TÌNH GIÀ - Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
Nhà dưỡng lão Thanh Bình do hai vợ chồng nhà doanh nghiệp Lê Văn Thanh và Võ Hòa Bình lập ra từ khi có phong trào “Đổi mới tư duy” năm 1986. Cơ sở vật chất của nhà dưỡng lão hiện nay rất khang trang, nhưng không phải xây mới ngay từ đầu mà được cải tạo, nâng cấp dần từ một cơ sở cũ của một bệnh viện tâm thần loại nhỏ, tọa lạc ở một vùng đồi núi hoang sơ của một huyện vùng xa thuộc một tỉnh nửa đồi nửa núi, tức tỉnh trung du. Tại sao người ta lại như là “cho không” vợ chồng nhà doanh nghiệp Thanh Bình cái cơ ngơi hoang vu này? Bởi có tới ba người của Bệnh viện tâm thần tử nạn do những bệnh nhân tâm thần “quá tay”, cho nên người ta gần như bỏ hoang cái cơ sở đầy tử khí này. Ban đầu, hai vợ chồng nhà doanh nghiệp Thanh Bình cũng không có ý định thành lập Nhà dưỡng lão mà khu đất này nằm trong một dự án lớn của “Kinh tế Trang trại”, được ấn định là sẽ trồng vải đặc sản. Sau ba năm hoạt động, khu đồi “Lệ chi viên” được cải tạo thành khu nhà ở cho những người công nhân viên của Trang trại có nhu cầu ở luôn trong trang trại. Ba năm nữa trôi qua, những người là trang trại viên có nhu cầu ở lại trong trang trại lên tới hơn chục người, đều trên dưới tuổi sáu mươi. Khu nhà ở của những trang trại viên không ngờ trở thành một xóm núi tuyệt đẹp, nhờ bàn tay cải tạo tài hoa của những trang trại viên lớn tuổi và cô đơn: có đủ cây ăn quả bốn mùa và các loại hoa thơm cỏ lạ, không khác vườn thượng uyển của vua chúa ngày xưa!
Lúc đó, bốn ông bà thân sinh ra ông Thanh và bà Bình ngẫu nhiên cùng tới thăm trang trại và cùng thích cảnh vật nơi đây, bèn nói với hai người con thành lập Nhà dưỡng lão. Vì thế, nhà dưỡng lão Thanh Bình ra đời mà thành viên đầu tiên là song thân của hai vợ chồng chủ doanh nghiệp và những trang trại viên tuổi cao, sức yếu. Tiếng đồn của nhà dưỡng lão lan xa và những người già cô đơn khắp nơi đã tìm đến nhà dưỡng lão ngày một nhiều… Con số cao nhất có khi lên tới hàng trăm. Vào những ngày lễ, tết, nhà dưỡng lão Thanh Bình không khác ngày hội!
*
Trang trại Thanh Bình không như một số trang trại khác là chuyên canh một loại cây đặc sản mà trồng cùng lúc nhiều loại cây ăn quả, trong đó chủ lực là các loại cây ăn quả vốn rất nổi tiếng như vải thiều, nhãn lồng, cam sành Bố Hạ, bưởi Đoan Hùng, v.v… Chính vì thế, khi vào mùa thu hoạch chín rộ, sản phẩm của trang trại Thanh Bình không bị tồn đọng “khủng hoảng thừa” mà luôn tiêu thụ hết. Sự đa dạng các chủng loại của cây ăn quả Thanh Bình còn có một tác dụng bất ngờ là do các thành viên của nhà dưỡng lão ngày ngày được ăn đủ loại quả đặc sản có nhiều chất bổ dưỡng quý hiếm nên sức khỏe của các thành viên không những được cải thiện mà như là có phép nhiệm màu: đã có hơn nữa các thành viên như là được “cải lão hoàn đồng”, tóc bạc như là được nhuộm đen, có gần chục người còn mọc răng như trẻ thơ, và điều quan trọng là dáng dấp, sự vận động của những “bà còng”, những ông lão tiều tụy đã như là đi ngược thời gian về lại cái thời xuân sắc!
Những người ở nhà dưỡng lão Thanh Bình không chỉ “cải lão hoàn đồng” ở diện mạo, hình dáng bên ngoài mà cả bộ não già nua cũng được trẻ lại một cách kỳ lạ. Thông thường, “khu vực trí nhớ” của bộ não chỉ giúp người ta nhớ lại được những gì đã xảy ra khi đã năm, sáu, bảy tuổi, tức là giai đoạn đứa trẻ đang học mẫu giáo, lớp một. Mà cũng chỉ nhớ lại được một vài sự kiện thật “ấn tượng” mà thôi. Từ đó về sau, “khu vực trí nhớ” giúp người ta nhớ lại những gì đã xảy ra nhiều hơn tuổi nhi đồng, nhưng “bộ phận sàng lọc” của bộ não ở từng người lại rất khác nhau, người thì “lưu giữ” vào “bộ nhớ” gần như toàn bộ những sự việc, sự kiện mà người đó đã chứng kiến, người thì chỉ nhớ “loáng thoáng” vài chuyện lẻ tẻ. Khi ở vào tuổi “lão hóa”, sự làm việc của “bộ nhớ” nói chung là suy giảm nhiều, tức người già có thể quên hết quá khứ mà sống trong trạng thái “bản năng sinh tồn” của một sinh vật, chẳng hạn như đói ăn, khát uống và ỉa đái linh tinh bất kể ở đâu, lúc nào! Chính vì thế mà người ta gọi là thời kỳ “trở lại tuổi ấu thơ” của người già. Có nhiều người con, vì quá bận bịu với đủ loại công việc của cuộc sống chóng mặt thời hiện đại nên không có thời gian “xi đái, xi ỉa” bố mẹ già mà bắt ông bà già ngồi bô hàng ngày như ở nhà trẻ! Tuy nhiên, ở một số người già, “bộ nhớ” làm việc rất tốt, tức trí nhớ không những mất đi mà phục hồi gần như nguyên trạng tất cả những gì đã xảy ra của cuộc đời người ta. Điều này đã khiến cho chức năng “khám phá”, “sáng tạo” của bộ não có sự hoạt động đặc biệt, tức ở những người già này, họ có thể nảy sinh những “ý tưởng” độc đáo mà người bình thường không thể nghĩ ra. Chính vì thế mà với những người già này, người ta thường nói là “gừng càng già càng cay” - những sản phẩm mà họ làm ra có thể là những kiệt tác: đó là trường hợp những nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học… mà ngoài 60 tuổi mới phát lộ tài năng sáng tạo! Cá biệt có trường hợp như Lã Vọng - ông già câu cá sông Vị, tới 80 tuổi mới ra làm Tể tướng, giúp Cơ Xương lập nên nhà Chu! (*)
Điều đáng chú ý ở nhà dưỡng lão Thanh Bình là hiện tượng “cải lão hoàn đồng” rất nhiều và có không ít người có “bộ nhớ” làm việc rất tốt, đã phục hồi gần như nguyên trạng những sự việc, sự kiện đã xảy ra trong suốt cuộc đời đã trôi qua hơn sáu, bảy mươi năm của họ. Có cả những sự kiện, sự việc xảy ra “lúc đương thời” họ đã “cho qua” (vì dễ tính, cả nể hoặc thuộc những chuyện tế nhị, khó nói) nhưng giờ nó được “phục hiện” và được soi chiếu bằng “ánh sáng mới có tính phân tích cao của khoa học hiện đại” thì vấn đề không thể đơn giản “cho qua” như thế! Vậy điều gì sẽ xảy ra khi có những phát hiện bất ngờ, thậm chí “động trời” này ở những người già đã “gần đất xa trời”, đã được xếp vào “nhà kho” hoặc “Viện Bảo tàng”?
*
Vào ngày bốn thành viên đầu tiên của nhà dưỡng lão Thanh Bình vừa tròn bảy mươi tuổi, hai nhà doanh nghiệp Lê Văn Thanh và Võ Hòa Bình quyết định tổ chức lễ mừng sinh nhật của cha và mẹ thật long trọng, thật đặc biệt vì hai nhà doanh nghiệp con này đã phát hiện ra tại sao bố và mẹ của cả hai người đều sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm và điều này mới thực sự độc đáo: hai người bố vốn là anh em sinh đôi và hai người mẹ cũng là chị em sinh đôi! Tức ông Lê Văn Thanh và bà Võ Hòa Bình là anh em con chú con bác và người bố ông Thanh (ký hiệu là A) là anh của người bố bà Bình, tức người bố bà Bình là em (ký hiệu là E), ban đầu, khi hai anh em sinh đôi yêu hai chị em sinh đôi thì người anh yêu người chị, người em yêu người em gái, nhưng khi cưới thì lại là người anh cưới người em gái và người em trai lại cưới người chị gái. Vì thế, không thể xác định được con của người anh (A) với người em gái của cặp sinh đôi nữ là con của anh ta hay là con của người em (E) bởi người em (E) này đã yêu cô em gái của cặp sinh đôi nữ đó rất nồng cháy, không có chuyện gì là không xảy ra! Cũng tương tự như vậy, với bà Bình, tức con của người em (E) cặp sinh đôi nam với người chị của cặp sinh đôi nữ cũng không thể xác định rõ ràng!
Đúng ngày lễ sinh nhật bảy mươi tuổi của bốn người thành viên đầu tiên của nhà dưỡng lão Thanh Bình, mọi chuyện mới được tiết lộ. Vì sao bí mật lại tồn tại lâu như vậy? Trong khi người ta còn đang tìm câu trả lời thì một “bí mật động trời” nữa lại được tiết lộ: hai chị em sinh đôi, tức hai người mẹ của ông và bà chủ trang trại Thanh Bình tức cũng là nhà dưỡng lão Thanh Bình, trước khi làm vợ hai anh em sinh đôi đã bị thất tiết do phải “bán mình chuộc cha” gần một tháng trời. Câu chuyện bi thảm này có thể nói vắn tắt như sau: người cha của hai chị em sinh đôi bị kẻ xấu hãm hại rồi bị quan Huyện bắt giam vào ngục thất. Hai chị em sinh đôi liền đến cầu xin quan huyện minh oan cho cha. Quan huyện thấy hai chị em có nhan sắc tuyệt vời thì đồng ý thả người cha với điều kiện hai cô con gái phải về làm tỳ thiếp cho quan huyện. Nhưng được gần một tháng thì bà vợ quan huyện biết chuyện, thương tình hai cô gái hiếu thảo, không đánh đập hành hạ gì mà chỉ đuổi hai chị em đi! Vì thế, người ta nghĩ rằng hai đứa con mà hai chị em sinh đôi đẻ ra cũng có thể là “giọt máu” của ông quan huyện kia chứ không chỉ là của hai anh em sinh đôi đang là chồng! Như thế, sự việc đã trở nên phức tạp: một đứa bé có ba khả năng để xác định ai là cha ruột! Song, sự phức tạp chưa dừng ở đó khi một bí mật mới lại được hé mở: trong thời gian hai chị em sinh đôi làm thiếp của quan huyện thì có quan tuần án ở trên tỉnh thường xuyên về chơi bài bạc với quan huyện và được quan huyện “hối lộ” bằng hai người đẹp sinh đôi! Rút cục, câu chuyện về hai đứa con mà hai chị em sinh đôi sinh ra là con của ai (quan tuần án, quan huyện, hai anh em sinh đôi) đã lại trở về với những bức màn bí mật ban đầu vì những “người trong cuộc” không muốn “tra cứu” nữa bởi họ sợ cái gì mới phát hiện lại tăng thêm độ “phức tạp” của câu chuyện! Cả ông Lê Văn Thanh và bà Võ Hòa Bình đều muốn “đóng lại” bức màn bí mật bởi muốn nói gì thì cái “mô hình” hiện tại là rất đẹp, không nên làm cho nó bị tổn hại!
*
Với trường hợp của ông Trần Văn Đa và bà Tăng Thị Đoan thì lại khác: những “người trong cuộc” muốn khai thác tới đáy câu chuyện tình đẫm lệ, “nhiều trái oan” của bốn mươi năm trước! Nhìn bà Đoan với mái tóc bạc phơ, khuôn mặt giăng kín nếp nhăn, lưng còng như “chữ C” thì không ai có thể tưởng tượng rằng bốn mươi năm trước, đó là một hoa khôi của trường Sư phạm và có cả một tá các anh chàng “đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu” bám đuôi dai như đỉa. Bi kịch xảy ra khi cô nàng hoa khôi đó không chọn những đám “môn đăng hộ đối” do cha mẹ sắp xếp mà lại yêu đến mê muội một anh giáo nghèo trường Làng! Anh giáo nghèo trường Làng đó chính là ông Trần Văn Đa, cũng gần tới tuổi “Thất thập cổ lai hi”, là thành viên thứ năm của nhà dưỡng lão Thanh Bình, còn bà Tăng Thị Đoan là thành viên thứ sáu của nhà dưỡng lão.
Kể lại mối tình cách nay đã gần nửa thế kỷ của ông Đa và bà Đoan thì phải là một cuốn tiểu thuyết năm trăm trang in. Vì thế, chỉ có thể nói vắn tắt như sau: không thuyết phục được cô con gái cứng đầu, cha mẹ cô gái tên Đoan đã “can thiệp” để người ta điều anh giáo Làng tên Đa lên tận nơi biên ải thâm sơn cùng cốc, đồng thời bắt cô con gái phải làm đám cưới với một cậu ấm con quan đốc học của tỉnh. Khi biết người tình của mình bị đày đến miền biên ải, cô gái si tình đã trốn nhà đi tìm tình nhân, nhưng cô gái ngây thơ non trẻ làm sao tìm thấy tình lang nơi rừng núi bạt ngàn? Thế là cô lưu lạc giang hồ cho đến khi tới nhà dưỡng lão Thanh Bình mới gặp lại người tình tên Đa. Có một chi tiết bất ngờ là ngày ông Đa tới nhà dưỡng lão Thanh Bình cũng là ngày bà Đoan tới nơi, cho nên có thể nói hai người đều là thành viên thứ năm của nhà dưỡng lão Thanh Bình, tất nhiên lúc đó họ không thể nhận ra nhau sau gần nửa thế kỷ ly biệt. Họ chỉ nhận ra nhau sau nửa năm ở nhà dưỡng lão Thanh Bình, tức vào thời kỳ mà ở nhà dưỡng lão này có rất nhiều người đã “cải lão hoàn đồng”. Song, nếu không có cái “vật chứng” là bài thơ Tình già của Phan Khôi thì chưa chắc họ đã nhận ra nhau sớm đến thế. Số là khi mới yêu nhau, hai người đều rất thích Thơ Mới, đặc biệt là bài Thơ Mới đầu tiên Tình già. Anh chàng Đa lại có biệt tài ngâm thơ, riêng với bài Tình già, anh chàng có lối diễn-ngâm rất độc đáo, rất xúc động khiến cho cô gái trẻ cười đến chảy nước mắt:
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
- “Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn đà không đặng;
Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!”
- “Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung?”
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau;
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được!
Ôn chuyên cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi! con mắt còn có đuôi…
Và họ trao nhau cái hôn đầu sau một lần anh chàng diễn-ngâm bài thơ này. Khi tới nhà dưỡng lão Thanh Bình, mỗi khi nhớ tới mối tình đầu sớm ly biệt, ông già Đa lại diễn-ngâm bài thơ Tình già. Ban đầu, nhìn ông Đa diễn-ngâm bài thơ Tình già, bà Đoan chỉ cười vì cái vẻ điên điên khùng khùng của ông già, chứ bà không còn nhớ một chút nào những kỷ niệm về bài thơ Tình già cũng như mối tình đầu của bà với anh giáo Làng tên Đa ngày nào. Không hiểu sao “Bộ nhớ” của bộ não bà Đoan đã không tìm thấy những dấu vết gì của mối tình đầu? Song, sau nửa năm ở nhà dưỡng lão Thanh Bình, “Bộ nhớ” của bộ não bà Đoan đã phục hiện gần như toàn bộ những chi tiết của mối tình đầu bi thảm đó, khiến cho ông Đa và bà Đoan sau đó suốt ngày cứ cặp kè bên nhau như vợ chồng Sam! Tất nhiên, nhà dưỡng lão Thanh Bình đã tổ chức một đám cưới thật đặc biệt, thật lớn để đôi tình nhân của thế kỷ trước được danh chính ngôn thuận bái đường thành thân và tất nhiên, có cả đêm động phòng huyền ảo!
*
Thành viên thứ bảy và tám của nhà dưỡng lão Thanh Bình là hai mẹ con, người mẹ tên Lan, đã hơn bảy mươi, còn người con tên Lam, chỉ kém mẹ có 15 tuổi, song vẻ già nua, tiều tụy của hai người thì không khác nhau bao nhiêu, thoạt nhìn người ta tưởng là hai chị em. Vì sao hai mẹ con bà Lan lại đến nông nỗi này? Câu chuyện cũng thật dài và cũng chỉ có thể tóm tắt lại như sau: Bà Lan là một thôn nữ xinh đẹp nên bị “vào đời sớm” bởi ông xã trưởng cưỡng bức. Bà vợ xã trưởng biết chuyện, định tổ chức đánh ghen cho bõ ghét thì ông xã trưởng được điều lên huyện làm huyện lệnh, bèn đem bà Lan đi theo. Lên huyện được hơn một năm, sau khi bà Lan sinh ra cô bé Lam thì bà Lan “lọt mắt xanh” quan tri phủ. Lập tức, ông huyện lệnh bị dính bẫy của quan Tri phủ, bị kết tội rồi bị đi đày. Hai mẹ con bà Lan được quan tri phủ “bao bọc” khoảng một năm thì bà vợ quan tri phủ biết chuyện, đuổi hai mẹ con ra đường, may mà được một nhà buôn gạo thu nhận cho làm nô tỳ, vì thế mà không chết đói ngoài đường. Song, ông chủ buôn gạo cũng như ông xã trưởng và quan tri phủ, đều bị vẻ quyến rũ của bà Lan hút hồn, không thể cưỡng lại được. Song, với ông chủ buôn gạo thì sau hai năm bà vợ mới phát hiện ra “chuyện tình” của chồng mình với bà Lan, nhưng bù vào sự chậm trễ đó, bà vợ ông chủ buôn gạo còn phát hiện ra “mối tình tay ba” giữa bà Lan và hai bố con ông chủ buôn gạo! Sau đó, cậu con trai ông chủ buôn gạo, cũng có tên là Gạo, đã đưa hai mẹ con bà Lan đi trốn, cùng sống với nhau ở tận một đảo hoang nơi xa khơi! … Khi hai mẹ con bà Lan đến trại dưỡng lão Thanh Bình thì cả hai người đã ở vào trạng thái quên nhiều hơn nhớ!
Khi nhà dưỡng lão Thanh Bình tổ chức đám cưới cho đôi tình nhân Đa và Đoan, có mời một số quan chức của tỉnh tới dự để mở rộng quan hệ, quảng bá thành quả của Trang trại Thanh Bình…Khi vừa nhìn thấy một vị khách trong hàng quan chức cao cấp của tỉnh, cả hai mẹ con bà Lan cùng reo lên “Ông Gạo!” và nhào tới chỗ các vị quan chức kia. Nhưng, nhóm vệ sĩ đã cản lại và kéo hai mẹ con bà Lan ra ngoài. Vợ chồng chủ trang trại Thanh Bình thấy vậy vội tới hỏi mẹ con bà Lan thì bà Lan nói: “Ông kia có phải tên là Gạo không? Nếu đúng tên là Gạo thì đó là con trai của ông chủ buôn gạo, đã dẫn mẹ con tôi trốn ra đảo, sống với nhau được một năm thì bỏ mẹ con tôi không biết đi đâu?”. Ông chủ Thanh Bình nói sẽ hỏi lại rồi nói hai mẹ con không được chạy lung tung tới chỗ các quan chức. Sau đó, ông chủ Thanh Bình có hỏi một người quen cùng đi trong đoàn khách của tỉnh thì người kia nói: “Đúng là ngày xưa, lúc còn trẻ ông ấy tên là Gạo, còn bây giờ là Sếp lớn hàng đầu tỉnh. Sếp không thích nhắc lại những chuyện lôi thôi ngày xưa đâu!”.
Nghe người kia nói vậy, ông chủ Thanh Bình không biết tính sao, bèn hỏi “quân sư vợ” thì bà chủ nói ngay: “Thì bảo hai mẹ con bà Lan quên hẳn đi!”. Nghe “quân sư vợ” nói vậy, ông chủ Thanh Bình liền nói với một người trợ thủ chuyện về dược phẩm: “Cho mẹ con bà Lan mỗi ngày một liều thuốc lú!”. Người trợ thủ tuy nhận lệnh ấy nhưng đã thực hiện ngược lại bởi ông ta muốn được chứng kiến cảnh cái ông quan chức hàng đầu của tỉnh kia sẽ như thế nào khi đối mặt với mẹ con bà Lan?
Sài Gòn, 31-5-2011
Đỗ Ngọc Thạch
----
Chú thích:
(*) Tề Thái Công, tên thật là Khương Thượng, tự là Tử Nha, nên thường được gọi là Khương Tử Nha, là khai quốc công thần nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là vua khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Theo Sử ký, tổ tiên ông được phong ở đất Lã vào khoảng thời vua Thuấn đến thời nhà Hạ, do đó lấy Lã làm họ. Ông còn được dân gian và các nhà nghiên cứu lịch sử gọi bằng nhiều tên khác như: Khương Thái Công; Thái Công Vọng, Lã Vọng.
Khương Tử Nha được biết đến như một vị tướng tài vĩ đại và là người góp phần lập lên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thủ lĩnh bộ tộc Chu là Tây Bá Cơ Xương đi săn, gặp Khương Thượng đang câu cá phía bắc sông Vị. Cơ Xương nói chuyện với ông rất hài lòng, ngưỡng mộ tài năng của ông. Cơ Xương nhớ lời tổ tiên là Thái Công dặn rằng sẽ có vị thánh đến nước Chu, giúp Chu hưng thịnh, ứng với quẻ bói trước khi đi săn. Do đó Cơ Xương quả quyết Khương Thượng chính là người Thái Công mong đợi trước đây và tôn ông làm Thái Công Vọng (nghĩa là người mà [Chu] Thái Công mong đợi), đón lên xe về cung và tôn ông làm thầy.
(hết)
MỐI TÌNH ĐẦU
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
Nhà dưỡng lão Thanh Bình do hai vợ chồng nhà doanh nghiệp Lê Văn Thanh và Võ Hòa Bình lập ra từ khi có phong trào “Đổi mới tư duy” năm 1986. Cơ sở vật chất của nhà dưỡng lão hiện nay rất khang trang, nhưng không phải xây mới ngay từ đầu mà được cải tạo, nâng cấp dần từ một cơ sở cũ của một bệnh viện tâm thần loại nhỏ, tọa lạc ở một vùng đồi núi hoang sơ của một huyện vùng xa thuộc một tỉnh nửa đồi nửa núi, tức tỉnh trung du. Tại sao người ta lại như là “cho không” vợ chồng nhà doanh nghiệp Thanh Bình cái cơ ngơi hoang vu này? Bởi có tới ba người của Bệnh viện tâm thần tử nạn do những bệnh nhân tâm thần “quá tay”, cho nên người ta gần như bỏ hoang cái cơ sở đầy tử khí này. Ban đầu, hai vợ chồng nhà doanh nghiệp Thanh Bình cũng không có ý định thành lập Nhà dưỡng lão mà khu đất này nằm trong một dự án lớn của “Kinh tế Trang trại”, được ấn định là sẽ trồng vải đặc sản. Sau ba năm hoạt động, khu đồi “Lệ chi viên” được cải tạo thành khu nhà ở cho những người công nhân viên của Trang trại có nhu cầu ở luôn trong trang trại. Ba năm nữa trôi qua, những người là trang trại viên có nhu cầu ở lại trong trang trại lên tới hơn chục người, đều trên dưới tuổi sáu mươi. Khu nhà ở của những trang trại viên không ngờ trở thành một xóm núi tuyệt đẹp, nhờ bàn tay cải tạo tài hoa của những trang trại viên lớn tuổi và cô đơn: có đủ cây ăn quả bốn mùa và các loại hoa thơm cỏ lạ, không khác vườn thượng uyển của vua chúa ngày xưa!
Lúc đó, bốn ông bà thân sinh ra ông Thanh và bà Bình ngẫu nhiên cùng tới thăm trang trại và cùng thích cảnh vật nơi đây, bèn nói với hai người con thành lập Nhà dưỡng lão. Vì thế, nhà dưỡng lão Thanh Bình ra đời mà thành viên đầu tiên là song thân của hai vợ chồng chủ doanh nghiệp và những trang trại viên tuổi cao, sức yếu. Tiếng đồn của nhà dưỡng lão lan xa và những người già cô đơn khắp nơi đã tìm đến nhà dưỡng lão ngày một nhiều… Con số cao nhất có khi lên tới hàng trăm. Vào những ngày lễ, tết, nhà dưỡng lão Thanh Bình không khác ngày hội!
*
Trang trại Thanh Bình không như một số trang trại khác là chuyên canh một loại cây đặc sản mà trồng cùng lúc nhiều loại cây ăn quả, trong đó chủ lực là các loại cây ăn quả vốn rất nổi tiếng như vải thiều, nhãn lồng, cam sành Bố Hạ, bưởi Đoan Hùng, v.v… Chính vì thế, khi vào mùa thu hoạch chín rộ, sản phẩm của trang trại Thanh Bình không bị tồn đọng “khủng hoảng thừa” mà luôn tiêu thụ hết. Sự đa dạng các chủng loại của cây ăn quả Thanh Bình còn có một tác dụng bất ngờ là do các thành viên của nhà dưỡng lão ngày ngày được ăn đủ loại quả đặc sản có nhiều chất bổ dưỡng quý hiếm nên sức khỏe của các thành viên không những được cải thiện mà như là có phép nhiệm màu: đã có hơn nữa các thành viên như là được “cải lão hoàn đồng”, tóc bạc như là được nhuộm đen, có gần chục người còn mọc răng như trẻ thơ, và điều quan trọng là dáng dấp, sự vận động của những “bà còng”, những ông lão tiều tụy đã như là đi ngược thời gian về lại cái thời xuân sắc!
Những người ở nhà dưỡng lão Thanh Bình không chỉ “cải lão hoàn đồng” ở diện mạo, hình dáng bên ngoài mà cả bộ não già nua cũng được trẻ lại một cách kỳ lạ. Thông thường, “khu vực trí nhớ” của bộ não chỉ giúp người ta nhớ lại được những gì đã xảy ra khi đã năm, sáu, bảy tuổi, tức là giai đoạn đứa trẻ đang học mẫu giáo, lớp một. Mà cũng chỉ nhớ lại được một vài sự kiện thật “ấn tượng” mà thôi. Từ đó về sau, “khu vực trí nhớ” giúp người ta nhớ lại những gì đã xảy ra nhiều hơn tuổi nhi đồng, nhưng “bộ phận sàng lọc” của bộ não ở từng người lại rất khác nhau, người thì “lưu giữ” vào “bộ nhớ” gần như toàn bộ những sự việc, sự kiện mà người đó đã chứng kiến, người thì chỉ nhớ “loáng thoáng” vài chuyện lẻ tẻ. Khi ở vào tuổi “lão hóa”, sự làm việc của “bộ nhớ” nói chung là suy giảm nhiều, tức người già có thể quên hết quá khứ mà sống trong trạng thái “bản năng sinh tồn” của một sinh vật, chẳng hạn như đói ăn, khát uống và ỉa đái linh tinh bất kể ở đâu, lúc nào! Chính vì thế mà người ta gọi là thời kỳ “trở lại tuổi ấu thơ” của người già. Có nhiều người con, vì quá bận bịu với đủ loại công việc của cuộc sống chóng mặt thời hiện đại nên không có thời gian “xi đái, xi ỉa” bố mẹ già mà bắt ông bà già ngồi bô hàng ngày như ở nhà trẻ! Tuy nhiên, ở một số người già, “bộ nhớ” làm việc rất tốt, tức trí nhớ không những mất đi mà phục hồi gần như nguyên trạng tất cả những gì đã xảy ra của cuộc đời người ta. Điều này đã khiến cho chức năng “khám phá”, “sáng tạo” của bộ não có sự hoạt động đặc biệt, tức ở những người già này, họ có thể nảy sinh những “ý tưởng” độc đáo mà người bình thường không thể nghĩ ra. Chính vì thế mà với những người già này, người ta thường nói là “gừng càng già càng cay” - những sản phẩm mà họ làm ra có thể là những kiệt tác: đó là trường hợp những nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học… mà ngoài 60 tuổi mới phát lộ tài năng sáng tạo! Cá biệt có trường hợp như Lã Vọng - ông già câu cá sông Vị, tới 80 tuổi mới ra làm Tể tướng, giúp Cơ Xương lập nên nhà Chu! (*)
Điều đáng chú ý ở nhà dưỡng lão Thanh Bình là hiện tượng “cải lão hoàn đồng” rất nhiều và có không ít người có “bộ nhớ” làm việc rất tốt, đã phục hồi gần như nguyên trạng những sự việc, sự kiện đã xảy ra trong suốt cuộc đời đã trôi qua hơn sáu, bảy mươi năm của họ. Có cả những sự kiện, sự việc xảy ra “lúc đương thời” họ đã “cho qua” (vì dễ tính, cả nể hoặc thuộc những chuyện tế nhị, khó nói) nhưng giờ nó được “phục hiện” và được soi chiếu bằng “ánh sáng mới có tính phân tích cao của khoa học hiện đại” thì vấn đề không thể đơn giản “cho qua” như thế! Vậy điều gì sẽ xảy ra khi có những phát hiện bất ngờ, thậm chí “động trời” này ở những người già đã “gần đất xa trời”, đã được xếp vào “nhà kho” hoặc “Viện Bảo tàng”?
*
Vào ngày bốn thành viên đầu tiên của nhà dưỡng lão Thanh Bình vừa tròn bảy mươi tuổi, hai nhà doanh nghiệp Lê Văn Thanh và Võ Hòa Bình quyết định tổ chức lễ mừng sinh nhật của cha và mẹ thật long trọng, thật đặc biệt vì hai nhà doanh nghiệp con này đã phát hiện ra tại sao bố và mẹ của cả hai người đều sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm và điều này mới thực sự độc đáo: hai người bố vốn là anh em sinh đôi và hai người mẹ cũng là chị em sinh đôi! Tức ông Lê Văn Thanh và bà Võ Hòa Bình là anh em con chú con bác và người bố ông Thanh (ký hiệu là A) là anh của người bố bà Bình, tức người bố bà Bình là em (ký hiệu là E), ban đầu, khi hai anh em sinh đôi yêu hai chị em sinh đôi thì người anh yêu người chị, người em yêu người em gái, nhưng khi cưới thì lại là người anh cưới người em gái và người em trai lại cưới người chị gái. Vì thế, không thể xác định được con của người anh (A) với người em gái của cặp sinh đôi nữ là con của anh ta hay là con của người em (E) bởi người em (E) này đã yêu cô em gái của cặp sinh đôi nữ đó rất nồng cháy, không có chuyện gì là không xảy ra! Cũng tương tự như vậy, với bà Bình, tức con của người em (E) cặp sinh đôi nam với người chị của cặp sinh đôi nữ cũng không thể xác định rõ ràng!
Đúng ngày lễ sinh nhật bảy mươi tuổi của bốn người thành viên đầu tiên của nhà dưỡng lão Thanh Bình, mọi chuyện mới được tiết lộ. Vì sao bí mật lại tồn tại lâu như vậy? Trong khi người ta còn đang tìm câu trả lời thì một “bí mật động trời” nữa lại được tiết lộ: hai chị em sinh đôi, tức hai người mẹ của ông và bà chủ trang trại Thanh Bình tức cũng là nhà dưỡng lão Thanh Bình, trước khi làm vợ hai anh em sinh đôi đã bị thất tiết do phải “bán mình chuộc cha” gần một tháng trời. Câu chuyện bi thảm này có thể nói vắn tắt như sau: người cha của hai chị em sinh đôi bị kẻ xấu hãm hại rồi bị quan Huyện bắt giam vào ngục thất. Hai chị em sinh đôi liền đến cầu xin quan huyện minh oan cho cha. Quan huyện thấy hai chị em có nhan sắc tuyệt vời thì đồng ý thả người cha với điều kiện hai cô con gái phải về làm tỳ thiếp cho quan huyện. Nhưng được gần một tháng thì bà vợ quan huyện biết chuyện, thương tình hai cô gái hiếu thảo, không đánh đập hành hạ gì mà chỉ đuổi hai chị em đi! Vì thế, người ta nghĩ rằng hai đứa con mà hai chị em sinh đôi đẻ ra cũng có thể là “giọt máu” của ông quan huyện kia chứ không chỉ là của hai anh em sinh đôi đang là chồng! Như thế, sự việc đã trở nên phức tạp: một đứa bé có ba khả năng để xác định ai là cha ruột! Song, sự phức tạp chưa dừng ở đó khi một bí mật mới lại được hé mở: trong thời gian hai chị em sinh đôi làm thiếp của quan huyện thì có quan tuần án ở trên tỉnh thường xuyên về chơi bài bạc với quan huyện và được quan huyện “hối lộ” bằng hai người đẹp sinh đôi! Rút cục, câu chuyện về hai đứa con mà hai chị em sinh đôi sinh ra là con của ai (quan tuần án, quan huyện, hai anh em sinh đôi) đã lại trở về với những bức màn bí mật ban đầu vì những “người trong cuộc” không muốn “tra cứu” nữa bởi họ sợ cái gì mới phát hiện lại tăng thêm độ “phức tạp” của câu chuyện! Cả ông Lê Văn Thanh và bà Võ Hòa Bình đều muốn “đóng lại” bức màn bí mật bởi muốn nói gì thì cái “mô hình” hiện tại là rất đẹp, không nên làm cho nó bị tổn hại!
*
Với trường hợp của ông Trần Văn Đa và bà Tăng Thị Đoan thì lại khác: những “người trong cuộc” muốn khai thác tới đáy câu chuyện tình đẫm lệ, “nhiều trái oan” của bốn mươi năm trước! Nhìn bà Đoan với mái tóc bạc phơ, khuôn mặt giăng kín nếp nhăn, lưng còng như “chữ C” thì không ai có thể tưởng tượng rằng bốn mươi năm trước, đó là một hoa khôi của trường Sư phạm và có cả một tá các anh chàng “đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu” bám đuôi dai như đỉa. Bi kịch xảy ra khi cô nàng hoa khôi đó không chọn những đám “môn đăng hộ đối” do cha mẹ sắp xếp mà lại yêu đến mê muội một anh giáo nghèo trường Làng! Anh giáo nghèo trường Làng đó chính là ông Trần Văn Đa, cũng gần tới tuổi “Thất thập cổ lai hi”, là thành viên thứ năm của nhà dưỡng lão Thanh Bình, còn bà Tăng Thị Đoan là thành viên thứ sáu của nhà dưỡng lão.
Kể lại mối tình cách nay đã gần nửa thế kỷ của ông Đa và bà Đoan thì phải là một cuốn tiểu thuyết năm trăm trang in. Vì thế, chỉ có thể nói vắn tắt như sau: không thuyết phục được cô con gái cứng đầu, cha mẹ cô gái tên Đoan đã “can thiệp” để người ta điều anh giáo Làng tên Đa lên tận nơi biên ải thâm sơn cùng cốc, đồng thời bắt cô con gái phải làm đám cưới với một cậu ấm con quan đốc học của tỉnh. Khi biết người tình của mình bị đày đến miền biên ải, cô gái si tình đã trốn nhà đi tìm tình nhân, nhưng cô gái ngây thơ non trẻ làm sao tìm thấy tình lang nơi rừng núi bạt ngàn? Thế là cô lưu lạc giang hồ cho đến khi tới nhà dưỡng lão Thanh Bình mới gặp lại người tình tên Đa. Có một chi tiết bất ngờ là ngày ông Đa tới nhà dưỡng lão Thanh Bình cũng là ngày bà Đoan tới nơi, cho nên có thể nói hai người đều là thành viên thứ năm của nhà dưỡng lão Thanh Bình, tất nhiên lúc đó họ không thể nhận ra nhau sau gần nửa thế kỷ ly biệt. Họ chỉ nhận ra nhau sau nửa năm ở nhà dưỡng lão Thanh Bình, tức vào thời kỳ mà ở nhà dưỡng lão này có rất nhiều người đã “cải lão hoàn đồng”. Song, nếu không có cái “vật chứng” là bài thơ Tình già của Phan Khôi thì chưa chắc họ đã nhận ra nhau sớm đến thế. Số là khi mới yêu nhau, hai người đều rất thích Thơ Mới, đặc biệt là bài Thơ Mới đầu tiên Tình già. Anh chàng Đa lại có biệt tài ngâm thơ, riêng với bài Tình già, anh chàng có lối diễn-ngâm rất độc đáo, rất xúc động khiến cho cô gái trẻ cười đến chảy nước mắt:
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
- “Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn đà không đặng;
Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!”
- “Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung?”
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau;
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được!
Ôn chuyên cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi! con mắt còn có đuôi…
Và họ trao nhau cái hôn đầu sau một lần anh chàng diễn-ngâm bài thơ này. Khi tới nhà dưỡng lão Thanh Bình, mỗi khi nhớ tới mối tình đầu sớm ly biệt, ông già Đa lại diễn-ngâm bài thơ Tình già. Ban đầu, nhìn ông Đa diễn-ngâm bài thơ Tình già, bà Đoan chỉ cười vì cái vẻ điên điên khùng khùng của ông già, chứ bà không còn nhớ một chút nào những kỷ niệm về bài thơ Tình già cũng như mối tình đầu của bà với anh giáo Làng tên Đa ngày nào. Không hiểu sao “Bộ nhớ” của bộ não bà Đoan đã không tìm thấy những dấu vết gì của mối tình đầu? Song, sau nửa năm ở nhà dưỡng lão Thanh Bình, “Bộ nhớ” của bộ não bà Đoan đã phục hiện gần như toàn bộ những chi tiết của mối tình đầu bi thảm đó, khiến cho ông Đa và bà Đoan sau đó suốt ngày cứ cặp kè bên nhau như vợ chồng Sam! Tất nhiên, nhà dưỡng lão Thanh Bình đã tổ chức một đám cưới thật đặc biệt, thật lớn để đôi tình nhân của thế kỷ trước được danh chính ngôn thuận bái đường thành thân và tất nhiên, có cả đêm động phòng huyền ảo!
*
Thành viên thứ bảy và tám của nhà dưỡng lão Thanh Bình là hai mẹ con, người mẹ tên Lan, đã hơn bảy mươi, còn người con tên Lam, chỉ kém mẹ có 15 tuổi, song vẻ già nua, tiều tụy của hai người thì không khác nhau bao nhiêu, thoạt nhìn người ta tưởng là hai chị em. Vì sao hai mẹ con bà Lan lại đến nông nỗi này? Câu chuyện cũng thật dài và cũng chỉ có thể tóm tắt lại như sau: Bà Lan là một thôn nữ xinh đẹp nên bị “vào đời sớm” bởi ông xã trưởng cưỡng bức. Bà vợ xã trưởng biết chuyện, định tổ chức đánh ghen cho bõ ghét thì ông xã trưởng được điều lên huyện làm huyện lệnh, bèn đem bà Lan đi theo. Lên huyện được hơn một năm, sau khi bà Lan sinh ra cô bé Lam thì bà Lan “lọt mắt xanh” quan tri phủ. Lập tức, ông huyện lệnh bị dính bẫy của quan Tri phủ, bị kết tội rồi bị đi đày. Hai mẹ con bà Lan được quan tri phủ “bao bọc” khoảng một năm thì bà vợ quan tri phủ biết chuyện, đuổi hai mẹ con ra đường, may mà được một nhà buôn gạo thu nhận cho làm nô tỳ, vì thế mà không chết đói ngoài đường. Song, ông chủ buôn gạo cũng như ông xã trưởng và quan tri phủ, đều bị vẻ quyến rũ của bà Lan hút hồn, không thể cưỡng lại được. Song, với ông chủ buôn gạo thì sau hai năm bà vợ mới phát hiện ra “chuyện tình” của chồng mình với bà Lan, nhưng bù vào sự chậm trễ đó, bà vợ ông chủ buôn gạo còn phát hiện ra “mối tình tay ba” giữa bà Lan và hai bố con ông chủ buôn gạo! Sau đó, cậu con trai ông chủ buôn gạo, cũng có tên là Gạo, đã đưa hai mẹ con bà Lan đi trốn, cùng sống với nhau ở tận một đảo hoang nơi xa khơi! … Khi hai mẹ con bà Lan đến trại dưỡng lão Thanh Bình thì cả hai người đã ở vào trạng thái quên nhiều hơn nhớ!
Khi nhà dưỡng lão Thanh Bình tổ chức đám cưới cho đôi tình nhân Đa và Đoan, có mời một số quan chức của tỉnh tới dự để mở rộng quan hệ, quảng bá thành quả của Trang trại Thanh Bình…Khi vừa nhìn thấy một vị khách trong hàng quan chức cao cấp của tỉnh, cả hai mẹ con bà Lan cùng reo lên “Ông Gạo!” và nhào tới chỗ các vị quan chức kia. Nhưng, nhóm vệ sĩ đã cản lại và kéo hai mẹ con bà Lan ra ngoài. Vợ chồng chủ trang trại Thanh Bình thấy vậy vội tới hỏi mẹ con bà Lan thì bà Lan nói: “Ông kia có phải tên là Gạo không? Nếu đúng tên là Gạo thì đó là con trai của ông chủ buôn gạo, đã dẫn mẹ con tôi trốn ra đảo, sống với nhau được một năm thì bỏ mẹ con tôi không biết đi đâu?”. Ông chủ Thanh Bình nói sẽ hỏi lại rồi nói hai mẹ con không được chạy lung tung tới chỗ các quan chức. Sau đó, ông chủ Thanh Bình có hỏi một người quen cùng đi trong đoàn khách của tỉnh thì người kia nói: “Đúng là ngày xưa, lúc còn trẻ ông ấy tên là Gạo, còn bây giờ là Sếp lớn hàng đầu tỉnh. Sếp không thích nhắc lại những chuyện lôi thôi ngày xưa đâu!”.
Nghe người kia nói vậy, ông chủ Thanh Bình không biết tính sao, bèn hỏi “quân sư vợ” thì bà chủ nói ngay: “Thì bảo hai mẹ con bà Lan quên hẳn đi!”. Nghe “quân sư vợ” nói vậy, ông chủ Thanh Bình liền nói với một người trợ thủ chuyện về dược phẩm: “Cho mẹ con bà Lan mỗi ngày một liều thuốc lú!”. Người trợ thủ tuy nhận lệnh ấy nhưng đã thực hiện ngược lại bởi ông ta muốn được chứng kiến cảnh cái ông quan chức hàng đầu của tỉnh kia sẽ như thế nào khi đối mặt với mẹ con bà Lan?
Sài Gòn, 31-5-2011
Đỗ Ngọc Thạch
----
Chú thích:
(*) Tề Thái Công, tên thật là Khương Thượng, tự là Tử Nha, nên thường được gọi là Khương Tử Nha, là khai quốc công thần nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là vua khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Theo Sử ký, tổ tiên ông được phong ở đất Lã vào khoảng thời vua Thuấn đến thời nhà Hạ, do đó lấy Lã làm họ. Ông còn được dân gian và các nhà nghiên cứu lịch sử gọi bằng nhiều tên khác như: Khương Thái Công; Thái Công Vọng, Lã Vọng.
Khương Tử Nha được biết đến như một vị tướng tài vĩ đại và là người góp phần lập lên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thủ lĩnh bộ tộc Chu là Tây Bá Cơ Xương đi săn, gặp Khương Thượng đang câu cá phía bắc sông Vị. Cơ Xương nói chuyện với ông rất hài lòng, ngưỡng mộ tài năng của ông. Cơ Xương nhớ lời tổ tiên là Thái Công dặn rằng sẽ có vị thánh đến nước Chu, giúp Chu hưng thịnh, ứng với quẻ bói trước khi đi săn. Do đó Cơ Xương quả quyết Khương Thượng chính là người Thái Công mong đợi trước đây và tôn ông làm Thái Công Vọng (nghĩa là người mà [Chu] Thái Công mong đợi), đón lên xe về cung và tôn ông làm thầy.
(hết)
MỐI TÌNH ĐẦU
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
1.
Thầy Mân dạy tôi hồi lớp Mười, còn Thầy Hân dạy tôi hồi Đại học. Thầy Mân chào thầy Hân là Thầy, vì khi học Đại học Ngoại ngữ, thầy Mân cũng học thầy Hân. Như thế, thầy Hân vừa là Thầy của Thầy tôi, tức Sư phụ của Sư phụ, và với tôi thì là Sư phụ, tức tôi gọi thầy Hân là Sư phụ hoặc Sư phụ của Sư phụ đều đúng!
Là học trò mà viết về Thầy giáo của mình, theo lệ thường, là chỉ được viết ngợi ca, còn lại thì đều là bất kính, vô Lễ. Tuy nhiên, vì tôi cũng có hai năm làm Thầy giáo, mà học trò tôi ngày ấy, giờ cũng đã có học vị Tiến sĩ, gặp tôi vẫn lễ phép “Chào Thầy”, vì thế, nếu xét về quan hệ xã hội, thì tôi cũng là Đồng nghiệp với Sư phụ của tôi! Sở dĩ tôi phải “Vòng vo Tam Quốc” chút xíu vì những gì tôi viết về hai Sư phụ của tôi không thể xếp vào thể loại Tụng ca được dù tôi rất muốn như thế!
Năm tôi học lớp Mười (niên khóa 1965-1966), mặc dù đã 17, 18 tuổi nhưng tôi vẫn “vô tư” như trẻ con, tức không hề cân nhắc tính toán trong mọi hành động của mình. Chẳng hạn như tôi chỉ quan niệm đơn giản là học trò thì phải học giỏi, thế là đủ, ngoài ra không hề biết rằng, ngoài việc học, người học trò phải “trông trước, ngó sau” trong rất nhiều mối quan hệ của cái “môi trường” mà người học trò đó tồn tại. Chẳng hạn như có một chuyện “to bằng cái đình” đối với tôi là chuyện vào Đoàn Thanh niên. Tôi không hề biết rằng nếu không phải là Đoàn viên thì việc vào Đại học sẽ rất khó khăn, cũng như tôi không hề biết rằng những ai có lý lịch “đen” (con cái Tư sản, địa chủ, hoặc những người làm việc cho chính quyền Thực dân, phong kiến trước năm 1954) sẽ không được vào Đại học. Sau này nhìn lại lúc đó tôi mới hú vía, nếu tôi không đỗ đầu kỳ thi tốt nghiệp Phổ thông Trung học, đã từng ở trong đội tuyển của Thành phố Hải Phòng tham dự thi học sinh giỏi Toán toàn quốc thì tôi đã “tiêu đời” – tức sẽ không được vào Đại học, vì tôi chưa là Đoàn viên! Thực ra, ngay từ khi cắp sách đến trường, trong “Từ điển học trò” của tôi không hề có những từ như điểm kém, lưu ban, thi trượt hay đại loại như thế! Tôi cũng không hiểu tại sao tôi đọc sách giáo khoa cũng thích thú như đọc truyện và cũng thuộc ngay như thuộc một bài thơ hay! “Kiểu tư duy” như thế này thật Nguy hiểm trong hai khu vực Tình yêu và Môi trường công tác khi trưởng thành! Có được sự nhận thức sơ đẳng như vậy là khi tôi đã… nghỉ việc theo chế độ “Một Cục”!
2.
Na là một cô gái rất xinh đẹp, có đôi mắt lúng liếng, nụ cười mê hồn sau làn môi mọng ướt như quả mận chín! Tôi chỉ có thể tả Na được như thế và cũng không biết có chính xác hay không bởi không bao giờ tôi dám nhìn thẳng vào mặt Na quá hai phút! Và chúng tôi cũng chỉ có cơ hội để đứng gần nhau, trao đổi dăm ba câu vu vơ vào ngày chào cờ thứ hai đầu tuần, bởi tôi đang học lớp Mười, còn Na học lớp Chín. Khi tập trung toàn trường, mỗi lớp chúng tôi đứng thành bốn hàng dọc (mỗi tổ một hàng dọc), tôi luôn đứng cuối hàng và Na cũng đứng cuối hàng, hai lớp, hai tổ của chúng tôi lại cạnh nhau nên tôi và Na đương nhiên là đứng cạnh nhau, chỉ cách một cánh tay! Tôi nhớ lần đầu tiên tôi và Na “quen nhau” là sau một tuần đầu tiên của năm học. Sau khi chào cờ, thầy Hiệu trưởng nói về tình hình học tập tuần qua và mỗi lớp có một người đạt số điểm bình quân các môn cao nhất lớp sẽ được lên đứng dưới cột cờ để cả trường hoan hô (chúng tôi gọi đùa là được “Bêu dương” – thực ra chữ dùng chính xác là “Biểu dương”). Lúc ấy, tôi đang mải “nhìn trộm” đôi môi chín mọng như quả mận chín của Na thì Na bỗng quay sang tôi, tôi vội nhìn đi chỗ khác thì nghe thấy tiếng Na: “Bạn Thạch! Thầy Hiệu trưởng vừa đọc tên bạn kìa!” Tôi quay lại, nhìn nhanh vào mồm Na thì thấy ngay nụ cười mê hồn! Lúc ấy chắc là tôi ngơ ngác hay tương tự như thế nên Na phải nhắc lại câu nói vừa rồi, và mấy bạn ở lớp tôi cũng quay xuống giục tôi đi lên cột cờ! Lúc ấy tôi mới biết phải làm gì! Tôi nghĩ có lẽ sau lần ấy, tôi đã luôn luôn nghĩ về Na, hay nói cách khác là …yêu Na! Và tuần nào cũng vậy, bao giờ cũng phải là sau câu nói của Na, tôi mới “bừng tỉnh” và đi lên chỗ “Bêu dương”!
Tôi không thể nhớ chính xác giờ nào, ngày nào, tháng nào Thần Tình yêu đã bắn Mũi Tên Vàng “Xuyên táo” cả tôi và Na? Tôi cũng không thể nhớ chính xác lần đầu tiên tôi và Na đã hôn nhau như thế nào, hôn vào đâu trước hay chỉ nép vào nhau mà thôi! Tôi đã đọc được ở đâu đó câu thơ “Hải Phòng có mối tình đầu / Cái hôn vụng dại làm nhàu áo em!” và tôi đã thuộc luôn và cứ nghĩ, sao chỉ đơn giản như thế mà mình không làm nổi lấy một câu thơ để tặng Na - người yêu – Mối tình đầu của tôi! Khi tôi “ngứa tay” chép câu thơ đó đưa cho Na xem thì Na cười nói: “Bạn không cần tặng Thơ mình vẫn yêu bạn! Mình muốn bạn tặng mình cái hôn bằng môi bạn chứ không phải bằng thơ!” Nói rồi chúng tôi hôn nhau không muốn rời nhau ra!...
Đã không biết làm thơ, thì cũng có thể “Tạm tha”, nhưng vô tư đến mức không hề biết người mình yêu có “quan hệ” với những ai, nói nôm na là có những ai cũng yêu người mình yêu và người mình yêu “đáp lại” những tình cảm đó như thế nào, thì không thể tha thứ được! Tức đó là sai lầm lớn nhất của tôi trong cái vụ “Mối tình đầu” này!
Sau “Cái hôn đầu”, tôi và Na thường hẹn gặp nhau vào bảy, tám giờ tối trên bờ con mương thủy lợi có hàng phi lao thẳng tắp rất đẹp. Địa điểm mà chúng tôi hẹn gặp nhau nằm ở điểm giữa của khoảng cách từ nhà tôi đến nhà Na. Từ nhà tôi đến điểm hẹn hò phải đi qua trường học. Ở trường học có hai phòng dùng làm “Nhà Công vụ” cho một số thầy, cô giáo không phải là người địa phương, tức người ở nơi khác về trường làm giáo viên. Mỗi phòng có hai người – hai thầy giáo và hai cô giáo – vừa đúng “hai cặp đôi”, tức hai thầy giáo mà cưới hai cô giáo thì vừa đủ hai đám cưới. Mỗi lần đi đến chỗ hẹn, nhìn vào “Nhà Công vụ” thấy hai thầy giáo và hai cô giáo đang ngồi nói chuyện với nhau, tôi đều nghĩ thầm như vậy! Nhưng thực ra lại không phải vậy! Chỉ có một thầy và một cô sau này cưới nhau, còn một thầy, tức thầy Mân, dạy môn Tiếng Nga lớp tôi, không cưới cô giáo còn lại mà đòi cưới…Na!
Tôi chỉ được biết cái “tin sét đánh” ấy sau một tháng hẹn hò với Na. Hôm ấy hình như Na đến chỗ hẹn để “chia tay” tôi, cho nên vừa gặp nhau, Na đã hôn tôi nồng nàn…Cuối cùng thì Na nói: “Có lẽ từ nay, chúng ta sẽ không gặp nhau như thế này nữa!...” Tôi định nói thì Na đã che mồm tôi và nói liền một mạch: “Bạn đừng nói gì hết! Thầy Mân đã đến nhà mình “Cầu hôn”. Bố mẹ mình đã đồng ý! Mình không thể từ chối lời cầu hôn của thầy Mân vì nhiều lý do rất khó nói!...” Đúng là “Mặt đất tối sầm nếu không có Tình yêu!”…
3.
Tôi cố quên đi “Mối tình đầu” ngắn ngủi, cố quên đi cuộc “Cạnh tranh không bình đẳng” nhưng càng cố quên thì lại càng không thể nào quên!...Năm học trôi nhanh hơn đối với kẻ thất tình là tôi. Cuối năm, tôi thấy các bạn học lớp tôi cứ xì xào, săn đón về danh sách dự kiến đề nghị vào các trường Đại học của nhà trường gửi lên Ban tuyển sinh Đại học của Thành phố, rồi danh sách ấy gửi lên Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, có thay đổi, rơi rụng gì không? Sau này, nghĩ lại tôi thấy ngạc nhiên về mình: Tại sao tôi không hề quan tâm đến chuyện đó? Mà ngày ngày, những lúc gió mát trăng thanh, tôi lại tha thẩn đi ra chỗ tôi và Na thường hẹn nhau lúc trước, để làm gì thì tôi cũng không biết?
Một buổi trưa, đúng giờ Ngọ, trời nhiều mây nên không hề có nắng, gió mát lạnh, tôi mang cần câu ra chỗ vẫn hẹn với Na bên con mương thủy lợi, dưới hàng phi lao rì rào gió thổi, ngồi…câu cá! Câu được hai con cá riếc thì Na đến ngồi cạnh tôi từ bao giờ, nhẹ nhàng không một tiếng động! Khi tôi giật mình nhận ra Na thì đã nằm gọn trong vòng tay của Na!...Sau khi trở lại trạng thái bình thường, Na nói: “Bạn có giấy gọi vào Đại học rồi! Khoa Toán, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, chỉ có mình bạn thôi, oai nhất trường rồi nhé!” Tôi nghĩ là Na nói đùa nên không quan tâm mà muốn hỏi Na là tại sao từ hôm nói chia tay là chia tay luôn, không thể gặp nhau nữa? Như là đọc được suy nghĩ của tôi, Na nói: “Hôm nay, bạn có giấy gọi vào Đại học rồi, mình mới có thể nói hết sự thật với bạn! Khi thầy Mân “tỏ tình” với mình, mình từ chối ngay và nói thật rằng mình đã yêu bạn, hai người đã có ước nguyền sâu nặng! Mình thật không ngờ lời nói thật đó lại trở thành “điểm yếu” để thầy Mân tấn công vào! Thầy bảo, em phải từ bỏ mối tình dại dột này ngay và nhận lời tỏ tình của tôi, nếu không tôi sẽ gạt cậu ta ra khỏi danh sách đề nghị vào Đại học sắp gửi lên Sở Giáo dục, tôi có thể làm như vậy vì tôi là phó Ban Tuyển sinh của trường! Mình ngạc nhiên vô cùng, hỏi lại ngay: Bạn ấy luôn học giỏi nhất lớp thì làm sao lại gạt ra khỏi danh sách? Thầy Mân cười nhạt, nói khẽ mà mình nghe váng cả tai: Vì cậu ấy không là Đoàn viên, mà đoàn viên là tiêu chuẩn bắt buộc thứ hai! Lúc ấy, mình như bị một cú đấm “nốc-ao” choáng váng! Thầy Mân thấy vậy thì nói : cho em năm ngày suy nghĩ, nếu còn yêu nhau thì cậu ta sẽ không được vào Đại học, nếu muốn cậu ta vào Đại học thì phải cưới tôi! Trời ơi, tại sao lại có chuyện như vậy, tại sao số phận cuộc đời cậu lại nằm trong tay mình? Mình đem chuyện này nói hết với Mẹ, thì Mẹ mình nói: Thảo nào mẹ thấy thầy Mân thường hay tới nhà mình, lấy cớ này nọ, nhưng chỉ lần thứ ba là mẹ biết ông ta thích con! Nếu đã như vậy thì chỉ có một lựa chọn là phải nhận lời cưới ông ta. Nhưng con hãy nói là khi nào cậu ấy có giấy gọi vào Đại học thì mới đồng ý làm đám cưới! Như vậy là con đã góp phần cho việc vào đại học của người con yêu thêm chắc chắn! Nghe mẹ mình nói như vậy, mình thấy nhẹ cả người. Nhưng khi quyết định phải nói lời chia tay với cậu, mình thấy khó vô cùng, cuối cùng lại phải nhờ mẹ cố vấn cho!...Đã có giấy gọi vào Đại học nhưng nhà trường chưa công bố, không biết còn om lại làm gì? Đây là do thầy Mân nóng lòng muốn cưới mình nên đã lên Ban Tuyển sinh Thành phố lấy trước cho riêng cậu thôi đấy. Vì thế cậu đừng vội cho ai biết!” Khi Na lấy trong một cuốn vở ra cái giấy gọi vào Đại học đưa cho tôi, tôi mở ra xem nhanh, khi đọc thấy tên mình và tên trường Đại học thì lóng ngóng thế nào để tuột tờ giấy khỏi tay và một làn gió ào tới, đưa tờ giấy chao liệng xuống…dòng mương! Na với người theo bắt lại tờ giấy nhưng không được, suýt thì rớt xuống mương! Tôi vội kéo Na lại và ôm chặt, chỉ sợ Na trôi đi như tờ giấy kia!...
Khoảng năm phút sau thì có tiếng nói: “Thôi đủ rồi! Chia tay nhau thế là quá đủ!” Người nói câu đó chính là thầy Mân, thầy cầm tờ giấy gọi còn nhểu nước đặt xuống trước mặt Na và nói: “Giấy này không có tờ thứ hai đâu!”, rồi đi về phía trường! Cả tôi và Na đều giật mình, song Na thở mạnh một cái rồi đứng dậy, nói: “Chắc tờ giấy trôi tới cổng trường! Để một lát cho khô rồi bạn cầm về nhé!” Nói rồi Na đi nhanh như làn gió, thoáng cái đã không thấy đâu cả!...
Đám cưới của Na với thầy Mân được tiến hành sau ngày đó đúng mười ngày. Đó cũng là ngày những người có giấy gọi vào Đại học tụ tập tại nhà bạn Tuấn (có giấy gọi vào Khoa Lý, cùng trường ĐHTH với tôi, như vậy lớp Mười của tôi năm đó chỉ có hai người được vào trường Đại học Tổng hợp – Trường được coi là khó học nhất thời đó!) để ăn mừng, chia tay. Thì ra số người được gọi vào đại học không nhiều, sĩ số gần 50 mà chưa tới mười người được gọi. Lúc đó, tôi mới chợt nhận ra Na vì yêu tôi mà đã hy sinh Tình yêu để tôi khỏi bị liên lụy, nói theo kiểu tiểu thuyết là “Chết vì Tình”!... Tuy nhiên, tôi cũng cùng đám bạn có giấy gọi ĐH đến chúc mừng đám cưới của thầy Mân, muốn gì thì gì, một người là Sư phụ của tôi, còn một người là Người tôi yêu!...
4.
Nhập trường được ba tháng thì tôi nhập ngũ, và tôi vẫn “vô tư” như xưa, không hề nghĩ con đường mình đang đi sẽ như thế nào, và tương lai sau này sẽ ra sao? Vèo một cái là bốn năm trôi qua, tôi lại trở về với Khoa Toán của trường ĐHTH, học ngay ở Khu Thượng Đình, Hà Nội chứ không phải ở chỗ sơ tán tận Đầm Mây (huyện Đại Từ, Thái Nguyên xa xôi). Các bạn học với tôi lúc mới nhập học trên khu sơ tán ngày xưa đã ra trường, có hai người ở lại Khoa làm cán bộ giảng dạy là Tam và Vĩ. Bạn học lớp Mười với Tôi là Tuấn học ở Khoa Lý ra trường về dạy ở Hải Phòng, trường ĐH Hàng Hải, rủ tôi về Hải Phòng chơi, nhớ đến Na, tôi đi ngay (gia đình bố mẹ tôi lúc này đã lại về Hà Nội). Nhưng về đến Hải Phòng, gặp lại mấy bạn lớp Mười cũ, ai cũng nói là không nên gặp Na nữa, Nàng đã có tới bốn đứa con với thầy Mân, mà thầy Mân giờ thường xuyên ở nhà, canh chừng vợ rất ngặt! Ấy vậy mà lúc tôi lên tàu về Hà Nội, lúc vừa ngồi xuống ghế thì thật là bất ngờ, Na đột ngột xuất hiện, ngồi xuống cạnh tôi rồi ôm chầm lấy tôi, khóc như mưa!...Khi tàu tới ga Hải Dương, Na mới đi sang tàu về lại Hải Phòng! Đó là lần cuối cùng tôi gặp Na!...Sau này, mỗi lần nhớ đến Na, tôi lại ra chợ mua hai quả na về…ăn!
Chương trình học của Khoa Toán lúc tôi trở lại Khoa, chủ yếu dựa vào sách của Liên Xô (Nước Nga cũ), vì thế, tiếng Nga đặc biệt cần thiết. Các bạn học lớp tôi lúc đó có một cách học Tiếng Nga thần tốc là học thuộc cuốn Từ Điển Nga-Việt. Có bạn chỉ sau hai tháng là “nuốt” cả cuốn Từ điển vào bụng! Tôi vừa cố nuốt Từ điển vừa nhờ một anh bạn thời lính đang học bên Đại học Ngoại ngữ, Khoa Tiếng Nga kèm thêm. Chưa được một tháng thì anh bạn nói: “Cùng dấu đẩy nhau, khác dấu hút nhau!...Bạn bè chơi với nhau thì vui nhưng học với nhau thì không ổn! Hai thằng mình cứ cặp kè hoài bọn con gái lớp tớ nó lại tưởng là chúng ta Đồng tính luyến ái! Vì vậy tớ mới tìm cho cậu một “cô giáo” rất giỏi Tiếng Nga, đang là sinh viên năm cuối, người cao to như vận động viên bóng chuyền, nếu Hà Nội có bị ngập lụt thì Nàng có thể cõng cậu mà thoát hiểm (Hà Nội đang bị đe dọa bởi nước sông Hồng đã mấy phen mấp mé bờ đê)!”. Và có điều rất hay là Nàng trùng tên với tôi, cả hai chữ Ngọc Thạch!... Bạn tôi vừa dứt lời thì “Cô giáo” tiếng Nga xuất hiện, hẳn là bạn tôi đã có sự chuẩn bị từ trước! Và “Cô giáo” làm việc ngay như là ở trường Ngoại Ngữ! Sau nửa giờ đồng hồ “quần thảo” tôi không kịp thở (cô giáo không dùng tiếng Việt, chỉ nói tiếng Nga mà tôi nghe chỉ hiểu được một nửa, còn một nửa thì nghe như chim hót), cô giáo mới cười mỉm và nói chuyện với tôi bằng thứ tiếng Việt cực hay, cũng như chim hót! Tôi thầm nghĩ, quả là anh bạn tôi rất giỏi chọn người, đó là kinh nghiệm của bốn năm làm việc ở Quân lực trong quân đội! Dường như anh bạn tôi coi việc chọn vợ cho tôi là nhiệm vụ chính, còn cô giáo tiếng Nga là nhiệm vụ thứ yếu! Quả là tính toán kỹ càng, một mũi tên bắn hai đích, khác hẳn bản tính vô tư của tôi, làm gì chỉ nhắm vào một mục đích mà thôi!...
Sau một tháng có cô giáo tiếng Nga, tôi đọc sách Toán tiếng Nga đã khá nhanh, cuốn Từ điển Tiếng Nga đã nuốt được đến vần L, nhưng đến chữ “Liu-bờ-liu” (Tôi yêu) thì thấy trong bụng không ổn! (Xin mở ngoặc là chuyện “Nuốt Từ điển” không phải là nghĩa bóng, mà là nghĩa đen, tức mỗi ngày xé ra một tờ, cảm thấy thuộc hết các từ trong đó thì nuốt luôn tờ giấy đó vào bụng! Giấy Từ điển Nga-Việt thời đó rất mỏng và trắng sạch, có thể ăn ngon lành nếu đói, mà sinh viên thời đó đói là chuyện hàng ngày! Việc nuốt Từ điển nó buộc ta phải thuộc Từ tiếng Nga như tiếng Việt, sau này không được ỷ lại vào Từ điển, có thể nói nó giống như việc Tào Tháo dùng binh, thường đóng quân, hạ trại quay lưng ra bờ sông, miệng vực chứ không dựa lưng vào núi cao như lệ thường, khi lâm trận quân sĩ buộc phải cố mà đánh lui quân địch vì không có chỗ tháo chạy!)! Khi Cô giáo biết chuyện tôi nuốt Từ điển thì cười nói: “Học hành không nên gây căng thẳng, làm theo như mấy nhà Nho thời xưa buộc tóc lên xà nhà để không ngủ gật, thức mà học thâu đêm không phải là cách của người làm khoa học trường kỳ! Như anh đang nuốt Từ điển, nếu thấy dạ dày không ổn thì nên ngừng lại, tôi sẽ giúp anh cách học có hiệu quả! Anh vừa nuốt đến chữ “Liu-bờ-liu” chứ gì? Tôi sẽ hướng dẫn anh dịch bài thơ “Tôi yêu Em” của nhà thơ A. Puskin. Chúng ta không chỉ tập dịch sách Toán học mà phải học cả cách dịch sách văn học. Nền văn học Nga và cả Nga Xô-viết là một nền văn học Khổng lồ!”. Thế là từ đó, cô giáo tiếng Nga của tôi dạy tôi dịch cả thơ Puskin, Lec-môn-tôv, Ê-xê-nhin,v.v…
5.
Sau hai tháng có cô giáo Tiếng Nga, anh bạn tôi nói đã đến lúc phải Cầu hôn ngay kẻo Đêm dài lắm mộng, uổng công anh ta thiết kế tốn kém bao công sức!...Nỗi lo của anh bạn tôi quả là có lý, bởi vật quý dễ vỡ, báu vật dễ bị mất trộm! Đúng hôm anh bạn tôi thiết kế một chuyến đi Hồ Tây bơi thuyền rồi ăn đặc sản Bánh Tôm thì cô giáo tiếng Nga nói: “Em đâu còn bụng dạ nào mà đi ăn bánh Tôm Hồ Tây với các anh!” Hỏi vì sao thì cô giáo nói: “Việc ra trường làm ở đâu, bố em đã lo xong từ nửa năm rồi, Sở Giáo dục Hà Nội đã đồng ý nhận. Vậy mà vừa rồi lại nghe nói em phải nhận công tác ở Thủy Điện Hòa Bình!”, nói xong thì bật khóc! Tôi và anh bạn đều ngớ người! Tôi nói liều: “Để tôi về hỏi bố tôi xem có thể xin về Bộ Y tế được không!” Và ngay ngày hôm sau, tôi về nhà nói với bố tôi thì bố tôi nói: “Bây giờ nội bộ lãnh đạo của Bộ đang năm bè bảy mối, những chuyện như thế không ai dám quyết. Phải chờ một thời gian nữa cho sóng yên gió lặng đã!” Tôi nói lại tình hình như vậy thì anh bạn tôi nói: “Thế thì phải chờ chứ làm sao? Nhưng tớ vẫn lo Đêm dài lắm mộng!”. Quả nhiên, Đêm dài lắm mộng! Ba ngày sau, cô giáo tiếng Nga cho biết: ông bố cô đã nhờ người chạy thì có một chỗ cực kỳ thơm, đó là về dạy tiếng Nga ở Khoa Toán của tôi, và người nhận giúp là ông thầy Hân, hiện đang là giáo viên dạy tiếng Nga của Khoa Toán, tức là thầy giáo tiếng Nga của tôi. Thì ra ông thầy Hân có biết “cô giáo” do mấy năm trước còn dạy ở bên trường ĐH Ngoại ngữ, đã dạy cô ở năm thứ nhất và đã từng “tỏ tình” với cô. Ông thầy Hân nói sẽ xin cho “cô giáo” về Khoa Toán nhưng với điều kiện cô phải là vợ của ông!...
Điều kiện như thế đối với các cô sinh viên năm cuối của các trường Đại học ở Hà Nội đã quá quen thuộc nên anh bạn tôi thở dài mà nói rằng: “Trời đã sinh ra Du sao còn sinh ra Lượng! Bây giờ cậu là Chu Du còn ông thầy Hân là Gia Cát Lượng, cậu chịu thua đi thôi! Mà cũng tại tớ, đáng lẽ ngay từ khi giới thiệu cô giáo với cậu, phải tham mưu cho cậu thực hiện kế sách “Gạo nấu thành cơm” thì có phải hay hơn không!”. Tôi nói ngay: “Đừng tiếc than mà làm gì! Trong cuộc đua ở “Đấu trường Ái tình” tớ luôn thủ sẵn “Con cờ chiến bại” nên quen rồi!”. Bạn tôi phá ra cười rồi bày bàn cờ, nói: “Bây giờ tớ với cậu chơi một ván cờ định mệnh, nếu cậu thắng tớ sẽ làm mặt dày mai mối lần nữa, dẫn cậu tới bà chị họ hàng xa, thuộc loại lá ngọc cành vàng, nhà giàu cỡ Thạch Sùng, cậu chỉ việc cơm no bò cưỡi!”. Tôi nói ngay: “Vậy thì còn dài dòng gì nữa, tớ sẽ chấp cậu một xe!” Người bạn tôi không nói gì, cậy thế hơn quân, xua quân sang hà thả sức tàn sát mà không ngờ rằng tôi đã cho một tổ thám tử lẻn vào tận hậu cung bắt sống tướng sĩ của anh ta! Bị thua trong nháy mắt, anh bạn tôi phải dẫn tôi tới nhà bà chị họ hàng xa để gặp người lá ngọc cành vàng! Khi tới nơi thì nhà vắng vẻ làm sao, nhấn chuông một lúc mới có một người Osin chạy ra nói qua lỗ cánh cổng sắt to đùng: “Bà chủ, ông chủ đưa cô chủ đi chuyển đổi giới tính ở nước ngoài rồi! Một tháng nay, cô chủ bỗng giở chứng cứ đòi làm con trai!”…
Hình như cái bà Osin còn nói gì nữa nhưng anh bạn tôi đã lôi tôi đi và nói: “Ta đi làm mấy chén cuốc lủi rồi đi mua quà mừng đám cưới của Thầy giáo cậu cưới “Cô giáo” của cậu! Không thể xem thường chuyện này được!” Quả nhiên, chỉ ba ngày sau chúng tôi nhận được Thiệp cưới , chỉ trước ngày cưới một ngày. Tới ngày cưới, anh bạn tôi đi cùng người yêu sắp cưới, trông rực rỡ hơn cả cô dâu – chú rể, còn tôi, cô người yêu anh bạn cũng kiếm cho tôi được một “bạn nhảy” đúng mốt và nhờ thế mà khi tới phần khiêu vũ của đám cưới, tôi không bị cô đơn! Song tôi vẫn bị cảm giác cô đơn xâm chiếm khi bất ngờ gặp thầy Mân ở đám cưới này, người đã cưới Na – mối tình đầu của tôi. Thì ra thầy Mân từng là học trò của thầy Hân ở Đại học Ngoại Ngữ, tức thầy Hân là Sư phụ của Sư phụ của tôi – tức thầy Mân, song, thầy Hân hiện đang là Sư phụ của tôi. Vì thế, tôi có hai cách để gọi thầy Hân: Sư phụ của Sư phụ, hoặc Sư phụ! Gọi cách nào cũng đúng!
Sài Gòn, 29-10-2009
Đỗ Ngọc Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét