Chùm truyện mini Đỗ Ngọc Thạch
1. CÔ GÁI VÙNG CAO
Con gái vùng cao khác con gái đồng
bằng, thành thị là đương nhiên rồi. Nhưng khác như thế nào thì ít người
nói trúng và nói hết. Ca khúc Sơn Nữ ca của nhạc sĩ Trần Hoàn
hay thật nhưng cũng chỉ nói được phần nhỏ mà thôi! Có ba “Nhà” khá nổi
tiếng rủ nhau lên vùng sơn cước với quyết tâm sẽ “Nói” bằng hết bí ẩn
của Sơn Nữ trong chỉ một tác phẩm của mình!...
Người thứ nhất là họa sĩ, mới tới
“Cửa rừng” của vùng sơn cước đã bắt gặp một thiếu nữ rất xinh đẹp. Sau
khi ước lượng số đo của cả ba vòng của sơn nữ cửa rừng, họa sĩ mời cô
gái làm người mẫu và hi vọng sẽ có bức tranh “Sơn Nữ” tuyệt vời. Cô gái
sơn nữ cửa rừng đồng ý làm người mẫu cho họa sĩ nhưng chưa kịp thực
hiện thì có cuộc thi tuyển người mẫu thời trang và cuộc thi Hoa hậu
miền sơn cước. Và thật bất ngờ, cô gái trúng á khôi ở cả hai cuộc thi
và thế là họa sĩ “mất mối làm ăn”, đành ôm hận phục thù mười năm chưa
muộn!Còn hai người kia, một là nhà thơ, một là nhà văn, đi thêm một ngày nữa thì gặp phiên chợ Tình vùng cao đã nghe nói từ lâu mà nay mới mục sở thị! Thế là hai người bị hút vào chợ Tình rồi như người bị bỏ bùa, nhà văn theo một cô sơn nữ (nói chính xác là cô gái người H’Mông – trước đây gọi là người Mèo) về tận cao nguyên đá Hà giang, còn nhà thơ thì theo một sơn nữ (người Lô Lô) về tận cái nơi rất khó đọc :Mã Pì Lèng!... Nghe nói hai người đã ở rể và đến nay thì đã bị “Vùng cao hóa” đến nỗi quên cả tiếng Kinh, toàn nói tiếng H’Mông và Lô Lô!...
Đó là lý do vì sao cho đến nay, sơn nữ vẫn còn là bí ẩn đối với dân vùng xuôi, đồng bằng!...
2.KÉN CHỌN NHÂN TÀI
Tỉnh nọ treo bảng tuyển dụng công chức từ cấp Trưởng Phòng các Sở cho đến phó giám đốc cấp Sở (hai chức danh này thực ra cũng xấp xỉ nhau cho nên tuyển chung một lượt). Vòng 1 chỉ có ý nghĩa thủ tục cho nên mọi người đều qua một cách dễ dàng (kiểm tra hồ sơ, lịch sử công tác chuyên môn, kiểm tra lại kiến thức chuyên ngành,v.v…). Vòng 2 khá gay cấn vì nội dung là kiểm tra những khả năng vượt trội, khả năng sáng tạo mà người bình thường không có được (như vậy mới đáng mặt anh hùng để chỉ huy cả một đội quân chứ! Nếu tạm so sánh với bên quân đội thì có thể tương đương với chức vụ Trung đoàn trưởng – Trung đoàn nhiều khi phải độc lập tác chiến, nếu không có đầu óc sáng tạo thì …chỉ có thua trận!). Quả nhiên Vòng hai đã loại ra 8 phần 10 (điều này phản ánh đúng thực trạng chung của đất nước: 80% dân số nước ta là nông dân lạc hậu, văn hóa thấp, mù chữ…). Vòng 3 sẽ rất gay cấn và hứa hẹn nhiều bất ngờ vì ai lọt vào Vòng 3 sẽ ngồi vào cái ghế phó Giám đốc Sở. Các thí sinh hầu hết đều rất căng thẳng và phải uống thuốc tăng lực, đương nhiên được gia đình chăm sóc kỹ lưỡng hơn cả võ sĩ quyền anh!...Đề ra của Vòng 3 thực ra rất đơn giản, không có tính chất “đánh đố” mà chỉ có tinh chất thử việc , tức thí sinh phải thực hành nhiệm vụ sẽ đảm nhận, cụ thể là nghe cán bộ của Phòng đó báo cáo rồi nhanh chóng đưa ra kết luận về thực trạng và giải pháp thực hiện tiếp theo (gọi tắt là “thực trạng và giải pháp”). Vòng “thực trạng và giải pháp” này thực ra rất khó cho điểm (vì thiên lý vạn lý – cái lý của ai là đúng nhất, hay nhất thì chỉ có Ông Trời mới phân định được), vì thế có thể nói vòng này “Chấm điểm Mặt” là chính, giống như ngày xưa đã có chuyện “Mạo Trạng Nguyên” – tức vì có cái mặt đẹp giai mà được chấm là Trạng Nguyên! Vì thế, để cho công bằng, các thí sinh khi vào phòng phỏng vấn đều phải đeo mặt nạ có hình 12 con giáp trông rất ngộ, để sẵn ở ngoài phòng thi. Một câu hỏi có tính chất xếp hạng là mỗi thí sinh ghi nhận xét của mình về cuộc thi vào một lá phiếu nhỏ…
Cuộc thi tuyển rồi cũng đến hồi kết với một kết quả bất ngờ: một thí sinh đậu Trạng nguyên và được đặc cách giữ chức Giám đốc Sở Nội vụ! Mọi người đoán già đoán non tại sao thí sinh này lại đậu Trạng Nguyên nhưng đây là chuyện bí mật, không công bố!...Phải đến 5 năm sau, thí sinh đậu Trạng nguyên ngày ấy, giờ đã là Chủ tịch tỉnh, trong một cuộc vui đã tiết lộ : Trong lá phiếu nhận xét về cuộc thi tôi chỉ viết mấy chữ : “Tổ chức thi cho vui mà thôi, mọi vấn đề nhân sự đã được các Sếp trong Ban Tổ chức Tỉnh ủy giải quyết từ lâu rồi !”
3. SỞ THÍCH NGƯỜI GIÀ
Gia đình ông Lê Trường Bách nổi tiếng một vùng vì tuổi thọ cao, nhiều thế hệ cùng tồn tại. Tứ đại đồng đường (4 thế hệ cùng tồn tại) đã là hiếm, vậy mà ở nhà ông là Ngũ đại đồng đường (5 thế hệ cùng tồn tại): Ông Lê Trường Bách (và vợ) 102 tuổi, con là Lê Trường Thọ (và vợ) 80 tuổi, con là Lê Trường Niên (vợ mới chết 2 năm) 60 tuổi, con là Lê Trường Kỳ (và vợ) 40 tuổi, con là Lê Trường Thiên, 20 tuổi, mới cưới vợ hồi Tết Kỷ Sửu, nếu cuối năm vợ Trường Thiên sinh con Trâu Vàng thì gia đình ông Trường Bách sẽ là Lục đại đồng đường! Điều đáng chú ý là ông Bách vốn là VĐV điền kinh từ thời Pháp xâm lược VN, và sau này, con, cháu, chắt, chút đều nối nghiệp ông, lúc trẻ thì làm VĐV, lớn tuổi thì làm Huấn luyện viên môn Điền kinh. Điều đáng chú ý thứ hai là mỗi đời chỉ sinh một con mà lại đều là con trai. Điều đáng chú ý thứ ba là gia đình ông có thể nói là chuẩn mực về mọi mặt, trong ấm ngoài êm, không hề có bi kịch gia đình mà căn nhà (rộng 100 mét vuông xây từ thời Pháp xâm lược VN, đến nay vẫn còn tốt) của ông Bách có giàn hoa Thiên Lý luôn đầy ắp niềm vui và tiếng cười!...
Tuy nhiên, có rất nhiều phiền toái xảy ra từ khi ông Trường Bách ngoài trăm tuổi. Ấy là khi ông bước sang tuổi 101 thì ông bỗng nhớ cồn cào, nhớ da diết cái môn chạy Maraton mà thời trẻ, ông luôn ở trong top 5 người về đích trước nhất. Tuy thế, không hiểu sao, lần nào ông cũng ở vị trí thứ 5, không sao bứt lên được! Có phải vì thế mà bây giờ nó trở lại “nói chuyện” với ông? Có nghĩa là ngày nào cũng vậy, bất kể nắng mưa, 4 giờ sáng là ông dậy, chạy cho đến 8 giờ mới về nhà! Con cháu ông phải chiều ý ông, thay nhau chạy theo ông để “hộ tống”, đề phòng chuyện bất trắc! Ngặt nỗi là con, cháu ông Bách không ai là VĐV môn chạy mà chỉ là nhảy cao, nhảy xa, phóng lao, ném đĩa!...Đến tối, sau bữa cơm, mới là trung tâm của sự rắc rối: Ông Bách mê chơi cờ Tướng, ông Niên mê cờ Vua cho nên ông Thọ vừa phải chơi cờ Tướng với Cha (tức ông Bách) vừa phải chơi cờ Vua với ông con (tức ông Niên), mà ông Bách hay hoãn, hay đòi đi lại mặc dù luật chơi cờ là “Hạ thủ bất hoàn” ai chả biết! Trong khi ba ông chơi cờ làm ầm ỹ cả nhà thì hai bà vợ ông Bách và ông Thọ lại cần yên tĩnh để ngồi Thiền, vợ chồng ông Kỳ mải mê với các trang Website, vợ chồng Thiên – thế hệ thứ 5 thì đang dán mặt vào màn hình Tivi! Lúc này, căn nhà ông Bách cứ như cái Hội chợ Triển lãm!...
Cũng có lúc, cả nhà ngồi lại “Họp gia đình” để tìm giải pháp vừa trên được dưới, nhưng mỗi người một ý, thật khó mà thống nhất, cứ như cái thời Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu! Cuối cùng, ông Bách chợt nghĩ ra điều gì đó và nói:”Bây giờ gia đình ta phải tập trung vào việc lấy vợ cho Trường Niên, vợ nó mất đã hai năm rồi! Gia đình ta như một cỗ máy đang hoạt động tốt, bỗng mất đi một chiếc đinh ốc quan trọng, thử hỏi sao không xảy ra trục trặc?” Mọi người ngớ ra một lúc rồi đều hiểu rằng không thể trì hoãn việc cưới vợ cho Lê Trường Niên! Thế là từ đó, mọi ý nghĩ, mọi hành động của mỗi thành viên trong gia đình đều hướng vào việc hệ trọng đó! Kết quả thế nào đến nay vẫ chưa rõ!...
4. BÀI CA KHÔNG QUÊN
“Có một bài ca không bao giờ quên…là bài ca tôi vẫn hát…” - đó là lời một bài hát mà những người cựu chiến binh không mấy ai không thuộc, và thỉnh thoảng họ lại hát lên khi chợt nhớ đến thời chiến tranh, khi chợt nhớ đến đồng đội. Nhưng những lời ca đó được hát thường xuyên, liên tục bởi một người lính đặc công năm xưa, nay tóc đã bạc phơ, hình hài thì gân guốc như tượng đồng. Điều đáng chú ý là người lính ấy không hát trên sân khấu rực rỡ ánh đèn mà được hát trên bệ cao dưới chân tượng đài ở giữa bùng binh của đường phố Sài Gòn. Bất kể nắng mưa, ngày đêm người ta đều thấy người lính già ấy đứng hát dưới chân tượng đài. Hát xong một lượt người lính lại đi một bài quyền và mồm thì hô vang những câu thiệu nghe rất lạ tai! Ai cũng bảo đó là một người tâm thần, một người điên, nhưng bà vợ tóc cũng bạc phơ và một cô con gái xinh đẹp như người mẫu thời trang chân dài thì không cho rằng chồng mình, cha mình bị điên, đúng giờ ăn họ lại đem đồ ăn thức uống tới cho “ca sĩ tượng đài”. Có người hỏi cô con gái : “Tại sao không tìm cách giữ ông già ở nhà? Có thể nhốt ông ấy trong buồng?” Cô con gái nhẹ nhàng đáp : “Chính vì nhờ những lời ca đó mà cha tôi còn sống đến bây giờ, chứ bạn bè đồng đội của ông ấy đã chết hết cả rồi!” Bà mẹ tóc bạc của cô gái thì nói : “Nhờ nghe những lời ca của ông ấy mà tôi cũng còn sống đến bây giờ đó! Ông có biết vợ chồng tôi cùng đã 102 tuổi rồi không! Còn con gái chúng tôi nó đã hơn 70 tuổi rồi đó!”. “Trời đất ơi! – Người vừa hỏi tròn mắt kinh ngạc – hơn 70 tuổi mà như người mẫu thời trang chân dài !”
5. NGƯỜI THIẾU PHỤ NAM XƯƠNG
Văn Chiến cưới vợ được đúng ba ngày thì nhập ngũ, vào tuốt chiến trường, ba năm sau mới được trở về với vợ. Vợ Chiến đã sinh cho chồng một đứa con trai, rất kháu khỉnh, lúc Chiến trở về đứa bé đã ba tuổi. Lúc Chiến mới về, vợ Chiến bảo con:”Con chào bố đi, bố con đấy!” . Đứa bé ngó Chiến rồi nói:”Đây không phải bố con! Sao mẹ bảo khi mình đi ngủ thì bố mới về và chui vào mùng cơ mà?” . Chiến ngỡ ngàng không hiểu sao và sinh nghi ngờ vợ ở nhà gian díu với ai? Vợ Chiến thấy vậy thì buồn lắm, không biết giải thích với chồng thế nào? Đến tối đi ngủ, bóng của người vợ hắt lên tường, kề cái mùng, thằng bé liền reo lên:”Kìa! Bố con tới rồi!” . Vợ chiến bừng tỉnh, chợt nhớ mình đã đọc cái chuyện “Người thiếu phụ Nam Xương” ở nhà mẹ đẻ rồi thường kể cho con nghe! Vợ Chiến vội chạy về nhà mẹ đẻ, lấy cuốn truyện “Người thiếu phụ Nam Xương” đưa cho chồng đọc. Người chồng đọc xong thì ôm chầm lấy vợ mà nói:”Trời đất ơi! Cái truyện hay thế mà sao anh chưa được đọc! Chút xíu nữa đã bắt em phải chịu số phận bi thảm như người thiếu phụ Nam Xương!”…Sau đó, Chiến rất chăm đi mua sách về đọc, chỉ ba năm mà sách chất đầy nhà! Lúc ấy, vợ Chiến mới nói:”Anh đã đọc hàng ngàn cuốn sách rồi, bây giờ thử viết lấy một, hai cuốn xem sao?” Thế là từ đó, Chiến mải miết ngồi viết…Không biết kết quả thế nào, chỉ biết là gia đình Chiến rất êm ấm, vui vẻ…/.
6. HIẾU TỬ MẠNH TÔNG
Trong loạt truyện Nhị Thập Tứ Hiếu có truyện Mạnh Tông hiếu tử : Mẹ bị bệnh, đắng miệng không ăn được cơm, chỉ đòi ăn măng, mà lúc đó không phải mùa măng mọc, khiến cho Mạnh Tông đi khắp rừng sâu bạt ngàn mà không tìm được măng, cuối cùng Ông Trời động lòng thương hóa phép cho mọc lên một bãi măng!...
Thời nay cũng có chàng Mạnh Hiếu, cũng có mẹ già bị ốm, cũng đắng miệng đòi ăn măng hoài. Bây giờ người ta đã biết làm ra măng khô, măng chua cho nên lúc nào cũng có măng, nhưng ngặt nỗi bà mẹ chàng Mạnh Hiếu lại không thích ăn măng khô, măng chua mà chỉ thích ăn măng tươi, cho nên việc kiếm măng của chàng Mạnh Hiếu cũng không phải dễ dàng gì …Cái khó nảy cái khôn! Chàng Mạnh Hiếu nghĩ:”Tại sao người xưa thích ăn măng, người thời nay cũng thích ăn măng? Chắc chắn không chỉ riêng mẹ ta thích ăn măng, mà còn biết bao bà mẹ khác?” Nghĩ là làm, thế là Mạnh Hiếu thành lập công ty Măng Mạnh Tông, có chi nhánh ở hầu khắp các tỉnh trên toàn quốc với đủ các chủng loại sản phẩm từ măng tre, măng trúc, măng giang, măng nứa…Tiếng lành đồn xa, Công ty Măng Mạnh Tông xuất phát từ lòng hiếu thảo đã chinh phục tuyệt đối khách hàng đã một lần dùng thử!
Hiện nay, Công ty măng Mạnh Tông của chàng hiếu tử Mạnh Hiếu đã phát triển không ngờ, nhiều bà con người Việt ở nước ngoài đã là khách hàng dài hạn, cung không đủ cầu! Đồng thời với việc mở rộng sản xuất, Mạnh Hiếu còn mời một số nhà khoa học đầu tư nghiên cứu những bí ẩn của món măng độc đáo này! Kết quả sẽ có nhiều bất ngờ!...
7. CON GÁI ĐỒNG CHIÊM
Hình ảnh đặc trưng của thôn nữ đồng quê phải là vùng đồng chiêm trũng: mỗi khi đi làm đồng là có một bộ “Nông phục” lỉnh kỉnh không kém bộ đội binh chủng Hóa học mỗi khi lâm trận: một bộ xà-cạp để cuốn chặt hai chân (cuốn từ bàn chân cho tới bẹn), một tấm vải như cái đai cuốn quanh bụng, có cô không chịu được nóng nực, bức bối thì chỉ cần một sợi dây chuối. Cái đai ngăn không cho các loại côn trùng chui vào chỗ có đôi nhũ hoa và là chỗ để treo một ống vôi (thường là một ống bằng nứa) để chống đỉa (đỉa nhiều vô kể, mỗi khi thấy đỉa bám vào đâu đó trên người thì cầm cái que cắm sẵn trong ống vôi chấm vào con đỉa một cái là nó tuột khỏi người ngay tức thì (đỉa rất sợ vôi đã thành tục ngữ “Sợ như đỉa phải vôi”). Và cũng khá quan trọng trong bộ Nông phục là cái khăn mỏ quạ cuốn trên đầu chỉ hở hai con mắt! Cho nên, đứng trước một đội quân được trang bị từ đầu đến chân kín mít như vậy, ta không thể biết ai là cô Đào, ai là cô Mận, Mơ…
Những năm chiến tranh chống Mỹ, chúng tôi đã đóng quân ở một vùng đồng chiêm trũng như thế. Và, tiểu đội trưởng Ban của tôi đã yêu tha thiết một cô thôn nữ tên Huệ. Cô Huệ lúc đó lại đang là Trung đội phó dân quân (vừa sản xuất vừa chiến đấu mỗi khi có máy bay Mỹ bay tới oanh tạc), rất bận rộn nên chưa muốn cho tiểu đội trưởng của tôi xin cưới. Nhưng chàng Ban khẩn thiết xin cưới ngay, nếu không mẹ chàng sẽ bắt chàng về quê cưới vợ! Lúc đó, cả Trung đội nữ dân quân đi đến quyết định: Cho 10 cô gái cao bằng nhau, gày béo như nhau đứng một hàng, nếu chàng Ban nhận ra được ai là cô Huệ thì sẽ cho cưới ngay, không thách cưới gì cả! Sáng hôm sau sẽ tổ chức thách đố thì nửa đêm, cô Huệ lén đến báo cho chàng Ban biết sẽ chấm một vết vôi vào vai trái để cho chàng nhận ra mình! Không ngờ chuyện đó bị lộ, khi mười cô gái xuất hiện trước mặt chàng Ban thì vai trái của cả mười cô đều có chấm vôi!...Khỏi nói chàng Ban và cả cô Huệ nữa đã “đau” như thế nào! Và cái sự “đau” này trở thành nỗi đau thật sự và tàn khốc khi buổi trưa hôm đó, trận địa pháo của chúng tôi bị trúng bom của máy bay Mỹ, và quả bom rơi và nổ ngay sát tiểu đội trưởng Ban khi anh đang phất cờ lệnh cho khẩu pháo nhả đạn!...Trong đám tang tiểu đội trưởng Ban sau đó, cả mười cô gái có chấm vôi hôm ấy đều đội khăn tang với nghi thức người vợ… Nhưng , Ban ơi, anh chỉ cần một cô Huệ thôi phải không?!
8. MÙI CHỒNG
Thị Đào là một thôn nữ đẹp người đẹp nết, được làng xóm quý mến, nhưng không hiểu sao bất hạnh lại ập đến dồn dập : Lấy chồng được ba bảy hai mốt ngày thì chồng nhập ngũ, đi một mạch tới tận chiến trường ác liệt. Thị Đào nhớ thương chồng mỏi mòn con mắt…Một năm, hai năm rồi ba năm vẫn không thấy chồng về mà cũng chẳng có tin tức gì , Thị Đào khóc thương nhiều quá đến nỗi mù cả hai mắt, chẳng làm ăn gì được, suốt ngày cứ lần mò xếp đi xếp lại những bộ quần áo, vật dụng của chồng…Xếp nhiều đến nỗi chỉ thoáng ngửi qua là biết ngay đó là quần áo, đồ vật mà chồng thường dùng trước đây…
Nói về người chồng, tên gọi Lực Điền, sau ba năm chiến đấu, sắp tới ngày đại thắng thì lại bị thương rất nặng và oái oăm thay vết thương toàn ở phần mặt làm cho khuôn mặt của anh ta bị biến dạng, không còn hình thù như mặt người bình thường nữa. (Đúng lúc này ở nhà người vợ bị mù… - có sự thần giao cách cảm gì đây?). Sau khi vết thương lành, đáng lẽ từ trại an dưỡng người chồng sẽ đi thẳng về nhà như bao người lính khác. Nhưng anh chàng Lực Điền lại nghĩ: Bộ mặt mình gớm ghiếc thế này về chỉ làm khổ vợ mà thôi! Anh chàng Lực Điền bèn xin vào làm việc ở một cơ sở sản xuất của thương binh, cách nhà tới chục cây số…Muốn quên tất cả đi nhưng không sao quên được, làm việc được một tuần lễ thì anh chàng Lực Điền lần mò về nhà. Đêm hôm ấy trời tối đen như mực, anh chàng Lực Điền nấp ở bụi cây sau nhà, nhìn vào nhà thấy vợ ngồi một chỗ như người bị mù thì bồn chồn không yên! Chỉ sau khoảng mười phút, anh chàng Lực Điền nghe tiếng vợ nói từ trong nhà vọng ra: “Chàng Lực Điền ơi! Về rồi sao không vào nhà, đứng đó muỗi đốt chết!” Anh chàng Lực Điền nghe mà bàng hoàng, sửng sốt, thoáng nghĩ: “Tại sao vợ mình lại biết mình về nhỉ? Mình là lính đặc công, đến không ai biết đi không ai hay cơ mà! Tiếng người vợ lại vọng ra: “Chàng còn nghĩ ngợi gì nữa ! Em đã ngửi thấy cả mùi vết thương trên mặt chàng rồi đó! Vào nhà đi, vợ chồng hội ngộ mà còn e ngại nỗi gì!”.
Chàng Lực Điền chạy vút vào nhà, ôm chầm lấy người vợ rồi khóc rống: “Tại sao vợ tôi lại bị mù thế này?” . Người vợ sờ lên những vết sẹo trên mặt chồng mà nói: “Thôi đi nào, khóc như trẻ con thế! Em nay tuy đã mù nhưng mũi lại thính lắm, anh vừa về tới đầu nhà là em ngửi thấy mùi anh liền! Anh dù có bị thương đầy mặt cũng chẳng sao!” . Nói rồi hai vợ chồng lại ôm lấy nhau mà khóc, khóc vì vui sướng! …Được một lúc, người vợ nói:”Cái “của quý” ấy nó không những không bị thương mà còn khỏe ra thế a?!” . Chàng Lực Điền không nói gì mà chỉ nghĩ:”Nó mà bị thương thì còn gì đời trai!” . Còn người vợ không nói gì nữa mà nghĩ:”Ôi, thật là kỳ diệu! Tiếc là ta bị mù rồi, không biết mặt mũi nó ra sao mà khỏe thế?!”…Đó là lúc cả hai vợ chồng Lực Điền và Thị Đào cùng sung sướng tột đỉnh!... /.
Đỗ Ngọc Thạch
QUẬN HE
Truyện ngắn ĐỖ NGỌC THẠCH
Từ khi kết thúc chiến tranh phía nam với Chúa Nguyễn (Trịnh – Nguyễn phân tranh)
và dứt được việc cát cứ ở Cao Bằng của họ Mạc, các chúa Trịnh là Tây
Định vương Trịnh Tạc và Định Nam vương Trịnh Căn ra sức củng cố chính
quyền ở Đàng Ngoài (Bắc Hà).
Năm 1729, An Đô vương Trịnh Cương
mất, con là Trịnh Giang lên thay, tức là Uy Nam vương. Từ khi Trịnh
Giang cầm quyền, chính sự Bắc Hà bắt đầu suy. Năm 1732, Giang phế bỏ
vua Lê Duy Phường và sau đó giết chết vua, lập anh Duy Phường lên ngôi,
tức là Lê Thuần Tông (1732 - 1735). Các đại thần của Vua Lê như
Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn cũng bị giết hại. Giang sống xa xỉ, vì
thế thuế má ngày càng nhiều, sưu dịch ngày càng nặng khiến dân chúng
Đàng Ngoài vô cùng cực khổ, cơm không đủ ăn, áo không có mặc. Ăn xin,
ăn mày đầy đường, tình cảnh thật thê thảm. “Bần cùng sinh đạo tặc” -
nông dân Đàng Ngoài nổi lên khởi nghĩa khắp nơi.
Năm 1737, nhà sư Nguyễn Dương Hưng
nổi dậy khởi nghĩa ở Tam Đảo. Năm 1739, Vũ Đình Dung nổi dậy ở Ngân Già
,hậu duệ nhà Mạc (đã bị đổi họ) là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển cùng Vũ
Trác Oánh nổi dậy ở Hải Dương. Theo "Lê Triều dã sử", Nguyễn Cừ và
Nguyễn Tuyển tin theo Sấm Trạng Trình: "Phá điền thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành"
(Vỡ ruộng thiên tử ra, không đánh tự nhiên thành) nên dựng cờ khởi
nghĩa. Khởi nghĩa này sau đó không lâu bị dẹp nhưng thuộc hạ của hai
người là Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu tiếp tục tập hợp lực lượng
và trở thành hai cánh quân khởi nghĩa lớn và làm hao binh tổn tướng của
chúa Trịnh nhiều hơn cả.Tại Tam Đảo, sau khi Nguyễn Dương Hưng thất bại, Nguyễn Danh Phương nổi dậy và cũng trở thành một cuộc khởi nghĩa lớn trong nhiều năm. Tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật cũng định làm binh biến ở Thăng Long để lật đổ họ Trịnh nhưng không thành nên rút ra ngoài khởi nghĩa, cát cứ suốt 30 năm.
Phong trào khởi nghĩa trải rộng khắp Bắc bộ vào tới Thanh Hoá, Nghệ An. Các cuộc khởi nghĩa phần đông lấy tiếng "phù Lê diệt Trịnh" làm cớ. Nhân dân mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo quân khởi nghĩa, đông thì có hàng vạn người, ít thì cũng có đến hàng trăm hàng nghìn người, rồi đi cướp phá ở các hương thôn và vây các thành ấp, quân triều đình đánh dẹp không được…
Trong cung, Trịnh Giang xa xỉ, bại
hoại, gian dâm với cung nữ của cha, lại bị sét đánh nên tin theo lời
hoạn quan, làm nhà hầm ở luôn dưới đất để tránh sét, còn việc chính trị
thì để cho các hoạn quan là bọn Hoàng Công Phụ chuyên quyền làm bậy.
Trước tình hình đó, gia tộc họ
Trịnh quyết định phế truất Giang, lập em Giang là Trịnh Doanh lên ngôi,
ấy là vào năm 1740. Là người “hữu trách”, Trịnh Doanh bắt đầu chỉnh
đốn tình hình trong nước, ra tay đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa.Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển giữ đất Đỗ Lâm ở Gia Phúc, núi Phao Sơn ở Chí Linh, làm đồn, xây lũy liên lạc với nhau, lực lượng nghĩa quân có tới hàng mấy vạn, quân triều đình đi đánh, rất khó khăn. Mãi đến năm 1741, thống lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá mới phá được các đồn quân khởi nghĩa ở Phao Sơn, ở Ninh Xá và Gia Phúc; Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết, Vũ Trác Oánh trốn đi mất tích. Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn được mấy tháng, lại về Đông Triều, nhưng vì hết lương phải vào nấp ở núi Ngọa Vân, bị Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũi đem về kinh hành hình…
**
Nguyễn Hữu Cầu (1) xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, văn võ kiêm toàn, lại bơi lội rất giỏi nên người đời gọi là Quận He. He (2) là tên loài cá ở biển Đông. Còn Quận là tước phong của triều đình cho những quan lại có công lớn gọi là Quận công.
Nguyễn Hữu Cầu được dân gian phong tước “Quận công” là sự mến mộ đặc
biệt, cũng giống như bên Văn, dân gian sẽ phong danh hiệu Trạng cho ai thực sự giỏi giang!
Thuở hàn vi, Hữu Cầu vì nhà nghèo nên thường đi theo bọn cướp. Lúc đó, có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân(3), một thủ lĩnh là Nguyễn Cừ mến tài Cầu nên thu nhận Cầu. Cầu được Cừ tin tưởng gả con gái yêu là Nguyễn Ngọc Quỳnh cho. Chẳng bao lâu Cầu nổi tiếng là một viên tướng giỏi võ nghệ, dũng cảm gan dạ và nhiều mưu lược.
Khi Nguyễn Cừ bị Phạm Đình Trọng bắt ở núi Ngọa Vân, Nguyễn Hữu Cầu thay vị trí Thủ lĩnh nghĩa quân của Nguyễn Cừ, đem thủ hạ về chiếm giữ núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn. Năm 1743, quận He Hữu Cầu giết được Thủy Đạo đốc binh là Trịnh Bảng, tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân, thanh thế rất lớn. Sau đó bị Hoàng Ngũ Phúc đem binh đến vây ở núi Đồ Sơn, Hữu Cầu phá vây ra, về đánh lấy thành Kinh Bắc. Trấn phủ là Trần Đình Cẩm và Đốc đồng là Vũ Phương Đề đem quân đánh Cầu ở Thị Cầu nhưng đại bại, phải bỏ ấn tín mà chạy. Thăng Long được tin ấy, triều đình rất lo lắng.
Thuở hàn vi, Hữu Cầu vì nhà nghèo nên thường đi theo bọn cướp. Lúc đó, có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân(3), một thủ lĩnh là Nguyễn Cừ mến tài Cầu nên thu nhận Cầu. Cầu được Cừ tin tưởng gả con gái yêu là Nguyễn Ngọc Quỳnh cho. Chẳng bao lâu Cầu nổi tiếng là một viên tướng giỏi võ nghệ, dũng cảm gan dạ và nhiều mưu lược.
Khi Nguyễn Cừ bị Phạm Đình Trọng bắt ở núi Ngọa Vân, Nguyễn Hữu Cầu thay vị trí Thủ lĩnh nghĩa quân của Nguyễn Cừ, đem thủ hạ về chiếm giữ núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn. Năm 1743, quận He Hữu Cầu giết được Thủy Đạo đốc binh là Trịnh Bảng, tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân, thanh thế rất lớn. Sau đó bị Hoàng Ngũ Phúc đem binh đến vây ở núi Đồ Sơn, Hữu Cầu phá vây ra, về đánh lấy thành Kinh Bắc. Trấn phủ là Trần Đình Cẩm và Đốc đồng là Vũ Phương Đề đem quân đánh Cầu ở Thị Cầu nhưng đại bại, phải bỏ ấn tín mà chạy. Thăng Long được tin ấy, triều đình rất lo lắng.
**
Bấy giờ Trịnh Doanh (4) mới lên ngôi, đêm ngày cùng triều đình lo việc đánh dẹp. Tháng 2 năm 1743 Hoàng Ngũ Phúc
(5) dâng 12 điều về “binh pháp dẹp loạn” lên chúa Trịnh. Trịnh Doanh
biết Phúc là người có tài, nên rất ưng ý, liền sai Phúc thống lĩnh kỳ
binh đạo Hải Dương, cùng thống tướng Hoàng Công Kỳ đánh Nguyễn Hữu Cầu.
Hoàng Ngũ Phúc liền cùng với Trương Khuông tiến đánh Cầu và lấy lại thành Kinh Bắc, nhưng thế lực Hữu Cầu vẫn mạnh: phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu. Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh Hữu Cầu ở Xương Giang. Hai bên vẫn ở thế giằng co…
Vì ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên quận He đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có. Nguyễn Hữu Cầu được người đời đánh giá là bậc anh hùng kiệt hiệt, nhiều mưu mẹo nhất trong số các thủ lĩnh khởi nghĩa lúc đó. Có khi bị vây hàng mấy vòng, Cầu chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo.
Các tướng sĩ họ Trịnh ai cũng ngại đụng độ với Quận He, duy chỉ có Phạm Đình Trọng là bạn học thuở nhỏ là người hiểu rất kỹ Quận He. Hai người đố kỵ nhau từ trước sau đó lại thành đối địch, Hữu Cầu đào mồ mẹ Trọng đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu.
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng cùng học một thầy. Trọng hay được thầy khen nhưng Cầu không phục. Một hôm đi đám ma về, thày cho cả hai người đi theo. Nhà đám biếu thủ lợn, Cầu và Trọng đùn đẩy nhau không ai chịu xách. Thầy bèn ra vế đối, bảo ai đối được thì không phải xách: Huề trư thủ (xách đầu lợn).
Trọng đối lại: Phan long lân (Vịn vây rồng). Còn Cầu đối: Diệt Tần phá Sở.
Thầy gõ quạt lên đầu Cầu, nói : “Câu đối không chuẩn, lại thừa chữ! Trò Cầu phải xách thủ lợn rồi!”. Nhưng Cầu vẫn gân cổ cãi: “Tôi đối sai thật, nhưng ý tôi là muốn bóc vẩy rồng kia, chứ không thèm vịn vây rồng như Trọng”! Thầy giật mình bảo: “Trò ăn nói phạm thượng như vậy tất có ngày mang vạ!”.
Một lần khác thầy lại ra vế đối: Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo. Trọng đối: Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc. Cầu lại đối rằng: Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động.
Thầy nghe xong bảo: “Thằng Trọng có khẩu khí làm quan, còn thằng Cầu thì chỉ làm giặc”!
Rồi từ đó ông Thầy sợ không dám nhận dạy Cầu nữa. Sau này quả nhiên Trọng làm quan cho nhà Lê còn Cầu gia nhập quân khởi nghĩa chống lại triều đình.
Hoàng Ngũ Phúc liền cùng với Trương Khuông tiến đánh Cầu và lấy lại thành Kinh Bắc, nhưng thế lực Hữu Cầu vẫn mạnh: phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu. Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh Hữu Cầu ở Xương Giang. Hai bên vẫn ở thế giằng co…
Vì ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên quận He đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có. Nguyễn Hữu Cầu được người đời đánh giá là bậc anh hùng kiệt hiệt, nhiều mưu mẹo nhất trong số các thủ lĩnh khởi nghĩa lúc đó. Có khi bị vây hàng mấy vòng, Cầu chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo.
Các tướng sĩ họ Trịnh ai cũng ngại đụng độ với Quận He, duy chỉ có Phạm Đình Trọng là bạn học thuở nhỏ là người hiểu rất kỹ Quận He. Hai người đố kỵ nhau từ trước sau đó lại thành đối địch, Hữu Cầu đào mồ mẹ Trọng đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu.
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng cùng học một thầy. Trọng hay được thầy khen nhưng Cầu không phục. Một hôm đi đám ma về, thày cho cả hai người đi theo. Nhà đám biếu thủ lợn, Cầu và Trọng đùn đẩy nhau không ai chịu xách. Thầy bèn ra vế đối, bảo ai đối được thì không phải xách: Huề trư thủ (xách đầu lợn).
Trọng đối lại: Phan long lân (Vịn vây rồng). Còn Cầu đối: Diệt Tần phá Sở.
Thầy gõ quạt lên đầu Cầu, nói : “Câu đối không chuẩn, lại thừa chữ! Trò Cầu phải xách thủ lợn rồi!”. Nhưng Cầu vẫn gân cổ cãi: “Tôi đối sai thật, nhưng ý tôi là muốn bóc vẩy rồng kia, chứ không thèm vịn vây rồng như Trọng”! Thầy giật mình bảo: “Trò ăn nói phạm thượng như vậy tất có ngày mang vạ!”.
Một lần khác thầy lại ra vế đối: Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo. Trọng đối: Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc. Cầu lại đối rằng: Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động.
Thầy nghe xong bảo: “Thằng Trọng có khẩu khí làm quan, còn thằng Cầu thì chỉ làm giặc”!
Rồi từ đó ông Thầy sợ không dám nhận dạy Cầu nữa. Sau này quả nhiên Trọng làm quan cho nhà Lê còn Cầu gia nhập quân khởi nghĩa chống lại triều đình.
**
Năm 1746, quận He cho người đem
vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh
để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng Nghĩa
Hầu.
Nguyễn Hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về đánh phá ở đất Sơn Nam. Phạm Đình Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng. Hữu Cầu nhân lúc kinh thành không ai phòng bị, nên lẻn về đánh, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đình Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy, về cùng với Hoàng Công Chất đánh cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi. Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An.
Chúa Trịnh Doanh lên ngôi Chúa từ năm 1740, được chục năm rồi mà vẫn chưa dẹp được Hữu Cầu, lấy làm buồn bực, nói với Phạm Đình Trọng: “Ta cứ nghĩ tại sao chỉ tên giặc Cầu mà hai đại tướng của ta là Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đánh mãi tới chục năm trời mà vẫn chưa xong, cứ để nó chạy quanh như đèn kéo quân?”. Trọng thưa: “Bẩm Chúa công! Thực ra chỉ cần một mình thần là có thể bắt được Cầu. Hoàng Ngũ Phúc nhiều lúc muốn tranh công mà làm lỡ chuyện! Nay xin Chúa giao việc này cho thần, chỉ nay mai là có thể bắt Cầu dâng Chúa bởi Cầu chạy vào Nghệ An là chạy vào tử địa, sẽ không còn ai theo Cầu nữa mà còn có thể bắt Cầu giao nộp cho triều đình lĩnh thưởng!”. Chúa Trịnh Doanh cho là phải, liền bảo Hoàng Ngũ Phúc cùng Chúa đi đánh Nguyễn Danh Phương và giục Trọng kéo quân vào Nghệ An đánh Cầu.
Phạm Đình Trọng tức tốc kéo quân vào Nghệ An tiến đánh Cầu rất gấp. Hữu Cầu quân ít, tướng ít không cự nổi, chạy đến làng Hoàng Mai thì bị bắt, ấy là vào năm 1751. Trọng đóng cũi giải Cầu về nộp chúa Trịnh. Trịnh Doanh cùng lúc đó bắt được Nguyễn Danh Phương, giải về Kinh đô, đi đến làng Xuân Hi, huyện Kim Anh, gặp Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt Danh Phương dâng rượu, Hữu Cầu thổi kèn…
Nguyễn Hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về đánh phá ở đất Sơn Nam. Phạm Đình Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng. Hữu Cầu nhân lúc kinh thành không ai phòng bị, nên lẻn về đánh, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đình Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy, về cùng với Hoàng Công Chất đánh cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi. Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An.
Chúa Trịnh Doanh lên ngôi Chúa từ năm 1740, được chục năm rồi mà vẫn chưa dẹp được Hữu Cầu, lấy làm buồn bực, nói với Phạm Đình Trọng: “Ta cứ nghĩ tại sao chỉ tên giặc Cầu mà hai đại tướng của ta là Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đánh mãi tới chục năm trời mà vẫn chưa xong, cứ để nó chạy quanh như đèn kéo quân?”. Trọng thưa: “Bẩm Chúa công! Thực ra chỉ cần một mình thần là có thể bắt được Cầu. Hoàng Ngũ Phúc nhiều lúc muốn tranh công mà làm lỡ chuyện! Nay xin Chúa giao việc này cho thần, chỉ nay mai là có thể bắt Cầu dâng Chúa bởi Cầu chạy vào Nghệ An là chạy vào tử địa, sẽ không còn ai theo Cầu nữa mà còn có thể bắt Cầu giao nộp cho triều đình lĩnh thưởng!”. Chúa Trịnh Doanh cho là phải, liền bảo Hoàng Ngũ Phúc cùng Chúa đi đánh Nguyễn Danh Phương và giục Trọng kéo quân vào Nghệ An đánh Cầu.
Phạm Đình Trọng tức tốc kéo quân vào Nghệ An tiến đánh Cầu rất gấp. Hữu Cầu quân ít, tướng ít không cự nổi, chạy đến làng Hoàng Mai thì bị bắt, ấy là vào năm 1751. Trọng đóng cũi giải Cầu về nộp chúa Trịnh. Trịnh Doanh cùng lúc đó bắt được Nguyễn Danh Phương, giải về Kinh đô, đi đến làng Xuân Hi, huyện Kim Anh, gặp Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt Danh Phương dâng rượu, Hữu Cầu thổi kèn…
Khi Cầu bị giải về kinh thành, vượt
ngục nhưng trời không giúp: Lính canh ngục đã bí mật giúp Cầu và cả
Danh Phương thoát ra khỏi ngục, nhưng khi trèo qua một đoạn tường thành
thì do hai người quá nặng mà đoạn tường thành đổ sập, quân lính thấy
động đổ xô tới bắt!...Tháng 3 năm 1751, Hữu Cầu bị hành hình. Phạm Đình
Trọng mang quân về quê Hữu Cầu, quật mộ bố Nguyễn Hữu Cầu, giết 3 họ
gia quyến của Cầu, không sót người nào.
**
Chim trong lồng
là bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Hữu Cầu làm trước khi bị đem hành
hình còn lưu truyền đến ngày nay. Bài thơ làm bằng tiếng Hán và cả
tiếng Nôm, ai đọc cũng đều thương cảm…
Khi Cầu bị bắt, Trọng lại gần xem
“bạn học cũ” có yêu cầu gì không, nhưng thấy Cầu ngồi hát xướng rất
bình thản. Trọng hỏi: “Anh bây giờ như con chim trong lồng, còn gì mà
hát? Nghe nói anh có tài xuất khẩu thành thơ, trong trường hợp nào
cũng làm được! Vậy anh thử làm bài thơ “Chim trong lồng” xem sao?”Cầu không cần đợi giục tới lần thứ hai, liền ngâm một mach:
…Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán
Phá vòng vây làm bạn kim ô
Giang sơn khách diệc tri hồ?
Trọng nghe Cầu đọc thì đứng lặng hồi lâu, đoạn bỏ đi mà không nói gì.
**
Dẹp được Cầu, Trọng được phong làm Binh Bộ thượng thư.
Nhưng cũng chỉ 3 năm sau (1754), Trọng chết lúc mới 40 tuổi. Có Cầu
thì có Trọng đối địch, Cầu không còn thì Trọng cũng ra đi, cũng không
khác chuyện Trạng Quỳnh: "Trạng chết thì chúa băng hà".Ngày nay có nhiều nơi thờ Nguyễn Hữu Cầu. Tại thôn Cựu Điện, xã Nhân Hoà, huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng) có đền thờ Nguyễn Hữu Cầu rất lớn. Tại Đồ Sơn, Nguyễn Hữu Cầu được thờ ở miếu Ngọc Xuyên, trong 6 vị tiên công và 2 vị thần có Nguyễn Hữu Cầu (gọi là "bát bộ tôn thần"). Cũng tại Đồ Sơn có "đài lên ngôi" của quận He.
Tại thôn Kinh Giao (An Hưng, An Nại, Hải Phòng) quê của Phạm Đình Trọng, bên cạnh đền thờ Đình Trọng có cả đền thờ Nguyễn Hữu Cầu.
Trên đường Yên Tử, gần Suối Tăm, có miếu nhỏ thờ Nguyễn Thị Quán (được tôn là Nguyệt Nga công chúa) là em gái quận He - người cũng tham gia khởi nghĩa, vợ của bộ tướng Giang Tâm. Tương truyền bà tự vẫn ở bến Đầu Cầu.
Giữa cánh đồng xã Lôi Động, gần sông Ngựa Lồng (Thanh Hà, Hải Dương), có đền thờ nơi phát tích của quận He, có bia ghi: "Tiên triều Ninh Đông vương phát tích mộ".
Tại làng Trà Cổ, thị xã Móng Cái (Quảng Ninh) có đình Trà Cổ thờ các vị tổ (Thành Hoàng làng), đồng thời là nơi thờ Quận He…
Sài Gòn, tháng 7-2010
Đỗ Ngọc Thạch
------Chú thích:
(1) Nguyễn Hữu Cầu: Nguyễn Hữu Cầu (?– 1751) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ 18, người xã Lôi Động, huyện Thanh Hà, Hải Dương…
(2) Cá He: Đặc điểm hình thái của cá He: Đầu nhỏ, nhọn. Mõm ngắn. Miệng trước co duỗi được. Có 2 đôi râu, râu mép dài hơn râu mõm và tương đương với đương kính của mắt. Mắt to hơi lồi ra ngoài và hơi lệch về phía lưng của đầu, gần chót mõm hơn gần điểm cuối của nắp mang. Phần trán giữa hai mắt gần như cong lồi nhưng ở những cá thể nhỏ gần như phẳng.Thân cao, dẹp bên. Cao thân tương đương 1/2 dài chuẩn. Lưng gù. Vảy tròn, to, phủ khắp thân. Mặt lưng của thân và đầu màu xanh rêu, lợt dần xuống hai bên hông và bụng có màu trắng bạc. Toàn thân ánh lên màu vàng, mép sau lỗ mang, rải rác trên nắp mang có sắc tố đen. Vây ngực màu vàng, các vây khác màu đỏ son.
(3) Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài : Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê Chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ khoảng năm 1739 và kết thúc năm 1769, trong 2 đời vua Lê là Lê Ý Tông và Lê Hiển Tông, 3 đời chúa Trịnh là Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. Các cuộc khởi nghĩa nông dân đáng chú ý hơn cả là:
Nguyễn Hữu Cầu (quận He), người huyện Thanh Hà (Hải Dương), trước vì nghèo nên đi làm cướp, sau theo Nguyễn Cừ khởi nghĩa. Khi Nguyễn Cừ bị bắt, Nguyễn Hữu Cầu đem thủ hạ về giữ núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn. Năm 1743, quận He giết được Thủy Đạo đốc binh là Trịnh Bảng, tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân, thanh thế rất lớn…
.Nguyễn Danh Phương (quận Hẻo), trước là thủ hạ của các thủ lĩnh Tế và Bồng khởi nghĩa ở Sơn Tây. Năm 1740, tướng Vũ Tá Lý đánh bắt được Tế và Bồng ở huyện An Lạc. Nguyễn Danh Phương đem thủ hạ về giữ núi Tam Đảo, một mặt thì mộ quân trữ lương và một mặt thì cho người về nói dối xin hàng. Bấy giờ Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất đang hoạt động mạnh ở phía đông nam nên Trịnh Doanh cho hàng.
Năm 1744, quận Hẻo đem hơn một vạn quân về giữ đất Việt Trì, sang cướp phá ở bên huyện Bạch Hạc. Bấy giờ Đốc suất Sơn Tây là Văn Đình Ức đem binh đến vây đánh, Danh Phương chạy sang giữ làng Thanh Linh (huyện Bình Xuyên, đất Thái Nguyên). Từ đó quận Hẻo lập đại đồn ở núi Ngọc Bội (giáp huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương), trung đồn ở đất Hương Canh, ngoại đồn ở đất Ức Kỳ, rồi tự xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân, làm cung điện, đặt quan thuộc, thu các thứ thuế ở đất Tuyên Quang, thanh thế lừng lẫy.
Năm 1750, Trịnh Doanh cùng Hoàng Ngũ Phúc đem đại quân đi đường Thái Nguyên đến đánh phá được đồn Ức Kỳ. Khi quân tiến lên đến đồn Hương Canh, quân khởi nghĩa bắn súng, đạn ra như mưa, quân triều đình hơi lùi. Trịnh Doanh ra lệnh nghiêm ngặt khiến quân lính mạnh dạn xông vào, phá được đồn Hương Canh. Quận Hẻo rút quân về giữ đồn Ngọc Bội, quân Trịnh tiến lên đuổi đánh. Tướng Nguyễn Phan sai thủ hạ cầm đồ đoản binh cho tự tiện đi trước mà vào, đại quân theo sau. Quận Hẻo giữ không nổi bỏ chạy tan vỡ. Nguyễn Danh Phương chạy vào núi Độc Tôn, quân Trịnh đuổi đến làng Tĩnh Luyện ở huyện Lập Thạch thì bắt được. Trịnh Doanh giải Phương về kinh đô xử tử.
Lê Duy Mật là con thứ vua Lê Dụ Tông. Năm 1738 đời vua Ý Tông, ông cùng các hoàng thân Lê Duy Quy và Lê Duy Chúc định mưu giết họ Trịnh, nhưng không thành phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Sau Duy Quy và Duy Chúc bị bệnh mất, Duy Mật giữ đất thượng du phía tây nam. Những người đồng mưu với Duy Mật đều bị họ Trịnh bắt được giết cả.
Lê Duy Mật đánh thắng quân Trịnh vài trận, bắt giết được tướng Phạm Công Thế. Từ khi chạy về Thanh Hóa, Duy Mật chiêu tập binh sĩ. Năm 1740, Duy Mật mang quân đánh ở Hưng Hóa và Sơn Tây, sau lại cùng với thủ lĩnh quân khởi nghĩa nông dân tên là Tương giữ đồn Ngọc Lâu (thuộc huyện Thạch Thành). Đến khi tướng họ Trịnh phá được đồn Ngọc Lâu, Tương tử trận, Lê Duy Mật lại chạy vào Nghệ An, rồi sang Trấn Ninh giữ núi Trình Quang làm căn cứ lâu dài.
Năm 1764, Lê Duy Mật sai người đem thư vào cầu cứu chúa Nguyễn Phúc Khoát nhưng chúa Nguyễn không muốn gây sự với họ Trịnh nên không giúp.
Năm
1767, được tin Trịnh Doanh vừa mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa, Lê
Duy Mật đem quân về đánh ở huyện Hương Sơn và Thanh Chương rồi lại rút
về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới
quyết ý dùng binh để dứt mối loạn.
Năm
1769, Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt làm thống lĩnh đất Nghệ An, Nguyễn Phan
làm chánh đốc lĩnh Thanh Hóa, Hoàng Đình Thể làm đốc binh đất Hưng
Hóa, cả ba đạo đều tiến sang đánh Trấn Ninh. Khi quân Bùi Thế Đạt và
Nguyễn Phan đến vây Trình Quang. Lê Duy Mật định cứ giữ hiểm không ra
đánh. Không ngờ là người con rể là Lại Thế Chiêu làm phản, mở cửa lũy
cho quân họ Trịnh vào. Duy Mật biết có nội biến, bèn cùng với vợ con tự
thiêu mà chết.
(4) Trịnh Doanh:
Minh Đô Vương Trịnh Doanh (1720-1767) là vị chúa Trịnh thứ tám thời Lê
Trung Hưng, ở ngôi từ năm 1740 đến 1767, đồng thời là một nhà thơ Việt
Nam.
Quê ở
làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, Trịnh Doanh là người có công
đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài, ổn định lại chính trị
ở Bắc Hà vốn suy yếu trầm trọng thời Trịnh Giang.
Trịnh Doanh
là con thứ 3 của An Đô Vương Trịnh Cương, đồng thời là em của Uy Nam
Vương Trịnh Giang. Từ khi còn trẻ Doanh đã sớm bộc lộ là người có vǎn
tài võ lược, được Trịnh Giang rất tin tưởng, phong làm Khâm Sai Tiết
Chế các xứ thủy bộ chủ quân, thái úy An Quốc Công, cho mở phủ đệ riêng
để phòng có người nối ngôi.
Trịnh
Giang bỏ bê chính sự, không đoái hoài tới công việc, từ nǎm 1736 đã
trao quyền nhiếp chính cho Trịnh Doanh, lúc đó mới 17 tuổi. Mỗi tháng
ba lần, Doanh thay Giang triều kiến trǎm quan ở Trạch Các để nghe tâu
trình công việc. Giang bị bệnh, tin dùng hoạn quan nịnh thần Hoàng Công
Phụ, làm nhà dưới đất ở không ra ngoài; lại tăng thuế và lao dịch
khiến dân chúng bất bình nổi dậy khởi nghĩa, triều đình bất lực, không
trị nổi.
Khi mới
lên nắm quyền nhiếp chính, Trịnh Doanh phải đối phó với sự ganh ghét
của Hoàng Công Phụ. Công Phụ hạ lệnh cho các quan khi muốn tâu việc gì
với Doanh không được dùng chữ “bẩm” mà phải dùng chữ “thân” (trình).
Hơn nữa Phụ chỉ để cho ông một căn nhà nhỏ phía nam phủ chúa gọi là
“để”.Biết Công Phụ muốn hại mình, Trịnh Doanh kín đáo nín nhịn. Năm 1740, Trịnh thái phi họ Vũ triệu các đại thần Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Công Thái, Trịnh Đạc, Vũ Tất Thận, Nguyễn Đình Hoàn họp trừ khử Phụ để đưa Doanh lên ngôi. Nhân lúc Phụ mang quân bản bộ đi dẹp quân khởi nghĩa Nguyễn Tuyển, Nguyễn Quý Cảnh mang hương binh vào bảo vệ phủ chúa rồi chầu vua Lê, xin chỉ lập Trịnh Doanh, sau đó điều quân giết hết bè cánh của Công Phụ. Trịnh Doanh thay quyền ngôi chúa, lấy hiệu là Minh Đô Vương, tôn Trịnh Giang làm Thái Thượng Vương.
Ngay khi lên ngôi, Minh Đô Vương Trịnh Doanh lập tức chấn chỉnh bộ máy cai trị, bãi bỏ việc xây dựng chùa chiền, đường sá của Trịnh Giang, trả lại ruộng đất cho dân cày cấy và dùng nhiều biện pháp khác để nới sức dân. Nhiều sắc chỉ quy định dưới thời Trịnh Cương bị Trịnh Giang bãi bỏ nay được dùng lại.
Để dẹp loạn, Trịnh Doanh đã trọng dụng, cất nhắc các nhân tài như Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng, Hoàng Nghĩa Bá,…
Năm
1740, ngay sau khi lên ngôi, Trịnh Doanh tự cầm quân đi dẹp quân khởi
nghĩa của Vũ Đình Dung ở Ngân Già (Sơn Nam), bắt được Dung đem chém,
đổi tên đất ấy là Lai Cách.Sau khi Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển bị Hoàng Nghĩa Bá và Phạm Đình Trọng dẹp được, thủ hạ là Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu lại nổi dậy, thanh thế rất lớn. Cùng lúc tại Tam Đảo, Nguyễn Danh Phương cũng khởi nghĩa. Trước tình thế phải đối phó với nhiều cánh quân mạnh, Trịnh Doanh cho Danh Phương đầu hàng dù biết Danh Phương chỉ muốn tạm hàng để củng cố lực lượng. Tạm yên mặt bắc, Doanh dồn sức đánh Hữu Cầu và Công Chất ở phía đông nam.
Có người gièm pha Phạm Đình Trọng khi Trọng đang cầm quân đánh dẹp. Trịnh Doanh vẫn tin tưởng Trọng, còn gửi một bài thơ trấn an động viên.
Nhờ sức hai tướng giỏi là Đình Trọng và Ngũ Phúc,
Trịnh Doanh đánh bại cả hai cánh quân khiến Cầu phải bỏ chạy vào Nghệ
An, Chất chạy vào Thanh Hóa. Từ đó hai cánh quân này bị tách rời nhau
không hợp sức tác chiến được nữa. Công Chất chạy lên phía tây bắc chiếm
cứ Mường Thanh xa xôi hẻo lánh, Hữu Cầu cô thế nhiều lần bị đánh bại.
Trong
khi Trịnh Doanh dồn sức đánh Hữu Cầu và Công Chất thì Danh Phương xưng
hiệu, đặt cung điện, thanh thế lớn mạnh. Trịnh Doanh để Đình Trọng
đánh Cầu, còn mình mang quân sang dẹp Phương. Năm 1751, thúc đại quân
đánh Phương ở đồn Ức Kỳ và Hương Canh. Do sự nghiêm khắc với tướng sĩ
của Trịnh Doanh, quân Trịnh liều mình lăn xả vào trận đánh địch, phá
được Danh Phương. Khi Trịnh Doanh bắt được Phương mang về kinh thì Đình
Trọng cũng bắt được Hữu Cầu giải đến. Thế là hai cánh quân khởi nghĩa
lớn bị dẹp cùng lúc. Các cánh quân của thủ lĩnh Thành, thủ lĩnh Tương
cũng bị trấn áp.
Tới năm
1751, chỉ còn hai cánh quân của Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật chiếm
cứ những nơi xa và hiểm trở, những vùng đông dân cư đều yên ổn trở lại.
Cánh quân Công Chất ở quá xa, còn cánh Duy Mật vốn xuất thân là hoàng
tộc nhà Lê nên Trịnh Doanh cũng không muốn dồn bức quá gắt gao.
Để có
lực lượng đối phó với các cuộc khởi nghĩa, Trịnh Doanh ưu đãi tướng sĩ
để khuyến khích sự hăng hái của họ. Binh lính nòng cốt là lính Thanh –
Nghệ, vì cậy có công nên trở thành kiêu binh. Mặt khác, vì muốn dẹp
loạn bằng mọi giá, Trịnh Doanh đã hạ lệnh đốt hết sổ sách thư từ, thu
nhặt hết chuông khánh trong các chùa để đúc binh khí.Trịnh Doanh là người chǎm chỉ lo việc chính sự: cho đặt ống đồng ở cửa phủ để nhận thư từ dân chúng tố cáo việc làm sai trái của quan lại, định lệ các quan từ tam phẩm đến nhất phẩm, mỗi ngày lần lượt thứ tự hai người vào phủ chúa để hỏi về chính sự và mưu sách việc quân việc nước.
Nǎm 1755, vua Lê Hiển Tông gia phong cho Trịnh Doanh là Thượng Sư Thượng Phụ Anh Đoán Vǎn Trị Võ Công Minh Vương.
Một điều đáng chú ý là mỗi khi tuyển chọn và cất nhắc quan lại, Trịnh Doanh rất coi trọng thực tài. Trịnh Doanh là người đầu tiên quy định: bất cứ ai, trước khi bộ Lại bổ dụng cất nhắc, phải dẫn vào phủ đường yết kiến để chúa trực tiếp hỏi về việc làm, ai có khả nǎng mới trao cho chức quyền. Trịnh Doanh nổi tiếng thưởng phạt công minh. Nhiều danh sĩ xuất thân khoa bảng được trọng dụng, như là Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ,…
Tháng
giêng năm 1767, Trịnh Doanh qua đời, hưởng thọ 48 tuổi, ở ngôi chúa
được 28 năm (1740-1767), được tôn là Nghị Tổ Ân Vương. Trịnh Sâm lên
nối ngôi, tức là Tĩnh Đô Vương.
Giống như Định Nam Vương Trịnh Căn trước đây, Trịnh Doanh không chỉ là nhà chính trị, nhà quân sự, mà còn là một nhà thơ.
Thơ của Trịnh Doanh thiên về thơ nôm. Tập thơ nôm mà Trịnh Doanh để
lại có tên “Càn nguyên ngự chế thi tập” hiện nay vẫn còn lưu bản chép
tay, do con trai là Trịnh Sâm đặt tên và quan Thị thư Viện hàn lâm kiêm
Tư nghiệp Quốc Tử Giám là Phan Lê Phiên biên soạn, viết tựa.Nội dung của tập thơ phần lớn do yêu cầu chính trị, quân sự và hoàn cảnh cụ hể quy định. Trịnh Doanh tỏ ra là người coi trọng sử dụng chữ nôm. Thể thơ chủ yếu mà ông áp dụng là thơ Đường luật, đôi lúc xen với câu 6 chữ, một số ít làm theo thể thơ lục bát hoặc thơ song thất lục bát. Các nhà nghiên cứu văn học đánh giá Trịnh Doanh xứng đáng được xếp vào hàng ngũ các tác gia có tên tuổi của Việt Nam.
(5) Hoàng Ngũ Phúc (1713-1776) là danh tướng thời Lê Mạt . Quê ở xã Phụng Công, huyện Yên Dũng , Bắc Giang. Hoàng Ngũ Phúc có công lớn trong việc đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài và là tổng chỉ huy cuộc Nam tiến đánh Đàng Trong, mở mang đất đai Bắc Hà tới Quảng Nam.
Hoàng Ngũ Phúc xuất thân là hoạn quan, nổi tiếng là người có nhiều mưu kế.
Bấy giờ Trịnh Doanh mới lên ngôi, khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài bùng nổ khắp nơi. Trong lúc triều đình lo việc đánh dẹp, tháng 2 năm 1743 Hoàng Ngũ Phúc dâng 12 điều về “binh pháp dẹp loạn” lên chúa Trịnh. Trịnh Doanh xem rất ưng ý, cho đem thi hành, rồi sai Phúc thống lĩnh kỳ binh đạo Hải Dương, cùng thống tướng Hoàng Công Kỳ đánh Nguyễn Hữu Cầu.
Tháng 6 năm 1743, Nguyễn Hữu Cầu đóng trại ở Đồ Sơn, hoạt động khắp vùng Hải Dương. Hoàng Ngũ Phúc theo Hoàng Công Kỳ cùng tiến đánh Đồ Sơn, Hữu Cầu phải chạy ra biển.
Năm
sau, Hoàng Ngũ Phúc lại đem quân vây Hữu Cầu ở Đồ Sơn, Hữu Cầu phá vòng
vây ra, chạy đến Kinh Bắc, đánh chiếm vùng Thọ Xương. Trấn thủ Kinh
Bắc là Trần Đình Cẩm đại bại, cùng đốc đồng Vũ Phương Đề bỏ ấn tín mà
chạy. Nửa đêm tin báo đến kinh, trong kinh thành nhốn nháo kinh sợ.
Hoàng Ngũ Phúc được tin Kinh Bắc thất thủ, bèn dẫn quân tiến đến đóng ở
Võ Giàng.
Trịnh
Doanh sai Cổn quận công Trương Khuông phối hợp cùng Ngũ Phúc họp quân
tiến đánh, Hữu Cầu thua chạy, Ngũ Phúc lấy lại được thành Kinh Bắc.
Trịnh Doanh bèn điều thêm các tướng cùng đánh Hữu Cầu.
Tháng
11, Trương Khuông đánh nhau với Nguyễn Hữu Cầu ở Ngọc Lâm, bị bại trận.
Đinh Văn Giai lại bị bại trận ở Xương Giang, đều cho triệu về; bổ
dụng Hoàng Ngũ Phúc làm thống lãnh Bắc Đạo, trấn thủ Kinh Bắc, kiêm
trấn thủ Hải Dương. Hoàng Ngũ Phúc cùng Trương Khuông, Vũ Tá Liễn hẹn
nhau cùng vây đánh Hữu Cầu. Khuông tự đem quân bản bộ đánh mặt trước.
Hữu Cầu giữ nơi hiểm trở, đặt quân mai phục, dử quân Trương Khuông vào
trong chỗ hiểm trở, quân của Khuông thua to. Quân Trịnh bốn đạo không
đánh tự vỡ, thế quân Hữu Cầu lại mạnh lên.
Sau đó,
Hữu Cầu vây doanh trại Thị Cầu. Hoàng Ngũ Phúc chia ra ba cánh để tiến
quân: Phúc tự mình đem quân bản bộ đánh mặt trước, Đàm Xuân Vực đánh
mặt tả, Nguyễn Danh Lệ đánh mặt hữu. Hữu Cầu bị thua, phải chạy qua
sông, mới giải được vây. Trịnh Doanh bổ dụng Ngũ Phúc làm thống lãnh
đạo Kinh Bắc, sau lại kiêm trấn thủ Hải Dương.
Tháng 1
năm 1745, tàn dư họ Mạc từ Trung Quốc về đánh chiếm Thái Nguyên. Hoàng
Ngũ Phúc cùng lưu thủ Văn Đình Ức cùng đem quân tiến đánh, phá được
giặc, thu phục lại trấn thành.
Tháng 8
năm 1745, Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng cùng tiến đánh Nguyễn Hữu
Cầu ở thành Xương Giang. Hữu Cầu phải phá vây chạy ra Yên Quảng, chiếm
cứ Hạc Động, nhờ vào địa thế đảo-biển quanh co khúc khuỷu để hoạt
động, thường dùng loại thuyền gọn nhẹ đánh phá vùng đông nam. Hoàng
Ngũ Phúc cùng Đình Trọng đem quân đi đánh, chém được thủ hạ tâm phúc
của Hữu Cầu là Thông và hơn 10 người, thu được nhiều quân nhu và ngựa
chiến. Từ khi Thông chết, thế lực Hữu Cầu suy yếu dần…
Tháng
12 năm 1750, Hoàng Ngũ Phúc được lệnh cùng Đỗ Thế Giai định ra 37 điều
quân lệnh, chia quân sĩ làm 4 đạo, sau đó chúa Trịnh Doanh bổ dụng Ngũ
Phúc trông coi việc quân cùng đi đánh Nguyễn Danh Phương. Tháng 2 năm
1751, quân Trịnh đánh bại Nguyễn Danh Phương. Phương bị bắt mang về
kinh xử tử cùng Nguyễn Hữu Cầu, cũng đã bị Phạm Đình Trọng bắt sống
giải về kinh...
Nhờ
công lao đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa, Hoàng Ngũ Phúc được phong làm
Việp quận công, thường gọi là quận Việp. Năm 1754, Thượng thư bộ Binh
Phạm Đình Trọng chết sớm, Hoàng Ngũ Phúc trở thành vị tướng quan trọng
nhất của triều đình. ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét