẻo lánh, Hữu Cầu cô thế nhiều lần bị đánh bại.
Trong khi Trịnh Doanh dồn sức đánh Hữu Cầu và Công Chất thì Danh Phương xưng hiệu, đặt cung điện, thanh thế lớn mạnh. Trịnh Doanh để Đình Trọng đánh Cầu, còn mình mang quân sang dẹp Phương. Năm 1751, thúc đại quân đánh Phương ở đồn Ức Kỳ và Hương Canh. Do sự nghiêm khắc với tướng sĩ của Trịnh Doanh, quân Trịnh liều mình lăn xả vào trận đánh địch, phá được Danh Phương. Khi Trịnh Doanh bắt được Phương mang về kinh thì Đình Trọng cũng bắt được Hữu Cầu giải đến. Thế là hai cánh quân khởi nghĩa lớn bị dẹp cùng lúc. Các cánh quân của thủ lĩnh Thành, thủ lĩnh Tương cũng bị trấn áp.
Tới năm 1751, chỉ còn hai cánh quân của Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật chiếm cứ những nơi xa và hiểm trở, những vùng đông dân cư đều yên ổn trở lại. Cánh quân Công Chất ở quá xa, còn cánh Duy Mật vốn xuất thân là hoàng tộc nhà Lê nên Trịnh Doanh cũng không muốn dồn bức quá gắt gao.
Để có lực lượng đối phó với các cuộc khởi nghĩa, Trịnh Doanh ưu đãi tướng sĩ để khuyến khích sự hăng hái của họ. Binh lính nòng cốt là lính Thanh – Nghệ, vì cậy có công nên trở thành kiêu binh. Mặt khác, vì muốn dẹp loạn bằng mọi giá, Trịnh Doanh đã hạ lệnh đốt hết sổ sách thư từ, thu nhặt hết chuông khánh trong các chùa để đúc binh khí.
Trịnh Doanh là người chǎm chỉ lo việc chính sự: cho đặt ống đồng ở cửa phủ để nhận thư từ dân chúng tố cáo việc làm sai trái của quan lại, định lệ các quan từ tam phẩm đến nhất phẩm, mỗi ngày lần lượt thứ tự hai người vào phủ chúa để hỏi về chính sự và mưu sách việc quân việc nước.
Nǎm 1755, vua Lê Hiển Tông gia phong cho Trịnh Doanh là Thượng Sư Thượng Phụ Anh Đoán Vǎn Trị Võ Công Minh Vương.
Một điều đáng chú ý là mỗi khi tuyển chọn và cất nhắc quan lại, Trịnh Doanh rất coi trọng thực tài. Trịnh Doanh là người đầu tiên quy định: bất cứ ai, trước khi bộ Lại bổ dụng cất nhắc, phải dẫn vào phủ đường yết kiến để chúa trực tiếp hỏi về việc làm, ai có khả nǎng mới trao cho chức quyền. Trịnh Doanh nổi tiếng thưởng phạt công minh. Nhiều danh sĩ xuất thân khoa bảng được trọng dụng, như là Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ,…
Tháng giêng năm 1767, Trịnh Doanh qua đời, hưởng thọ 48 tuổi, ở ngôi chúa được 28 năm (1740-1767), được tôn là Nghị Tổ Ân Vương. Trịnh Sâm lên nối ngôi, tức là Tĩnh Đô Vương.
Giống như Định Nam Vương Trịnh Căn trước đây, Trịnh Doanh không chỉ là nhà chính trị, nhà quân sự, mà còn là một nhà thơ. Thơ của Trịnh Doanh thiên về thơ nôm. Tập thơ nôm mà Trịnh Doanh để lại có tên “Càn nguyên ngự chế thi tập” hiện nay vẫn còn lưu bản chép tay, do con trai là Trịnh Sâm đặt tên và quan Thị thư Viện hàn lâm kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám là Phan Lê Phiên biên soạn, viết tựa.
Nội dung của tập thơ phần lớn do yêu cầu chính trị, quân sự và hoàn cảnh cụ hể quy định. Trịnh Doanh tỏ ra là người coi trọng sử dụng chữ nôm. Thể thơ chủ yếu mà ông áp dụng là thơ Đường luật, đôi lúc xen với câu 6 chữ, một số ít làm theo thể thơ lục bát hoặc thơ song thất lục bát. Các nhà nghiên cứu văn học đánh giá Trịnh Doanh xứng đáng được xếp vào hàng ngũ các tác gia có tên tuổi của Việt Nam.
(5) Hoàng Ngũ Phúc (1713-1776) là danh tướng thời Lê Mạt . Quê ở xã Phụng Công, huyện Yên Dũng , Bắc Giang. Hoàng Ngũ Phúc có công lớn trong việc đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài và là tổng chỉ huy cuộc Nam tiến đánh Đàng Trong, mở mang đất đai Bắc Hà tới Quảng Nam.
Hoàng Ngũ Phúc xuất thân là hoạn quan, nổi tiếng là người có nhiều mưu kế.
 Bấy giờ Trịnh Doanh mới lên ngôi, khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài bùng nổ khắp nơi. Trong lúc triều đình lo việc đánh dẹp, tháng 2 năm 1743 Hoàng Ngũ Phúc dâng 12 điều về “binh pháp dẹp loạn” lên chúa Trịnh. Trịnh Doanh xem rất ưng ý, cho đem thi hành, rồi sai Phúc thống lĩnh kỳ binh đạo Hải Dương, cùng thống tướng Hoàng Công Kỳ đánh Nguyễn Hữu Cầu.
Tháng 6 năm 1743, Nguyễn Hữu Cầu đóng trại ở Đồ Sơn, hoạt động khắp vùng Hải Dương. Hoàng Ngũ Phúc theo Hoàng Công Kỳ cùng tiến đánh Đồ Sơn, Hữu Cầu phải chạy ra biển.
Năm sau, Hoàng Ngũ Phúc lại đem quân vây Hữu Cầu ở Đồ Sơn, Hữu Cầu phá vòng vây ra, chạy đến Kinh Bắc, đánh chiếm vùng Thọ Xương. Trấn thủ Kinh Bắc là Trần Đình Cẩm đại bại, cùng đốc đồng Vũ Phương Đề bỏ ấn tín mà chạy. Nửa đêm tin báo đến kinh, trong kinh thành nhốn nháo kinh sợ. Hoàng Ngũ Phúc được tin Kinh Bắc thất thủ, bèn dẫn quân tiến đến đóng ở Võ Giàng.
Trịnh Doanh sai Cổn quận công Trương Khuông phối hợp cùng Ngũ Phúc họp quân tiến đánh, Hữu Cầu thua chạy, Ngũ Phúc lấy lại được thành Kinh Bắc. Trịnh Doanh bèn điều thêm các tướng cùng đánh Hữu Cầu.
Tháng 11, Trương Khuông đánh nhau với Nguyễn Hữu Cầu ở Ngọc Lâm, bị bại trận. Đinh Văn Giai lại bị bại trận ở Xương Giang, đều cho triệu về; bổ dụng Hoàng Ngũ Phúc làm thống lãnh Bắc Đạo, trấn thủ Kinh Bắc, kiêm trấn thủ Hải Dương. Hoàng Ngũ Phúc cùng Trương Khuông, Vũ Tá Liễn hẹn nhau cùng vây đánh Hữu Cầu. Khuông tự đem quân bản bộ đánh mặt trước. Hữu Cầu giữ nơi hiểm trở, đặt quân mai phục, dử quân Trương Khuông vào trong chỗ hiểm trở, quân của Khuông thua to. Quân Trịnh bốn đạo không đánh tự vỡ, thế quân Hữu Cầu lại mạnh lên.
Sau đó, Hữu Cầu vây doanh trại Thị Cầu. Hoàng Ngũ Phúc chia ra ba cánh để tiến quân: Phúc tự mình đem quân bản bộ đánh mặt trước, Đàm Xuân Vực đánh mặt tả, Nguyễn Danh Lệ đánh mặt hữu. Hữu Cầu bị thua, phải chạy qua sông, mới giải được vây. Trịnh Doanh bổ dụng Ngũ Phúc làm thống lãnh đạo Kinh Bắc, sau lại kiêm trấn thủ Hải Dương.
Tháng 1 năm 1745, tàn dư  họ Mạc từ Trung Quốc về đánh chiếm Thái Nguyên. Hoàng Ngũ Phúc cùng lưu thủ Văn Đình Ức cùng đem quân tiến đánh, phá được giặc, thu phục lại trấn thành.
Tháng 8 năm 1745, Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng cùng tiến đánh Nguyễn Hữu Cầu ở thành Xương Giang. Hữu Cầu phải phá vây chạy ra Yên Quảng, chiếm cứ Hạc Động, nhờ vào địa thế đảo-biển quanh co khúc khuỷu để hoạt động, thường dùng loại thuyền gọn nhẹ đánh phá vùng đông nam. Hoàng Ngũ Phúc cùng Đình Trọng đem quân đi đánh, chém được thủ hạ tâm phúc của Hữu Cầu là Thông và hơn 10 người, thu được nhiều quân nhu và ngựa chiến. Từ khi Thông chết, thế lực Hữu Cầu suy yếu dần…
Tháng 12 năm 1750, Hoàng Ngũ Phúc được lệnh cùng Đỗ Thế Giai định ra 37 điều quân lệnh, chia quân sĩ làm 4 đạo, sau đó chúa Trịnh Doanh bổ dụng Ngũ Phúc trông coi việc quân cùng đi đánh Nguyễn Danh Phương. Tháng 2 năm 1751, quân Trịnh đánh bại Nguyễn Danh Phương. Phương bị bắt mang về kinh xử tử cùng Nguyễn Hữu Cầu, cũng đã bị Phạm Đình Trọng bắt sống giải về kinh...
Nhờ công lao đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa, Hoàng Ngũ Phúc được phong làm Việp quận công, thường gọi là quận Việp. Năm 1754, Thượng thư bộ Binh Phạm Đình Trọng chết sớm, Hoàng Ngũ Phúc trở thành vị tướng quan trọng nhất của triều đình. ./.