Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

Hồng Hà Nữ Sĩ - Hồng nhan Đa Truân - Đỗ Ngọc Thạch



Hồng Hà nữ sĩ - Hồng nhan đa truân

Đỗ Ngọc Thạch

Nói về nỗi buồn đau của người chinh phụ tất phải nói đến bài thơ Khuê oán của Vương Xương Linh (*):

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.

Và khi đọc bài thơ Khuê oán của nhà thơ thời Thịnh Đường này ta không thể không nghĩ đến Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm và lúc đó cảm xúc của ta tuôn trào, réo sôi như thác đổ chứ không chỉ là cái "khoảnh khắc đốn ngộ" nữa:

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?

(Thiên địa phong trần / Hồng nhan đa truân )

Và như một định mệnh, Hồng Hà nữ sĩ của chúng ta bị câu thơ mở đầu này vận vào số phận một cách nghiệt ngã: Hồng nhan đa truân! Quả là rất đa truân:
Bà Điểm kết hôn với Nguyễn Kiều, lúc đó là năm 1743, Bà Điểm đã 39 tuổi.
Chỉ một tháng sau, ông Kiều phải đi Sứ ba năm biền biệt: Bà Điểm phải sống trong nỗi sầu cô quạnh không khác gì nàng chinh phụ trong Chinh phụ ngâm!
Khi ông Nguyễn Kiều trở về, này vui ngắn chăng tày gang, ông lại phải vào Nghệ An nhậm chức! …Bà Điểm không muốn đi vào tận xứ Nghệ đường xa cách trở vì còn phải chăm sóc mẹ già và vợ con người anh xấu số, bà cũng linh cảm thấy điềm gở về chuyến đi này! Nhưng ông Nguyễn Kiều năn nỉ hết lời, muốn bà đi cùng vào xứ Nghệ… Bà phải chiều chồng, làm bổn phận người vợ tòng phu, xuống thuyền cùng chồng đi vào Nghệ An, với nỗi lòng lo âu buồn bã… Lúc thuyền đến bến Đền Sòng, nơi thờ Công Chúa Liễu Hạnh, Bà bị cảm rất nặng. Biết mình không thể sống được, Bà trăn trối cùng chồng: Chàng nên cố gắng lo tròn việc nước để trở về kinh sớm ngày nào tốt ngày đó, chớ nên ở lâu nơi chốn biên thùy này mà dấn thân vào nơi gió bụi hiểm nguy!... Trối xong, Bà từ trần, lúc đó là ngày 11 tháng 9 năm Đinh Mão (1748), hưởng dương 44 tuổi. Bà chưa có con với Nguyễn Kiều. Bài văn tế của ông Nguyễn Kiều đã nói được phần nào cái sự “Hồng nhan đa truân” của Hồng Hà nữ sĩ:

Ô hô! Hỡi nàng! Huệ tốt lan thơm!
Phong tư lộng lẫy, cử chỉ đoan trang,
Nữ đức trọn vẹn, tài học ngỡ ngàng.
Giáo mác, ấy bàn luận,
Gấm vóc, ấy văn chương.
Nữ trung, rất hiếm có như nàng.
Sao mà lại,
Gia thất chậm hơn Mạnh Quang (**),
Con cái hiếm hơn Trang Khương,
Dứt tuổi Từ Phi, vui tài Ban Nương (***).
Sao hóa cơ khó đoán,
Mà Thiên mệnh phi thường lắm thay!
Xưa nghe được tiếng nàng,
Bèn kết thân hai họ.
Nàng về nhà tôi, vẹn tròn đạo vợ,
Việc bút nghiên tài lạ hằng chuyên,
Nghề kim chỉ tay sành chẳng bỏ.
Thường thường đàm luận cổ thi,
Ngày ngày xướng thơ họa phú.
Ba năm đi sứ Bắc, mày liễu buồn chau,
Năm Sửu trở về nhà, mặt hoa cười nở.
Lúc rảnh việc, cùng vui thú văn hàn,
Mới có chỉ sai trở vào xứ Nghệ.
Non sông chẳng ngại đường dài,
Tần tảo quyết theo nội trợ.
Đường sông nghìn dặm gian nan,
Doanh liệt ba tuần tới đó.
Một bệnh càng thêm, trăm phương khó chữa,
Đào chưa quả đã vội khô,
Quế đang thơm mà đã rủ!
Rừng sâu bể rộng, nàng hỡi đi đâu?
Ngọc nát châu chìm, lòng tôi quặn nhớ.
Những muốn chèo thuyền lan mà sớm phát,
Đưa giá liễu chóng về,
Hẹn lại quê nhà an táng.
Dốc đem ý hậu theo đi.
Nhưng, nghĩa cùng thời trái việc hẳn lòng tùy,
Nửa bước khó dời trấn sở.
Một thân khó vẹn công tư.
Lối về trên bến, tạm dựng bàn thờ,
Lệ tiễn hai hàng chan chứa,
Tình thương một lễ đơn sơ,
Sóng gió xin đừng kinh sợ,
Đường đi chớ ngại rũ rờ.
Hương hồn nàng yên nghỉ,
Cố ấp tôi hằng mơ.
Thượng hưởng!

*
Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), hiệu Hồng Hà, biệt hiệu Ban Tang. Quê tại làng Hiến Phạm, tên nôm là làng Giữa, xã Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Do lấy chồng họ Nguyễn nên bà còn có tên là Nguyễn Thị Điểm.
Bà Đoàn Thị Điểm là con gái ông hương cống Đoàn Doãn Nghi, mẹ bà là người họ Vũ và là vợ hai ông Nghi, nhà ở phường Hà Khẩu, Thăng Long (phố Hàng Bạc bây giờ). Bà họ Vũ sinh một trai (1703) là Đoàn Doãn Luân và một gái (1705) là Đoàn Thị Điểm. Từ nhỏ, hai anh em bà đã theo mẹ về ở với ông bà ngoại là quan Thái lĩnh bá họ Vũ, và được dạy dỗ chu đáo lầu thông Tứ thư, Ngũ kinh như anh trai. Hai anh em Luân và Điểm lớn lên đều có dáng người đẹp đẽ, tư chất thông minh vượt bậc và có văn tài xuất chúng. Điều đặc biệt là số phận của hai anh em luôn gắn với nhau.
Đoàn Doãn Luân được thân phụ dạy cho chữ Hán ngay từ lúc 3 tuổi, đến khi 5 tuổi thì biết ráp thành câu, đến năm 10 tuổi thì học thông Kinh Sử, đến tuổi trưởng thành thì thi đậu Hương cống, nhưng sau đó lại rớt kỳ thi Hội. Đoàn Doãn Nghi hỏi cưới con gái của bạn học là Lê Hữu Hỷ cho con trai của mình. Con gái của Hỷ tên là Lê Thị Vy. Sau lễ Hỏi ít lâu, chẳng may Cô Vy bị bệnh đậu mùa, di chứng để lại là mặt bị rỗ hoa, chân tay lóng ngóng. Bên nhà gái thấy vậy cho người sang xin hủy bỏ cuộc hôn nhân này. Nhưng Đoàn Doãn Luân nhất quyết giữ hạnh quân tử, một dạ thủy chung, không đổi ý vì nhan sắc cô Vy đã bị hủy hoại, làm mọi người đều kính phục. Lê Thị Vy về nhà họ Đoàn, gặp hoàn cảnh nhà chồng mẹ hiền em thảo, hết lòng giúp đỡ mọi việc trong nhà. Năm 1726, cô Vy sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Đoàn Lệnh Khương, ba năm sau sinh thêm một trai đặt tên là Đoàn Doãn Y. Ngay từ khi lọt lòng, hai cháu Khương và Y đều được cô ruột là bà Điểm chăm sóc tận tình.

Năm 16 tuổi, Đoàn Thị Điểm đã nổi tiếng là một tài nữ trẻ tuổi. Quan Thượng Lê Anh Tuấn (1), vốn đã quen biết nhiều với Đoàn Doãn Nghi, mến tài văn chương và đức hạnh nên nhận Đoàn Thị Điểm làm con nuôi. Kể từ đó, Điểm về ở nhà của nghĩa phụ tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long. Đây là khu dinh thự của các quan lớn trong triều như dinh quan Tham Tụng Nguyễn Công Hãn (2)... Quan lại, văn nhân khắp nơi đều lui tới các nhà quan Đại Thần ở phường Bích Câu tấp nập. Đó là dịp để Điểm quen biết nhiều người có danh vọng, có khoa bảng, cũng chính vì vậy mà tiếng tăm về tài ứng đối văn chương của tài nữ họ Đoàn được đồn vang.

Có một lần quan Tham Tụng Nguyễn Công Hãn sang chơi bên dinh của Thượng Thư Lê Anh Tuấn, thấy Cô Điểm đang đi một mình bên bờ dậu, ông dừng lại, bảo Cô Điểm làm câu đối lấy đề tài là đi một mình. Chỉ giây lát, Cô Điểm đọc: Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu,/ Truy tùy tả hữu cổ quăng thần. (Nghĩa là: Bàn chuyện xưa nay, tim bụng là bạn, /Đi theo trái phải, tay chân là bề tôi). Ông Hãn đã đỗ Tiến sĩ năm 21 tuổi, thường tự phụ về tài mẫn tiệp của mình, nay thấy Điểm chưa đầy 20 tuổi mà làm được như vậy thì vô cùng kinh ngạc, khen ngợi luôn miệng…

*
Ông Đoàn Doãn Nghi được bạn bè khuyên nên nhận một chức quan nhỏ, nhưng với tính phóng khoáng, không quen gò bó luồn lụy, nên không chịu nhận, và chọn con đường dạy học. Hơn nữa, Ông nghĩ con là Doãn Luân đã đỗ Hương Cống rồi, tuy rớt thi Hội, nhưng còn trẻ, chắc sau này có thể đậu được, còn con gái là Đoàn Thị Điểm thì đã có nơi quyền quí để nương tựa, bề gia thất sau này cũng dễ, nên Đoàn Doãn Nghi chuyển đi dạy học ở thôn Lạc Viên, huyện An Dương, nay thuộc Hải Phòng.
Dạy học ở Lạc Viên được vài năm, Đoàn Doãn Nghi đau bệnh và mất tại đây, vào năm 1729. Anh em Luân và Điểm đưa xác cha về an táng tại quê nhà. Nhiều học trò của Ông Nghi góp tiền làm một nhà thờ, và dựng mộ bia cho thầy học. Bia dựng năm Kỷ Dậu (1729), thời vua Lê Vĩnh Khánh.
Nhân chuyến này, Đoàn Doãn Luân đưa vợ con về ở luôn quê nhà là làng Hiến Phạm, sau đó lại chuyển qua ở làng Vô Ngại gần bên. Lúc này, Đoàn Thị Điểm cũng xin với dưỡng phụ cho phép về quê nhà đặng săn sóc mẹ già, giúp anh và chị dâu quán xuyến công việc gia đình.
Đoàn Doãn Luân mở trường dạy học. Chị dâu trước đây là một tiểu thư khuê các, nhưng vì bệnh đậu mùa làm cho gương mặt trở nên xấu xí, tay như có tật, nên Cô Điểm đứng ra thay thế chị dâu lo việc tề gia nội trợ, lại giúp anh trong việc giao thiệp với bên ngoài. Cô Điểm tỏ ra rất đảm đang và lịch thiệp trong mọi công việc. Mỗi khi anh Luân đau ốm, Cô thường thay thế anh Luân giảng sách cho đám học trò.
Gia đình họ Đoàn đang sống an vui như thế thì Đoàn Doãn Luân bị bạo bịnh đột ngột từ trần, để lại hai đứa con thơ chưa đầy 10 tuổi với một người vợ gần như tật nguyền, và một mẹ già tóc bạc. Năm đó là năm 1735. Đoàn Thị Điểm đọc một bài văn tế trước quan tài của anh rất lâm ly thống thiết, nhắc lại cảnh gia đình đơn chiếc, ai nấy đều cảm động không cầm được lệ trào. Sau đó, Điểm và chị dâu đưa xác anh về an táng nơi quê nhà, kế mộ phần của cha.
Gia cảnh bây giờ rất hiu quạnh, chị dâu thì thiếu đảm đang, lại mất sinh kế nuôi sống gia đình. Đoàn Thị Điểm phải mở tiệm xem mạch và hốt thuốc Bắc cho dân quanh vùng. Đoàn Thị Điểm có tay phục dược, người đến xem mạch bốc thuốc khá đông, nhờ vậy có đủ tiền nuôi mẹ, lo cho hai cháu và chị dâu được tươm tất. Đối với mẹ thì Điểm trọn hiếu, đối với chị dâu thì trọn nghĩa, nuôi dạy hai cháu khôn lớn.
Trong thời gian này, nhiều người đem lễ vật trọng hậu tới cầu hôn, nhưng Điểm không đồng ý ai. Việc “ong bướm rập dìu” cũng có nhiều phiền toái.
Nhân dịp có người tiến cử Điểm vào cung Chúa Trịnh để dạy học, Điểm không từ chối như lần ở với dưỡng phụ, liền nhận lời để khỏi phải lo đối phó với những kẻ không xứng đáng đến cầu hôn hoài. Nhưng khi ở trong cung, Điểm lại mục kích những điều xấu xa bỉ ổi trong đám quan lại, sự thối nát của triều đình, nên chán nản xin trở về quê nhà.
Lúc bấy giờ, giặc giã nổi lên đánh phá khắp nơi, Điểm phải đưa mẹ, chị dâu và hai cháu bỏ quê, về làng Chương Dương bên bờ sông Nhị Hà, gần Hà Nội. Năm ấy là năm 1739, Cô Điểm được 35 tuổi.

Đoàn Thị Điểm không muốn làm nghề xem mạch bốc thuốc nữa, mà mở trường dạy học, mong đem hết sở học truyền lại cho thế hệ sau, đào tạo lớp người mới, vừa có kiến thức cao, vừa có đạo đức để giúp dân giúp nước…Trong số học trò, có Đào Duy Doãn (3) ở làng Chương Dương, sau này thi đậu Tiến Sĩ năm 1760. Đoàn Lệnh Khương (4) sau này cũng nối nghiệp cô là Đoàn Thị Điểm, mở trường dạy học ở Thăng Long rất có tiếng, được người dân Thăng Long gọi là Nữ học Sư.

**

Trong thời gian Đoàn Thị Điểm dạy học, ông Nguyễn Kiều nhiều lần đến xin cầu hôn. Khi đó Điểm đã 37 tuổi. Ông Nguyễn Kiều, hiệu là Hạo Hiên, sanh năm 1695 (lớn hơn Cô Điểm 10 tuổi), tại làng Phú Xã huyện Hoài Đức, 18 tuổi đậu Giải Nguyên, 21 tuổi đậu Tiến Sĩ, là người có tài văn học lỗi lạc.
Năm 1717, Nguyễn Kiều được bổ làm quan Đốc Đồng ở Nghệ An, và năm 1736 được thăng chức Thị Lang. Nguyễn Kiều đã có hai đời vợ. Vợ đầu tiên của Nguyễn Kiều là Lê Thị Hằng, con gái của quan Thượng Thư Lê Anh Tuấn, nghĩa phụ của Đoàn Thị Điểm. Thị Hằng đoản mệnh và không có con. Người vợ thứ hai tên là Nguyễn Thị Đoan, con gái của quan Tham Tụng Nguyễn Quí Đức (5). Thị Đoan sinh được hai con trai và một con gái, rồi cũng qua đời mà chưa tới 30 tuổi.

Ông Nguyễn Kiều hai lần gửi thư cầu hôn Đoàn Thị Điểm. Lần thứ nhất, Điểm đọc thư rồi than rằng: “Lúc trẻ ta mong được người này đến cầu hôn. Đã trải qua hơn 20 năm, ta không bao giờ nghĩ tới nữa. Ta từng nhủ lòng, hạng người tài tử giai nhân rất hiếm trên đời này. Tốt hơn ta nên rửa lấy lòng trần, an nhàn nuôi lấy khí tượng thanh bình”. Chừng 10 ngày sau, Nguyễn Kiều lại sai người mang thơ đến nữa. Trong bức thư kỳ này, lời lẽ rất khẩn thiết chân thành, có đoạn như sau: "Tôi rất bận việc quan, lại phải lo chuẩn bị lên đường, việc nhà không ai coi sóc và cai quản. Tôi nghĩ rằng Cô cùng nội trợ tôi vốn trước có tình nghĩa chị em, nếu Cô vui lòng đùm bọc cho nội trợ tôi thì thật là may mắn cho cả nhà tôi đó”.
Điểm đọc thư lần này có vẻ cảm động, nhưng vẫn chưa muốn đem mình vào cuộc hôn nhân muộn màng, gây thêm phiền nhiễu, nhưng mẹ già và cả gia đình đều muốn Điểm chấp nhận, nên Điểm bằng lòng kết hôn với Nguyễn Kiều, lúc đó là năm 1743, Điểm đã 39 tuổi.

Bà Đoàn Thị Điểm về nhà chồng, sống với chồng rất tâm đầu ý hợp, khi rảnh thường hay xướng họa thơ văn. Nhưng chưa đầy một tháng sau thì quan Thị Lang Nguyễn Kiều làm Chánh Sứ sang nhà Thanh. Ông phải từ giã Bà để phụng chiếu ra đi. Lệ thường, đi sứ như vậy trong vòng 2 năm thì trở về tới nhà, nhưng lần nầy, khi sứ bộ trở về tới Quảng Tây, gặp lúc vùng này có loạn nên bị nghẽn đường. Sứ bộ VN phải lưu lại cả năm trời. Trong thời gian này, Nguyễn Kiều làm nhiều bài thơ, tỏ nỗi nhớ nhung đến người vợ mới cưới nơi quê nhà, nhất là trong những ngày Tết tha hương…

*
Trong lúc Nguyễn Kiều đi sứ Trung Hoa, ở nhà, Bà Đoàn Thị Điểm, khi thì ở bên nhà chồng săn sóc ba đứa con của chồng trong đời vợ trước, khi trở về nhà mẹ ruột thăm hỏi mẹ già, cùng chăm nom hai đứa cháu kêu bằng Cô ruột là Đoàn Lệnh Khương và Đoàn Doãn Y…
Lại nói bà Đoàn Thị Điểm khi còn là thiếu nữ, lúc ở nhà của nghĩa phụ Lê Anh Tuấn tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long, có dịp gặp Đặng Trần Côn (6). Côn nhỏ hơn Điểm hai tuổi, quê ở làng Nhân Mục. Đó là một trang thiếu niên anh tuấn tài hoa, năm 15 tuổi đã đậu Hương Cống.
Côn rất thích Điểm về nhan sắc cũng như về tài văn chương, nên có gửi đến Điểm một bài thơ tỏ ý cầu hôn. Điểm không trả lời nhưng nói với chị em bạn: “Cái ông Cống Đặng, miệng còn hôi sữa, làm thơ chưa xong mà lại đi nói chuyện vợ chồng!” Đặng Trần Côn nghe thuật lại thì tức lắm, nên cố gắng dùi mài kinh sử, đậu Tiến Sĩ trong kỳ thi Hội.

Đầu niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê Trung Hưng, gặp buổi chiến tranh giặc giã, trai tráng bị bắt đi lính đánh trận, gây cảnh ly tán đau đớn cho nhiều gia đình, Đặng Trần Côn cảm xúc, viết nên tác phẩm Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn theo thể thơ Cổ Nhạc Phủ. Khi viết xong Chinh Phụ ngâm, Đặng Trần Côn đưa cho ông Ngô Thời Sĩ (7) xem. Ông Sĩ xem xong lấy làm thán phục nói rằng: "Văn chương đã tới mức này thì Lão Ngô tôi chỉ còn biết bái phục mà thôi."
Đặng Trần Côn liền gửi tác phẩm này cho Bà Đoàn Thị Điểm xem, ngụ ý cho Bà biết rằng, trước đây Bà xem thường ông là lầm to... Tác phẩm Chinh phụ ngâm đến tay bà Điểm đúng lúc chồng bà đang đi sứ Trung Hoa. Bà Điểm xem xong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn thì rất cảm phục tài văn chương của họ Đặng, lại thấy tâm sự của nàng Chinh phụ trong tác phẩm cũng có phần tương đồng nỗi lòng của Bà lúc đó: Chồng đi sứ sang Tàu giống như đi lính thú chinh chiến ngoài biên thùy, Bà ở nhà lòng nhớ nhung lo lắng cho chồng không nguôi, lại còn lo phụng dưỡng mẹ già, nuôi nấng và dạy dỗ đàn con thơ của chồng xem như con ruột.

Tâm hồn của người Nữ sĩ rung động, và cũng muốn đáp lại tấm tình cảm của Đặng Trần Côn khi trước, Bà đã ngay tức thì diễn nôm tác phẩm Chinh Phụ Ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn, theo lối thơ trữ tình hoàn toàn Việt Nam là song thất lục bát.
Lòng nhớ nhung của Bà đối với chồng khi chồng phụng mạng đi sứ sang Bắc Kinh, cộng hưởng với tâm trạng của nàng Chinh phụ nhớ mong chồng đang đánh giặc ngoài quan ải, nên Bà diễn Nôm đoạn này thật cảm động:

Ðâu xiết kể muôn sầu nghìn não.
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi,
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ lòng.
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?

*
Đoàn Thị Điểm viết sách nhiều nhưng thất lạc cũng nhiều, hậu thế chỉ còn biết đến hai tác phẩm Hồng Hà nữ sĩ là Tục truyền kỳChinh phụ ngâm.
Tục truyền kỳ : Còn gọi là Truyền kỳ tân phả , viết bằng chữ nho, gồm có 7 truyện: 1/Vân Cát thần nữ (bà chúa Liễu Hạnh); 2/Hải khẩu linh từ (nữ thần Chế Thắng); 3/An ấp liệt nữ (tiểu thiếp Đinh Nho Hoàn); 4/Nghĩa khuyển thập miêu (chó nuôi mèo); 5/Hoành sơn tiến cục (cờ trên núi Hoành); 6/Mai huyền (cây mai huyền bí); 7/Yến anh đối thoại (Yến anh nói chuyện).
Hai truyện cuối trong danh sách trên đã bị thất lạc. Sách này là nối tiếp sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (8).

Sau khi thân phụ mất, Bà Đoàn Thị Điểm về quê nhà săn sóc mẹ già, sống chung với anh và chị dâu. Trong thời gian này, Bà viết tập sách Truyền Kỳ Tân Phả bằng Hán văn. Tác phẩm này được biên soạn rất công phu, nội dung viết về những người phụ nữ tài giỏi và tiết liệt , được anh của Bà là Đoàn Doãn Luân , hiệu là Tuyết Am, tự là Đạm Như Phủ, viết lời phê bình.
Trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Phan Huy Chú (9) ca ngợi tác phẩm Truyền Kỳ tân phả như sau: Lời văn trau chuốt, ý chuyện dồi dào.
Bản in sách Truyền kỳ tân phả năm Gia Long thứ 10 (1811), có ghi rõ tên tác giả là Hồng Hà Đoàn phu nhân, gồm ba truyện đầu trong bài văn tế kia, lại có thêm truyện Bích Câu kỳ ngộ, Tùng bách thuyết thoại Long hổ đấu kỳ .

Truyện Bích câu kỳ ngộ có liên quan đến câu chuyện cổ tích về chàng Tú Uyên lấy vợ tiên, truyện liên quan đến đạo tu tiên ở VN, rất phát triển ở thế kỷ 18; truyện Tùng bách thuyết thoại được cải biên từ chuyện Lưu Bình Dương Lễ; ba truyện An Ấp liệt nữ, Vân Cát thần nữ, Hải Khẩu linh từ đều liên quan đến việc thờ cúng trong dân gian. Các truyện viết về các nhân vật lịch sử, là truyện “người thật việc thật”: Người liệt nữ ở An Ấp là chuyện về vợ Đinh Nho Hoàn, ông bị chết trên đường đi sứ Trung Quốc, bà đã tự tử theo chồng, được triều đình ban khen và cho lập đền thờ; Đền thiêng ở Hải Khẩu là chuyện về bà cung phi của vua Trần Duệ Tông, được thờ ở thôn Hải Khẩu, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh; câu chuyện lưu giữ lại dấu vết tục hiến tế thời xa xưa của VN. Nữ thần ở Vân Cát là chuyện về chúa Liễu Hạnh, một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng VN. Câu chuyện liên quan đến đạo thờ Mẫu ở VN. Nàng cung phi của Trần Duệ Tông và chúa Liễu Hạnh, đặc biệt là chúa Liễu Hạnh, được thờ ở nhiều nơi, truyện của Đoàn Thị Điểm về hai bà và thần tích rất giống nhau. Thần tích ở đền Hải Khẩu có khác một chút về đoạn kết, nhưng thần tích các đền thờ Liễu Hạnh thì hầu như không sai khác một chi tiết nào so với truyện trong Truyền kỳ tân phả. Với Truyền kỳ tân phả , có thể nói Đoàn Thị Điểm đã dựa vào cốt truyện, nguyên mẫu nhân vật trong văn học và tín ngưỡng dân gian để viết thành tác phẩm văn học, sau đó tác phẩm của bà lại được sử dụng lại làm thần tích, giúp cho hành trạng của vị thần được thờ công tích sáng rõ hơn, ảnh hưởng sâu rộng hơn.

*


Truyền kỳ là một thể loại có bề dày truyền thống, những tiền đề của nó đã có từ kho tàng truyện kể dân gian của mỗi nước mà trong đó, yếu tố kỳ ảo tồn tại như một quy luật của sự vận động tư duy của con người, thậm chí có thể hình dung như một hình thái văn học vĩnh hằng của tất cả các dân tộc trên thế giới. Hình thái đó từ những yếu tố tản mát, tan hoà trong hầu hết những dạng thức văn học dân
gian - trung đại tìm thấy một hình thức tồn tại ổn định mang tính thể loại của Truyền kỳ mà giai đoạn Đường-Tống trong lịch sử văn học Trung Quốc được xem như điểm mốc cho sự định hình và phát triển.


Ở Việt Nam, điểm mốc này gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Dữ cùng tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của ông.Từ những tác phẩm đầu tiên của thể loại truyền kỳ đến Truyền kỳ tân phả, Đoàn Thị Điểm đã được kế thừa hai truyền thống: truyền thống dân gian và truyền thống truyền kỳ mà bậc tiền bối trực tiếp là Nguyễn Dữ cùng những tiêu chuẩn có sẵn về mặt thể loại của truyền kỳ Trung Quốc.

Với Đoàn Thị Điểm, bên cạnh những mặt kế thừa là những nét sáng tạo mới độc đáo, bên trong những mặt bảo lưu là những cách tân mang tính định hướng của tác phẩm so với truyện kể dân gian.
Không hư cấu cốt truyện, Đoàn Thị Điểm chỉ đào sâu mối quan hệ nhân quả của của các yếu tố cốt truyện có sẵn, lồng vào nội dung những quan điểm Nho gia cũng như tinh thần nhân văn của thời đại, đồng thời mặc sức thể hiện khoái cảm nghệ thuật cá nhân ở bộ phận thơ từ; những cố gắng đó cùng với những giai thoại đẹp của chính tác giả Đoàn Thị Điểm (vốn có lẽ được lưu truyền từ lúc sinh thời mà sau khi bà mất khoảng 50 năm, Phạm Đình Hổ (10), Nguyễn Án đã kịp ghi lại trong Tang thương ngẫu lục), tất cả đã làm nên một truyền kỳ để đến mấy trăm năm sau vẫn còn tràn trề nhựa sống.


Vai trò Đoàn Thị Điểm - tác giả của những truyện Truyền kỳ - ở đây là rất quan trọng bởi bà đã đem đến cho tác phẩm một luồng sinh khí mới, khiến cho nó trở thành cơ sở cho văn học dân gian, tiếp thêm sức mạnh để dòng văn học này sống mãi đến tận ngày nay trong dân chúng ...

Đỗ Ngọc Thạch

-----

Chú thích :

(*) Vương Xương Linh (694 - 756) tự Thiếu Bá, người ở Vạn Niên, phủ Kinh Triệu (nay thuộc thành phố Tây An), đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 15 (727). Vương Xương Linh sở trường về thơ thất ngôn tuyệt cú, nội dung chủ yếu là tả sinh hoạt nơi biên tái và cung oán, khuê tình, phong cách thanh tân dịu dàng trong sáng. Khuê oán là tác phẩm tiêu biểu của Thi Thiên tử Vương Xương Linh. Khác với những bài thơ thuộc chủ đề biên tái, miêu tả tâm trạng, tình cảm… của người trực tiếp ra chiến trận, Khuê oán mang nỗi sầu của người thiếu phụ có chồng đang tham gia chinh chiến. Khuê oán thường được một số dịch giả, nhà nghiên cứu Việt Nam chọn làm ví dụ tiêu biểu cho khoảnh khắc đốn ngộ trong Đường thi.

Khuê Oán
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Vương Xương Linh (698-756)

Dịch nghĩa: Nỗi oán trong phòng khuê.

Người thiếu phụ nơi phòng khuê không biết buồn
Ngày xuân trang điểm xong, bước lên lầu biếc
Chợt thấy màu dương liễu ở đầu đường
(Liền) hối hận đã để chồng đi tòng quân để kiếm phong hầu.

Dịch thơ: Nỗi oán trong phòng khuê.
Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.
Ngô Tất Tố dịch thơ.

Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm gương.
Nhác trông vẻ liễu bên đường,
Phong hầu nghĩ dại, xui chàng kiếm chi.
Tản Đà dịch thơ.

(**) Nàng Mạnh Quang: Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có viết: Đã cho vào bậc Bố kinh / Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Bố kinh là hai chữ thu ngắn, Bố quần là chiếc quần bằng vải, kinh thoa là cái trâm cài đầu bằng gai. Bố kinh lấy từ chuyện Lương Hồng, Mạnh Quang trong sách Di Uyển của Trung Quốc:

Lương Hồng là một hàn sĩ ở Giang Nam, nghèo xơ xác, hiếu học, trọng đạo đức nhân nghĩa. Nhiều người rất cảm phục nhân cách của chàng , muốn tìm cách giúp đỡ , nhưng đều bị từ chối.
Trong số này, có nhà họ Mạnh, giòng dõi nho gia, giàu có mấy đời, có tiểu thư Mạnh Quang, sắc nước khuynh thành, vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé. Nhà họ Mạnh chủ động muốn nhận Lương Hồng làm rể. Lương Hồng cũng nghe tiếng gia đình họ Mạnh tuy giàu có, nhưng nổi tiếng mấy đời lương thiện, nên bằng lòng kết nghĩa trăm năm với nàng Mạnh Quang.

Ngày hợp hôn, Mạnh Quang muốn làm đẹp lòng chồng, trang điểm má phấn tô son, xiêm y lộng lẫy, vàng ngọc sáng ngời. Nào ngờ, trông thấy tân nương rực rỡ như vậy, tân lang lại tiu nghỉu, suốt bảy ngày đêm ủ ê không buồn động phòng hoa chúc. Thoạt đầu, Mạnh Quang đã quá lo âu, không hiểu mình đã lời ăn tiếng nói như thế nào để chàng phải phật ý; cuối cùng thì nàng cũng nghĩ ra và đã vất bỏ hết các xiêm y, trang sức sặc sỡ đó, mà chỉ mặc quần áo vải và đầu cài thoa gai đến bên chồng. Đến đây, Lương Hồng mới bật lên mừng rỡ, ôm chầm lấy tân nương:

- Đây mới thật là vợ của Lương Hồng. Trong phú quý, giàu sang, thường người ta không giữ được nhân nghĩa. Ta chỉ muốn sống trong thanh bần, tự mình cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, cuộc sống đạm bạc nhưng vợ chồng luôn có nhau, tương kính nhau.

Người đời sau lấy chữ Bố kinh trong điển tích này để nói đến các bà vợ hiền thục.

(***) Ban Chiêu (45-116), tự là Huệ Ban, được xem là nữ sử gia đầu tiên của Trung Quốc. Ban Chiêu sinh năm 45 trong một gia đình Nho giáo vào thời Đông Hán, Trung Quốc cách đây hơn 2000 năm. Bà là con gái của Ban Bưu - là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc thời bấy giờ, em gái của Ban Cố - nhà sử gia nổi tiếng. Bà còn có một người anh nữa là tướng quân Ban Siêu. Ban Chiêu thường được mời vào Hoàng cung để dạy kinh sử cho hoàng hậu và các quý nhân trong cung đình. Năm 14 tuổi, Ban Chiêu gả cho Tào Thế Thúc. Vì thế nên trong triều bà còn được gọi là Tào phu nhân. Tổ ấm của đôi vợ chồng trẻ này rất hạnh phúc, nhưng chỉ được 10 năm, Tào Thế Thức qua đời, bà thủ tiết thờ chồng. Tài khiếu viết văn của Ban Chiêu trước hết thể hiện trong quá trình giúp anh trai tên là Ban Cố viết cuốn Tiền Hán Thư… Những phần do bà soạn, từ tập 13 đến 20 (bát biểu biên niên) và tập 26 (thiên văn chí), được coi là mẫu mực cho nhiều tác phẩm lịch sử về sau. Sau khi bộ "Tiền Hán Thư" cho xuất bản, đã được sự đánh giá rất cao. Chương gay cấn nhất trong "Tiền Hán Thư" là bảng thứ 7 "Bảng bách quan công khanh" và chí thứ 6 "Thiên văn chí", hai bộ phận này về sau đều do Ban Chiêu hoàn thành.

(1) Lê Anh Tuấn (1676- 1741): hiệu Địch Hiên, quê làng Thanh Mai, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây nay là xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
Năm Giáp Tuất 1694, ông đỗ đồng tiến sĩ, 23 tuổi, làm Tả thị lang bộ Hộ rồi làm Bồi tụng ở phủ chúa Trịnh và hầu giảng ở tòa Kinh diên, được phong tước Điện Thành Nam. Đến năm Canh Tý 1720, thăng Thượng thư bộ Hình, tước Điện Quận Công, rồi vào làm Tham tụng ở phủ chúa. Ít lâu được gia thăng Thiếu bảo kiêm Đại học sĩ Đông Các (1726); thăng Thượng thư bộ Hộ, gia Thái bảo (1730). Về sau, bị chúa Trịnh nghi kị, phải ra làm Đốc trấn Lạng Sơn và Thái Nguyên (Nhâm Tý 1732), rồi lại bị giáng làm Thừa chánh sứ Lạng Sơn (Giáp Dần 1734). Năm Bính Thìn 1736, chúa Trịnh buộc ông phải tự tử, thọ 65 tuổi. Năm Tân Dậu 1741, chúa Trịnh Doanh lên nối nghiệp chúa, xét lại việc cũ, truy phong lại quan tước của ông và truy tặng Thái Bảo, thụy là Đạt Nghi.

(2) Nguyễn Công Hãng (1680-1732): tự Thái Thanh, hiệu Tĩnh Am, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc, nay là thôn Phù Chẩn, xã Phù Chẩn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Là đại thần, nhà ngoại giao và là một nhà thơ thời Lê trung hưng. Ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Chính Hòa 21 (1700) đời Lê Hy Tông lúc mới 20 tuổi, nổi tiếng hay chữ, làm quan tới chức thượng thư bộ Lại, hàm Thái tử thái phó, sau lại thăng thái bảo, xếp vào hạng tá lý công thần và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh tháng 4 năm 1718. Năm 1720, thăng tham tụng. Sau do Trịnh Giang nghe lời dèm pha bèn giáng chức điều ông đi làm thừa chính sứ Tuyên Quang và bắt phải chết. Ông có nhiều đóng góp tích cực cho chính sách cai trị của triều đình Lê-Trịnh đầu thế kỷ 18 và là người có công chấm dứt việc "cống người vàng" hay "nợ Liễu Thăng" của VN với triều đình phong kiến TQ.

(3) Bia Tiến sĩ soạn năm 1760 có ghi rõ: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 5 người, trong đó có Đào Duy Doãn (1726-?) người xã Chương Dương huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Chương Dương huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Hiến sát sứ.

(4) Đoàn Lệnh Khương (1726 - 1800): Đoàn Lệnh Khương là nữ sĩ đời Lê Ý tông, con gái lớn của Đoàn Doãn Luân, gọi Đoàn Thị Điểm là cô ruột. Quê xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Năm lên 9 tuổi cha mất, bà nhờ cô nuôi dạy thành tài, lại cũng nhờ ông thúc tổ bên ngoại là Liên Đình Hầu Lê Hữu Kiều (4*) bảo dưỡng cho, nên cuộc sống cũng yên ổn. Đến tuổi trưởng thành bà nổi danh tài sắc, nhưng tình duyên dở dang.
Đến năm bà 31 tuổi, nhận lời cầu hôn của Đốc đồng Sơn Nam là Nguyễn Xuân Huy, góa vợ, tuổi đã trên 40. Bà sinh được một gái, nhưng mới được hai tuổi thì con mất. Rồi chỉ được non bảy năm thì chồng mất năm Canh Thìn 1760. Từ ấy bà sống cảnh đơn côi góa bụa, lên kinh đô dạy học tại tư gia, được xa gần gọi là Nữ học sư.

(4*) Lê Hữu Kiều (1691-1760): là Danh thần đời Lê Dụ Tông, Có sách chép là Lê Hữu Khánh quê xã Liêu Xá, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương nay là xã liêu xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
Ông là con thứ 10 (út) của Hoàng giáp Lê Hữu Danh, em tiến sĩ Hữu Hỷ, tiến sĩ Hữu Mưu, và là chú ruột Y sư Lê Hữu Huân tức Lê Hữu Trác.
Năm 18 tuổi, ông đỗ hương giải một lượt với anh là Hữu Mưu. Năm 25 tuổi đỗ khoa hoành từ, 27 tuổi (Mậu Tuất 1718) đỗ đồng tiến sĩ.
Trải làm các chức: Giám sát ở Thanh Hóa, Hiến sát ở Kinh Bắc, Tham khổn ở Thái Nguyên và Cao Bằng, Phó đô ngự sử tại triều, ông được sĩ phu trọng vọng vì tính khảng khái liêm chính…

(5) Nguyễn Quý Đức (1646 hay 1648-1720), hiệu Đường Hiên, tự Bản Nhân, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh, khoa thi năm Bính Thìn (1676), niên hiệu Vĩnh Trị thứ nhất. Quê ở làng Thiên Mỗ (tức làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội ngày nay).
Sau khi đỗ cao, ông được triều đình cử giữ chức Thiên đô ngự sử, làm chánh sứ sang Trung Quốc (1690), rồi làm Lại bộ tả thị lang. Ông được giao trọng trách cùng với Lê Hy soạn tiếp bộ Đại Việt sử kí bản kỉ từ đời Lê Huyền Tông đến đời Lê Gia Tông. Năm 1708, ông được cử làm Binh bộ thượng thư và năm 1794, được phong hàm Thiếu phó Liêm quận công. Ông đã có công tu tạo lại Văn Miếu, Hà Nội, dựng thêm bia tiến sĩ từ năm 1667 đến năm 1716 và trực tiếp giảng dạy ở Quốc Tử Giám, đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Khi ông mất triều đình nhà Lê truy tặng tước Thái tể Đại Tư không, Thượng trụ quốc Thượng trật, ban tên thụy là Trịnh Mục.

(6) Đặng Trần Côn (1710…1720? - 1745?) là tác giả của Chinh phụ ngâm, kiệt tác văn học viết bằng chữ Hán. Quê ở làng Nhân Mục (còn gọi làng Mọc), huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông đỗ Hương cống, nhưng thi Hội thì hỏng. Sau đó làm huấn đạo trường phủ, rồi tri huyện Thanh Oai, sau thăng chức Ngự sử đài đại phu.

(7) Ngô Thì Sĩ (1726-1780), tự: Thế Lộc, hiệu: Ngọ Phong, đạo hiệu: Nhị Thanh cư sĩ[1]. Ông là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở thế kỷ 18 tại Việt Nam; được Phan Huy Chú đánh giá là người có "học vấn sâu rộng, văn chương hùng vĩ, làm rạng rỡ cho tông phái nho gia, là một đại gia ở Nam Châu".

(8) Xin xem: Đỗ Ngọc Thạch .: TRUYỀN KỲ MẠN LỤC - THIÊN CỔ KỲ BÚT

(9) Phan Huy Chú ( 1782 - 1840): tên chữ là Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, thuở nhỏ có tên là Hạo sau đổi tên là Chú, là một danh sĩ triều nhà Nguyễn. Phan Huy Chú sinh ra ở Thăng Long và lớn lên ở tổng Thụy Khê, huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn Tây (nay là thôn Thuỵ Khuê, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai thứ ba của danh sĩ Phan Huy Ích người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1787, Phan Huy Ích bỏ làm quan với nhà Lê ở Thăng Long và lên Sài Sơn (Sơn Tây) định cư. Ông đỗ 2 lần tú tài, người đương thời gọi ông là "kép Thầy", làm quan dưới triều vua Minh Mạng, trải qua các chức Phủ thừa tỉnh Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp Trấn Quảng Nam, năm Quí Tị (1833) được bổ làm Tư vụ bộ Công. Chẳng bao lâu ông cáo bệnh xin về hưu, dạy học ở làng Thanh Mai, huyện Tiêu Phong, tỉnh Sơn Tây.
Ông là tác giả bộ bách khoa Lịch triều hiến chương loại chí và nhiều tác phẩm khác. Ông được người đời suy tôn là nhà bác học trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam.

(10) Phạm Đình Hổ (1768-1839) tên chữ là Tùng Niên, Bỉnh Trực, hiệu: Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ. Ông là nhà nghiên cứu, là nhà văn , nhà thơ Việt Nam khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Về sáng tác văn học có hai tập bút ký: Vũ trung tùy bút Tang thương ngẫu lục (hợp soạn với Nguyễn Án).

Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2012

Bão giập mưa vùi (12 chương) - Đ.N.Thạch

Đỗ Ngọc Thạch trên vietvanmoi

trích: Bão giập mưa vùi - Tiểu thuyết - 12 chương




Đỗ Ngọc Thạch, Sài Gòn 1994

TÁC PHẨM ĐĂNG TẢI TRÊN NEWVIETART - VIỆT VĂN MỚI
Trích: Bão giập mưa vùi - Tiểu thuyết - 12 chương

BÃO GIẬP MƯA VÙI - Chương 1 & 2 & 3

BÃO GIẬP MƯA VÙI - Chương 4 & 5 & 6

BÃO GIẬP MƯA VÙI - Chương 7 & 8 & 9

BÃO GIẬP MƯA VÙI - Chương 10 & 11 & 12


BÃO GIẬP MƯA VÙI

Tiểu thuyết của ĐỖ NGỌC THẠCH

Trải bao bão giập mưa vùi
Trái tim vẫn hát vang lời yêu thương!

 Chương 1

Vùng thượng lưu sông Hồng, có một nhánh sông nhỏ chảy qua một vùng đất hoang vắng. Cách bến sông khoảng vài dặm có một dãy núi vì thế người ta gọi nó là Cận Sơn. Rồi có một dạo, khách lữ hành qua đây, cứ vào khoảng từ giờ Thân đến giờ Dậu, là bị bọn lục lâm thảo khấu từ trong rừng tràn ra cướp của, giết người, nên từ giờ Thân, người ta phải ăn đợi nằm chờ bên này sông cho đến sáng hôm sau mới dám qua đò sang sông , vì thế, cái tên Cận Sơn được đổi thành Vọng Hôn, nghĩa là khách đến đây phải chịu cái cảnh ngồi mà nhìn hoàng hôn chậm chạp đi qua trong nỗi lo âu, thấp thỏm !...Đến thời vua Lê-chúa Trịnh, người ta bỗng thấy con sông nhỏ này ban ngày thì xanh biếc, ban đêm thì đỏ như máu nên đặt tên con sông là Nhật Lam – Dạ Huyết và mảnh đất bên tả gọi Nhật Lam, mảnh đất bên hữu gọi Dạ Huyết. Đến cuối đời Vua Lê- Chúa Trịnh thì hai cái bến sông nhỏ ấy đã đông vui tấp nập, phát triển thành hai cái làng hai bên sông với tên gọi làng Nhật Lam và làng Dạ Huyết.
 Ở bến sông làng Dạ Huyết, có hai vợ chồng người lái đò nghèo, chồng tên là Trần Đức Hiền, vợ tên là Lê Thị Lương. Không ai còn nhớ hai vợ chồng người lái đò này đến bến sông làng Dạ Huyết sinh sống bằng nghề lái đò từ bao giờ. Cũng không ai biết họ bao nhiêu tuổi, vì sao mà không có con, hay là có con mà không nuôi được. Người ta chỉ biết chắc chắn rằng, hai vợ chồng nhà này rất tốt bụng, đúng như cái tên của họ vậy. 

Cuộc sống của vợ chồng người lái đò nghèo, tưởng chừng cứ âm thầm trôi qua theo năm tháng. Nhưng hóa ra lại đầy biến động ! 

Sự cố thứ nhất xảy ra vào năm đói Ất Dậu. Cái đói khủng khiếp cũng tràn tới bến sông hẻo lánh của cái làng Dạ Huyết . Những người lái đò khác đã bỏ thuyền bỏ lái, bỏ dòng sông lên rừng đào củ mài. Còn vợ chồng ông Hiền bà Lương đành bám lấy cái bến đò, lần hồi sống qua ngày. Cũng may mà ông Hiền có tài bắt cá, câu tôm, mỗi ngày cũng đổi được lon gạo, cơm cháo nuôi nhau.  

Vào một đêm, không hiểu sao hai vợ chồng đều không ngủ được. Trằn trọc mãi, ông Hiền liền ra ngồi mũi thuyền câu cá, giết thời gian. Ông đăm đăm nhìn ra mặt sông, sóng gợn lăn tăn, lấp lánh ánh trăng mờ . Thốt nhiên, ông thấy một cái mảng đen hiện lên giữa dòng sông lấp lánh. Cái mảng đen lớn dần, đang trôi theo dòng nước. Khi ông nhận ra đó là một cái bè chuối thì cũng là lúc trên cái bè chuối đó vang lên tiếng khóc trẻ con yếu ớt. Theo bản năng tự nhiên, ông lái con thuyền nhỏ đón theo cái bè chuối đó. Khi tới sát cái bè chuối, chỉ còn cách mấy sải tay, ông kinh ngạc khi nhìn thấy trên cái bè chuối, trong đám rẻ rách bùng nhùng là hai đứa trẻ sơ sinh bé tý, đang cất tiếng khóc yếu ớt, ngắt quãng. Ông định gọi vợ thì vợ ông đã đứng sau lưng ông từ bao giờ, đang nhìn chăm chú vào hai đứa bé. Hai vợ chồng cùng thốt lên:”Hai đứa bé!”. Tức thì, ông Hiền trao mái chèo cho vợ rồi nhảy tùm xuống sông. Chỉ ba sải bơi, ông đã níu được cái bè chuối. 

Nhận hai cái bọc từ tay chồng, bà Lương bàng hoàng sửng sốt khi thấy hai đứa bé còn đỏ hỏn, như vừa mới từ bụng mẹ chui ra! Toàn thân chúng ướt lép nhép, chân tay cử động yếu ớt, tiếng khóc cũng như sắp tắt!... 

Ông Hiền nhóm lửa rồi cùng bà Lương lau người, sưởi ấm cho hai đứa bé. Tất cả quần áo của hai người chỉ vừa đủ bọc kín cho chúng. Khi đã hết lạnh, hai đứa bé khóc to hơn, như là đòi bú mẹ! Bà Lương nhìn ông Hiền lo lắng :  

- Chúng nó đói lắm đấy ! Ông đặt nồi cháo, lấy nước cho chúng nó ăn ! 

- Nhưng phải có cái gì cho chúng nó ăn ngay bây giờ !...  

Ông Hiền lúng túng một lúc rồi đưa hai ngón tay lên mồm, cắn mạnh. Hai dòng máu đỏ rỉ ra, ông nhét vội vào mồm hai đứa bé, chúng mút chùn chụt. Được chừng một khắc, bà Lương nói :  

- Thôi, ông để tôi cho bú tiếp ! Ông đi nấu cháo đi ! 

Bà Lương cắn hai đầu vú của mình bật máu rồi bồng hai đứa lên, nhét vào miệng chúng, nhanh nhẹn như một người mẹ cho con bú. Hai đứa bé thấy đầu vú thì ngậm chặt, mút chùn chụt, hai bàn tay quờ quờ rồi bấu chặt lấy bầu vú căng tròn, rắn chắc của bà Lương !... 

Ngồi cho hai đứa bé xa lạ bú bằng máu của mình, bà Lương run người lên vì một cảm giác kỳ lạ chưa bao giờ có ở bà ! Bà ràn rụa nước mắt !...Chỉ mình bà biết được rằng chồng bà bị mất khả năng sinh sản, nhưng vì muốn giữ thể diện cho chồng , bà đã nhận “lỗi” về mình . Gia đình nhà chồng muốn chồng bà lấy vợ khác, nhưng chồng bà thương yêu bà, rủ nhau bỏ làng quê mà lên bến sông hẻo lánh này sống với nhau. Ông Hiền thì không tin là họ mất khả năng sinh sản. Ông nghĩ rằng , đời cha ông đã “ăn mặn” (ông cụ rất nhiều vợ và đông con !) thì đến đời con là ông phải chịu “khát nước”, ông Trời muốn phạt ông .Vì thế, muốn có con phải tu nhân tích đức, đến lúc nào đó ông Trời sẽ thương tình !...Bây giờ đây, bế hai đứa bé trên tay, bà Lương vừa mừng vừa sợ. Mừng vì mình đã được ông Trời cho một lúc hai đứa con. Sợ vì như thế, chẳng lẽ mình sẽ không được đẻ con mà phải đi nuôi con thiên hạ hay sao ? 

Hai đứa bé, sau khi bú no, đã thiêm thiếp ngủ. Nồi cháo đang sôi lục bục. Hai vợ chồng nhìn nhau, không nói gì nhưng cùng chung một ý nghĩ là : phải nuôi hai đứa bé này bằng mọi cách !... Nhưng bằng cách nào thì họ đều chưa nghĩ ra nổi vào cái thời buổi nạn đói hoành hành dữ dội này !... 

Hai vợ chồng người lái đò thiếp ngủ được một lúc thì hai đứa bé tỉnh giấc, khóc oe oe đòi ăn ! Hai vợ chồng tỉnh dậy, lấy nước cháo đổ cho hai đứa bé thì cũng là lúc trời đã hửng sáng . Nhìn hai đứa trẻ nuốt nước cháo ừng ực, người vợ mỉm cười, nói :  

- Hai đứa bé chắc là sinh đôi, nhưng sao không giống nhau mấy ?  

- Làm sao mà biết được đó là hai đứa bé sinh đôi ? Vả lại, sinh đôi mà một trai một gái thì khó giống nhau lắm !- Tư lự giây lát, ông Hiền nói tiếp – Đặt tên cho hai đứa là gì nhỉ ?  

- Thì cứ lấy tên ông và tôi ghép lại mà đặt ! 

- Phải ! Thằng bé trai sẽ là Trần Nhân Đức, còn con bé gọi là Trần Thị Hiền Lương. Bà thấy được không ?  

- Được đấy. Nhưng không biết chúng nó có được như thế không ? 

- Ôi dào ! Bố mẹ đặt tên, ông Trời sinh tính nết. Biết sao mà nói trước được ?  

Bà Lương ngần ngừ rồi nói :  

- Phải có sữa cho chúng nó ! Lấy đâu ra bây giờ ?  

- Tôi sẽ kiếm người cho chúng nó bú chực. Còn bà thử đến nhà ông Lý xem sao, xin cho chúng nó ít sữa bò. Nhà ông ta có hai con bò sữa to lắm ! 

- Không được đâu ông ơi ! Càng nhà giàu, người ta càng giữ của ! Ăn mày, ăn xin qua nhà ông ấy, có bao giờ được một xu ! 

Hai vợ chồng đã cho hai đứa bé ăn nước cháo xong, bàn bạc mãi cũng không biết kiếm đâu ra thêm tiền để mua sữa cho chúng nó. Ông Hiền đi khắp làng nhưng chẳng tìm được ai có thừa sữa mà cho chúng nó bú chực ! Hai vợ chồng đành phải giảm bớt phần ăn của mình, dành gạo nấu cháo cho hai đứa trẻ. Được năm ngày, hai đứa trẻ đã khỏe mạnh hẳn ra, cho ăn bao nhiêu cũng còn thòm thèm ! Hai vợ chồng ông Hiền vừa mừng vừa lo nhưng không biết làm sao bây giờ ? Thôi đành cầu Trời khấn Phật phù hộ cho qua được cái nạn đói này !... 

Hai vợ chồng người lái đò không biết hai đứa bé ấy là con cái nhà ai, vì sao mà trôi dạt đến khúc sông này. Dân làng Dạ Huyết cũng không ai biết tông tích hai đứa bé, nhưng một tháng sau thì bà Còng, bán nước ở bến đò biết được. Bà Còng không nói với ai, chỉ nói với bà Lương về hai đứa bé như sau :  

Ở bên làng Nhật Lam, có một cô gái bị điên, không biết vì cớ sao, từ bao giờ. Cô gái điên này rất khỏe, da thịt còn mơn mởn, khiến nhiều gã đàn ông phải nhìn thèm thuồng nhưng không làm gì được vì cô rất dữ . Có lão Xã trưởng thèm muốn cô gái điên lắm ! Một đêm, lão sai tay chân lấy chăn chiên chùm lấy cô, vác vào vườn, đè giữ chặt cứng cho lão thỏa mãn ! Vài lần như vậy, cô gái lại hết điên, thành người hầu gái cho vợ lão Xã trưởng ! Rồi cô có thai, đến khi mãn nguyệt khai hoa, đẻ ra hai đứa con, một trai một gái. Nhưng người mẹ sau cơn đau đẻ chưa kịp hồi sức, lúc mới tỉnh lại thì không thấy con mình đâu cả ! Thì ra mụ vợ lão Xã trưởng đã sai người đóng bè chuối rồi cuốn hai đứa bé bỏ lên đó cho trôi sông ! Mụ vợ lão Xã trưởng không muốn có hai đứa con hoang của chồng ở trong nhà ! C̣n người mẹ của hai đứa bé, khi không thấy con mình đâu thì lại phát điên dữ dội : cô gái điên đã cầm dao chém chết cả hai vợ chồng lão Xã trưởng ! Rồi từ đó, người ta thấy cô gái điên lại đi lang thang khắp làng, tay ôm một cái bọc giẻ như bồng bế đứa con, mồm thì hát ru những câu hát lạ lùng !  

Sau khi kể như vậy, bà Còng bán nước nói với bà Lương :  

- Bố mẹ của hai đứa trẻ đã chết cả rồi, bà cố mà nuôi chúng khôn lớn. Tôi nhìn tướng bà, phải có ba bốn con là ít ! Mà bà sẽ có lộc nhờ cái vía của con cái đấy !
  Mỗi khi cho hai đứa bé nhai đầu vú để chờ cháo chín, bà Lương lại nghĩ đến lời của bà Còng bán nước. Bà Lương thầm ao ước được đẻ dù chỉ một đứa con, bà sẽ có rất nhiều sữa cho con bú, cho cả hai anh em thằng Đức và con Hiền Lương này bú sữa ! Thế rồi, một sự việc xảy ra, khiến cho bà Lương có con thật ! 

Ấy là vào một lần, đúng mùa mưa lũ. Ông Hiền đang lặn hụp trên dòng nước để vớt gỗ trôi từ thượng nguồn về thì thấy có một người đang ôm chặt lấy một cây gỗ, bị dòng nước cuốn đi. Ông Hiền đã vật lộn với dòng nước, đưa được cả cây gỗ và người bị nạn ấy vào bờ. Khi tỉnh lại, người bị nạn nói :  

- Ông đã cứu sống tôi, cũng có nghĩa là ông đã có công với cách mạng . Riêng tôi, sẽ đền ơn ông xứng đáng . Còn bây giờ, đang cấp bách, ông cầm tờ giấy này, đến làng X, xóm Y để người ta cho người về đón tôi ! 

Nói rồi người bị nạn trao cho ông Hiền một mảnh giấy nhỏ, dặn nói vài điều rồi giục đi cho gấp. Nghe người kia nói là cán bộ cách mạng , ông Hiền tức tốc khăn gói đi ngay .  

Đêm hôm ấy, người bị nạn lạ mặt đã ăn nằm với bà Lương như thế nào, không ai biết được, vì bà Lương không kể lại với ai hết. Mấy tháng sau, khi bà Lương ốm nghén, thì ông Hiền nghe bà Còng bán nước nói : “Mấy tuần nay, đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy có một con giao long cuộn lấy bà vợ ông . Rồi thế nào bà ấy cũng có thai và sinh ra quý tử. Rồi ông sẽ có lộc lớn. Hãy nghe tôi mà chăm sóc cái thai ấy cho tốt ! Thần linh đã đầu thai vào vợ ông đó !”. Ông Hiền nghe bà Còng nói vậy thì mừng lắm, ông nghĩ : “Mấy ông thầy tướng làng ông đã nói là rồi thế nào ông cũng có con và phát lớn trên sông nước, thì bây giờ quả là đã ứng nghiệm rồi ! Vợ ông mà sinh quý tử thì ắt là lộc sẽ đến !”. Và quả nhiên, sau khi bà Lương đẻ thằng Trần Duy Nhất (ông Hiền chỉ muốn có một thằng con nữa thôi, nên ông đặt tên nó như vậy) thì lộc đã đến với ông ngoài sức tưởng tượng của mọi người ở cái làng Dạ Huyết này .  

Lúc ấy, cách mạng tháng Tám đã thành công, chính quyền mới đã được thiết lập. Trong cái không khí mới đó, ông Hiền nhận được một món tiền lớn và một cái giấy phép đặc biệt : Ông được tự do khai thác lâm thổ sản trong vòng ba năm, không phải đóng thuế, không ai được phép ngăn cấm, cản trở. Kèm theo là một lá thư ngắn của người bị nạn lạ mặt ngày xưa : “Gửi ông Hiền ! Ông ở hiền thì sẽ gặp lành ! Tôi sẽ còn hậu tạ ông nhiều nữa nếu khả năng còn cho phép . Ông hãy chuyển sang nghề buôn bè gỗ nứa lá thì mới đủ sống và nuôi mấy đứa con ! Chúc ông mau phát đạt. Tôi sẽ luôn theo dõi và có dịp sẽ giúp ông ! Người được ông cứu mạng : Nguyễn Văn X.”.
Theo lời khuyên đó, ông Hiền bỏ tiền ra thành lập một đội khai thác, một đội đi bè. Chỉ sau một năm, ông Hiền đã trở nên giàu nhất cái làng Dạ Huyết, không thua kém gì những địa chủ lớn ở các vùng lân cận. Hai đứa con nuôi và đứa con đẻ (do Thần Giao long đầu thai, ông luôn tin như vậy) của ông đã được ăn ngon mặc đẹp, lớn nhanh như thổi, béo tốt không thua gì các hoàng tử, công chúa ! Trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, ông Hiền còn xuất của nhà ra nuôi cả Trung đoàn bộ đội mà vẫn không suy chuyển gì ! Đến khi cái giấy phép kia hết hạn, ông Hiền chuyển sang chữa thuốc Nam, ấy là do ông học được nghề của cánh thợ sơn tràng khi còn đi bè với họ. Ông chữa bệnh đâu phải để lấy tiền, ai có thì trả, ai nghèo khó ông còn cho thêm tiền mà đi bốc thuốc hay cho mau lành bệnh !...Những tưởng đã qua cái thời gian nan vất vả, vợ chồng ông Hiền vừa lòng với cuộc sống đầy đủ, an nhàn mà chuyên tâm vào việc nuôi dạy con cái. Nhưng, một biến cố mới lại ập đến với vợ chồng ông .  

Ấy là vào những năm Cải cách ruộng đất… 

Đội Cải cách đóng trụ sở tại nhà ông Hiền. Đội trưởng chẳng phải ai xa lạ, chính là Trí Trá Bướu cổ.  

Lai lịch của Trí Trá cũng khác thường lắm. Một phiên chợ, bà Lương thấy có một người nằm còng queo ở góc chợ. Thân hình của hắn ta lở loét, gầy đét nhưng cổ thì có cái bướu to bằng quả bong bóng trâu ! Thương tình, bà Lương mua cho hắn tô bún riêu. Ăn xong, hắn tỉnh như sáo và cứ một hai gọi bà Lương là mẹ. Bà Lương động lòng, dắt hắn về nhà. Ông Hiền phải tắm rửa thuốc men suốt một tuần mới khỏi ghẻ lở và mập mạp lên tí chút. Hai tháng sau mới khỏi bệnh bướu cổ. Hắn không nhớ hắn là con nhà ai, tên là gì, bao nhiêu tuổi. Ông Hiền lưỡng lự không biết đặt tên cho hắn là gì thì mấy người thợ bè nói : “Thằng này hay nói dối, tướng mạo lại gian tà, đặt tên Trí Trá cho nó là đúng lắm !Trí Trá bướu cổ!”. Từ đó, hắn có tên Trí Trá và làm việc vặt trong nhà ông Hiền.  

Bây giờ, không hiểu sao, thằng Trí Trá đã là Đội trưởng Đội Cải cách, mà “Nhất Đội nhì Giời”, quyền sinh quyền sát trong tay Trí Trá cả ! Vì sao mà Trí Trá được làm Đội trưởng ? Chẳng ai biết cả ! Chỉ biết là Trí Trá bây giờ được mọi người gọi là Đội trưởng Trí Trắc và Trí Trắc tỉnh bơ làm như không hề quen biết gì vợ chồng ông Hiền vậy ! Ông Hiền nhìn Trí Trắc suốt ngày suốt đêm lật đi lật lại cái danh sách những địa chủ cường hào gian ác cần phải đem ra đấu tố mà nẫu cả ruột ! Ông bỗng nhớ đến câu thơ của danh tướng Đặng Dung xưa : “Thời lai đồ, điếu thành công dị - Vận khứ anh hùng ẩm hận đa !”. Đúng là gặp thời thì những kẻ hàng thịt hàng cá cũng làm nên vương tướng, hết thời thì kẻ anh hùng cũng đành ôm hận mà thôi ! Nhưng con người ta cũng phải còn một chút tình chứ ? Vợ chồng ông ở hiền mong gặp lành, tu nhân tích đức mong tuổi già được mồ yên mả đẹp và con cháu ấm thân. Vậy mà sao bây giờ, trong cái danh sách đấu tố của Đội trưởng Trí Trắc kia, ông thấy có tên vợ chồng ông ? Họ sẽ làm gì vợ chồng ông đây ? Hai vợ chồng ông Hiền thức trắng mấy đêm liền, chỉ biết ôm nhau than thở. Bà Lương ôm chặt lấy ông Hiền mà khóc không thành tiếng, rồi đến đêm thứ ba, bà nói : “Ông ơi ! Chẳng lẽ ông Trời lại không thương chúng mình hay sao ? Nào mình có làm nên tội gì ? Chẳng lẽ lúc yên hàn thế này trời lại bắt ông chết ?”. Ông Hiền nói : “Bà chỉ nói gở, làm sao mà tôi chết ? Bất quá là họ tịch thu tài sản, thì mình nộp hết cho xong. Vợ chồng mình lại đi chở đò cũng có sao đâu ?”. Bà Lương tức thì khóc rống lên : “Ông ơi, không phải thế đâu ! Tôi nghe bà Còng bán nước nói rằng, mấy hôm nay ông có gân đỏ từ lỗ mũi chạy ra trông như rễ cỏ. Ấy là dấu hiệu của hao tán tiền của và thân thì bị hại đó ông ?”. Ông Hiền nghe mà đớ người, vì ông tin tướng số, tin bà Còng lắm, bà ấy đã nói câu gì thì không bao giờ sai ! Ông Hiền chưa kịp nói gì thì có tiếng đập cửa thình thình kèm theo tiếng la hét của Đội trưởng Trí Trắc : “Bàn nhau đem chôn giấu tiền của hả ? Chúng tao đã theo dõi mấy đêm nay rồi ! Phải bắt giam hai vợ chồng thằng địa chủ này lại !”. Thế là mặc dù chưa đến ngày phát động đấu tố, hai vợ chồng ông Hiền đã bị trói gô lại, dẫn lên giam tại đình làng, có một tiểu đội vác súng đứng gác nghiêm ngặt.  

Được độ nửa giờ, có lệnh thả bà Lương về nhà với lý do có nhiều con nhỏ. Bà Lương chưa kịp ngủ, lại có tiếng gõ cửa và tiếng Trí Trắc vọng vào, đủ nghe : “Tôi là Đội trưởng đây ! Tôi cần nói chuyện quan trọng với bà !”. Bà Lương mở cửa cho Trí Trắc, hắn vừa lách vào thì cài then lại và nói : “Tôi tiết lộ điều bí mật này cho bà biết : Chồng bà sẽ bị tịch thu hết tài sản và sẽ bị xử bắn !”. “Trời ơi ! Ông thương chồng tôi với ! Tôi cắn cỏ lạy ông, ông tha cho chồng tôi, tôi sẽ xin nộp hết !” Bà Lương ôm lấy chân Trí Trắc mà van lạy hoảng hốt, bà tưởng như ông Hiền đã đang bị dẫn ra pháp trường vậy ! Trí Trắc đỡ bà Lương dậy, nói nhỏ : “Bà không phải van lạy ! Van lạy chẳng ích gì hết . Có một cách cứu được chồng bà, bà có chịu không ?”. Trí Trắc nắm chặt lấy hai cánh tay bà Lương , mặt hắn kề sát má bà. Bà Lương thốt rùng mình hoảng sợ, nhưng vì nỗi sợ chồng chết còn lớn hơn, bà vội hỏi : “Cách gì ? Tôi sẽ cố hết sức miễn cứu được chồng tôi !”. Trí Trắc nói nhỏ : “Không khó gì đâu ! Bà chỉ việc cho tôi nằm với bà ! Tôi sẽ tha tội chết cho chồng bà !”. Nói rồi, Trí Trắc ôm chặt lấy bà Lương. Bà Lương kinh hoảng, vừa gỡ tay hắn ra vừa nói:”Ấy chết! Tôi già rồi, ông còn thèm muốn làm gì! Tôi sẽ làm mối cho ông con gái tơ hẳn hoi!”. Trí Trắc đã nhanh tay giật được áo của bà Lương ra, hắn vừa thọc tay xuống tụt quần bà, vừa cười khầng khậc vừa nói:”Ôi, ngực bà còn đẹp gấp mười gái tơ, mông bà còn căng gấp mười gái tơ!...Nằm với bà thích hơn trăm lần gái tơ!...”. Rồi hắn đè bà Lương xuống. Bà Lương chống cự dữ dội. Thấy vậy, Trí Trắc rít lên:”Bà mà không chịu, tôi ra lệnh bắn thằng Hiền tức thì!”. Nghe thế, bà Lương thấy choáng váng như có ai lấy búa tạ đập vào đầu, người bà mềm nhũn ra, trong đầu bà vụt hiện lên cái hình ảnh ở góc chợ năm nào!... Trong khi đó, Trí Trắc túm lấy bầu vú của bà Lương mà cắn cấu rồi hắn ôm chặt lấy bà mà rên lên ư ử!... 

Ngay sáng hôm sau, đã có lệnh từ trên đưa xuống: phải tiến hành đấu tố ngay không được chậm trễ!  
Bãi đấu tố được thiết lập ngay trên bến đò làng Dạ Huyết. Một cái bàn mộc được phủ vải đỏ, Đội trưởng Trí Trắc ngồi đặt tay lên bàn, oai vệ. Sau lưng Trí Trắc là một tiểu đội dân quân xã bồng súng oai nghiêm. Sau nữa, trên cao là một loạt những biểu ngữ với những hàng chữ cắt dán xiêu vẹo: “Đả đảo địa chủ cường hào ác bá!”, “Đả đảo áp bức bóc lột !”, “Đả đảo!...Đả đảo!... Đả đảo!”, v.v….Thiếu nhi đươc huy động cầm chiêng trống thanh la đủ loại. Thanh niên thì cầm loa, cầm gậy giữ trật tự và hướng dẫn quần chúng hô khẩu hiệu… Cái bến đò hẻo lánh từ ngàn xưa bỗng rung lên bần bật mỗi khi những tiếng hô “Đả đảo…Đả đảo!” vang lên như sấm rền! 

Ông Hiền bị đưa ra đấu tố đầu tiên. Ông bị hai người cầm súng áp tải, dẫn ra bắt quỳ xuống bãi cát, quay lưng về phía chủ tọa, quay mặt về phía đám đông . Mới có một đêm bị giam mà mặt ông đã phờ phạc, không còn sinh khí, tóc đã bạc trắng ! Hai cánh tay ông bị trói giật cánh khỉ cứ rung lên như người bị sốt rét !...Sau hàng tràng tiếng hô “Đả đảo”, đám đông im phăng phắc để nghe Đội trưởng Trí Trắc đọc bản luận tội ông Hiền ! Bản luận tội dài dằng dặc, không ai kịp nhớ hết nó gồm những cái gì. Nhưng khi Trí Trắc đọc xong, đám đông lao xao như gió rừng, mọi người nhớn nhác, xì xào to nhỏ. Có vài tiếng nói cất lên, không to lắm : “Oan cho nhà ông ấy quá ! Ông Hiền tốt nhất cái làng Dạ Huyết này đấy !”. “Ông ấy đã cứu sống bao nhiêu người, chữa khỏi bệnh cho bao nhiêu người !”, “Hình như ông Đội trưởng ngày xưa cũng được vợ chồng ông ấy cứu sống đấy !”… Bỗng “Đoành ! Đoành ! Đoành !”, ba tiếng súng nổ vang như sét, tiếng đầu đạn rít lên, xé không khí bay vút lên trời ! Đám đông đột ngột im phăng phắc, nghe rõ cả tiếng thở, tiếng tim đập thình thịch !... 

Mọi người chưa kịp hoàn hồn thì tiếng Đội trưởng vang lên : “Bà con hãy nghe một nhân chứng sống của sự áp bức bốc lột đứng ra tố khổ và vạch trần tội ác của thằng địa chủ Hiền ! Nó tên là Hiền nhưng nó không hiền đâu bà con ơi ! Đó là bộ mặt giả nhân giả nghĩa của nó đấy ! Nào, em Đức, hãy ra vạch mặt tên địa chủ cường hào gian ác này đi !”. Dứt lời, một đứa bé chừng bảy tám tuổi, lưng buộc một sợi dây chuối ,bên sườn giắt một khẩu súng lục bằng gỗ, tay cầm một cái gậy tre nhỏ, lon ton chạy ra, tới trước ông Hiền (ông Hiền phải thường xuyên trong tư thế quỳ, cúi đầu) thì lấy cái gậy tre gõ vào đầu ông Hiền hai cái “cốc ! cốc !”. Ông Hiền giật mình ngẩng đầu lên, ông tròn mắt kinh ngạc, thốt lên : “Trời ơi ! Con, Đức ơi !...”. Thằng Đức, đúng là thằng Đức, liền chỉ đầu gậy vào mồm ông , nói, giọng choe chóe : “Câm ngay ! Thằng địa chủ cường hào gian ác ! Mày không phải là bố tao ! Mày xui mẹ mìn bắt tao về nhà mày để làm thằng ở cho mày ! Nhận tội ngay không thì tao đập cho bể sọ !”. Đám đông lập tức nhốn nháo, lao xao như bão rừng . Có những tiếng ai đó hét lên : “Mất dạy ! Con mà dám đấu bố ! Quật chết nó đi !”, “Trời ơi là trời ! Đời thuở nhà ai mà con lại đấu bố hả trời !” v.v… Lập tức vang lên một tràng súng nổ chói tai : “Đoành ! Đoành ! Đoành ! Đoành !...” Nhưng , đám đông không thể lấy lại trật tự như lúc nãy. Người ta nhào vào đỡ ông Hiền khi thấy ông đổ gục xuống bãi cát. Có ai đó giằng lấy cái gậy tre trên tay thằng Đức và quất nó túi bụi, nó khóc ré lên. Lại thấy bà Còng bán nước vặn tai nó, dí mặt nó xuống cát, giằn giọng hỏi : “Ai xui mày ? Hả, ai xui mày nói láo ? Nói ngay không bà đánh chết !”. Tiếng thằng Đức : “Ái ! Ối !... Hu ! Hu !...Ông Đội !...Ông Đội hứa sẽ cho cháu đi bộ đội làm sĩ quan, đeo chân giò, đi giày cộp !...”. Đám đông càng nhốn nháo, ồn ào khi có ba bốn người nhà ông Hiền chạy ra bến đò, vừa chạy vừa hét to : “Ối ông Hiền ơi ! Ối giời ơi ! Đứa nào hiếp bà Lương , bà ấy treo cổ tự tử rồi !...”. Khi câu nói ấy chạy đến chỗ ông Hiền, ông bật đứng người dậy, đoạn ngửa mặt lên trời mà rằng : “Giời ơi là Giời !...”, rồi một dòng máu đỏ lòm từ miệng ông Hiền vọt ra, như vòi phun nước, rơi trúng đầu Đội trưởng Trí Trắc và mấy người cầm súng đứng cạnh ! Rồi người ta thấy ông Hiền chết gục trên tay mấy người đang định cởi trói cho ông ! Không ai nhìn thấy, trừ bà Còng bán nước, Đội trưởng Trí Trắc cùng tiểu đội dân quân xã biến mất từ lúc nào!...
Sau cái buổi đấu tố không thành ấy, Đội Cải cách chuyển sang làng Nhật Lam bên kia sông. Đội trưởng Trí Trắc đem theo thằng Trần Nhân Đức. Không ai biết chuyện này, trừ bà Còng bán nước. 

Sau đám tang ông Hiền và bà Lương, có một người buôn bè lúc trước thường đi lại với ông Hiền đã lén đưa cô bé Trần Thị Hiền Lương đi, nghe nói ông ta sẽ chuyển vào Nam sinh sống. Còn cậu bé Trần Duy Nhất, được một ông giáo quê ở làng Dạ Huyết nhưng đang dạy học ở Hà Nội đem đi, không nói cho ai biết. Nhưng tất cả những sự việc trên không qua được đôi mắt sắc sảo của bà Còng bán nước. Thỉnh thoảng có người hỏi bà về ba đứa con của ông Hiền và bà Lương thì bà không trả lời mà chỉ bỏm bẻm nhai trầu mà ngâm nga câu Kiều:
“…Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao!...”

Chương 2

Hai mươi năm sau cái chết của vợ chồng ông Hiền, đó là vào thời gian những năm đầu đất nước thống nhất, Bắc Nam liền một giải từ Mục Nam quan tới mũi Cà Mau…  

Tại một tỉnh vùng núi miền Nam, một đơn vị kinh tế quan trọng được thành lập, đó là công ty khai thác rừng. Nói là quan trọng vì Công ty này có hai nhiệm vụ đồng thời : khai thác tiềm lực của rừng để làm giàu cho tỉnh và giữ vững an ninh một vùng rừng núi rộng lớn mà bọn Phunrô vẫn lén lút hoạt động chống phá cuộc sống hòa bình mới được thiết lập. Vì thế, lực lượng chính của Công ty là quân nhân chuyển sang, nói chính xác là lực lượng bán quân sự .  

Một ngày đẹp trời của thị xã cao nguyên. Gió vừa đủ mạnh để lá thông reo vi vút. Nắng vừa đủ độ để như rắc vàng xuống những triền đồi e lệ nép vào nhau. Khí hậu vừa đủ lạnh để cho con người muốn gần nhau hơn…Trong cái bối cảnh thiên nhiên đẹp một cách gợi cảm ấy, người ta tổ chức ngày ra mắt của Công ty khai thác rừng thì thật là “thiên thời” (địa lợi và nhân hòa thì đã có sẵn). 

Ông Thứ, một người đã có thâm niên hơn ba mươi năm làm công tác tổ chức, được giao làm phó giám đốc kiêm trưởng phòng tổ chức của công ty. Cuộc đời làm tổ chức của ông đã đi khắp các tỉnh miền núi của phía Bắc tổ quốc. Vì thế, khi cần tăng cường cán bộ cho các tỉnh phía Nam, người ta nghĩ ngay đến ông, một người đầy mình kinh nghiệm của cái nghề phức tạp và tế nhị này.  

Đã mấy tháng nay, ông mải mê giải quyết cho xong những vấn đề cơ bản của nhân sự nên chưa để mắt đến cái ngày lễ ra mắt quan trọng này. Ông nghĩ, các cụ đã dạy “Vạn sự khởi đầu nan” là rất chí lý. Cái đầu có xuôi thì đuôi mới lọt, không thể xem thường được cái ngày lễ ra quân xuất kích này. Vì thế, ông đã tung hết lực lượng và phân công tỉ mỉ từng việc cho từng người, từ chỗ đi tiểu cho khách đến việc bố trí tuyên truyền trên đài, báo của tỉnh. Lúc đã hòm hòm công việc, ông mới sực nhớ ra cái tiết mục rất đặc biệt của mình : ấy là mỗi khi có hội lễ, hội nghị long trọng, ông thường đọc thơ góp vui văn nghệ đồng thời tuyên truyền được tư tưởng lớn, thâu tóm được những vấn đề mà mọi người cần khắc xương ghi cốt. Trước đây, ông đã từng nổi tiếng về việc này vì thơ của ông không lãng mạn viển vông, tả mây gió lăng nhăng mà ai cũng thuộc và nhớ cái việc phải làm. Chẳng hạn như cái hồi cần tuyên truyền bà con làm hố xí hai ngăn, ông đã có bài như sau :  

“Cặp kè hố xí hai ngăn
Như chồng với vợ ăn nằm bên nhau !
Trái tim ta có khác đâu
Hai, ba ngăn đấy, cùng nhau đập mà!
Mau mau ngăn hố xí ra !”
 


Rõ ràng là ông đã dùng thủ pháp nghệ thuật so sánh, ví von rất cừ khôi : trái tim người ta có hai ngăn thì con người mới sống được, mới biết yêu đương . Vì thế ai muốn chết thì hãy làm hố xí một ngăn !...Ông đã đề nghị cấp trên cho ông chuyển sang làm công tác văn hóa thông tin, nhưng vì công tác tổ chức quan trọng hơn, cần hơn nên ông đành chịu hi sinh cái con người nhà thơ trong ông !...Vậy là ông phải có một bài thơ thật là nhớ đời trong cái lễ ra mắt quan trọng này. Ông Thứ nghĩ vậy, rồi về nhà, đóng chặt cửa lại, pha một ấm trà đặc rồi đi bách bộ quanh bàn, lục tìm vần điệu và hình ảnh cho những câu thơ. Chẳng mấy chốc, ông đã đọc to lên được bài thơ như sau, vừa nói được hai nhiệm vụ cơ bản của công ty, vừa nói được cái đẹp, cái giàu của rừng :  

“Rừng xanh là nàng Tiên trời
Núi đồi là ngực, mông, đùi, chẳng sai !
Cánh rừng là mái tóc dài
Hang động là miệng, lỗ tai, lỗ mùi (mũi)
Khi mưa, gió, bão tơi bời
Là Nàng Tiên khóc, nói, cười đó chăng ?
Khe sâu, vực thẳm lạnh băng
Ai đang lặn lội ? Ây thằng gian phi!
Nêu cao cảnh giác tức thì
Bắt ngay kẻo nó tẩu phi trốn liền !
Núi rừng ! Ấy chính là tiền
Hãy bỏ tất cả mà lên với rừng !
 


Ông Thứ đang định chép vào một tờ giấy để đọc cho chắc ăn và có anh nhà báo nào xin thì cho, thì có tiếng gõ cửa dồn dập. Thì ra cái anh Phong phụ trách văn phòng . Anh ta nói :  

- Báo cáo anh, khách sạn người ta tính giá cao quá mà khách mời của mình lại tăng lên gấp đôi !...  

- Có thế mà cũng phải báo cáo – ông Thứ trả lời liền – Anh cứ tiền trảm hậu tấu ! Khách toàn loại đặc biệt, từ Hà Nội vào, từ Sài Gòn lên, lại có cả chuyên gia nước ngoài, báo, đài tùm lum, ăn ở lúi xùi làm sao được ! Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, anh không nhớ tôi nói với anh bao nhiêu lần câu tục ngữ nổi tiếng ấy rồi à ? Rồi sau này, công ty ta làm ăn phát tài, thì mấy đồng bạc tiền thuê khách sạn chỉ là hạt bụi mà thôi ! 

Chánh văn phòng vừa nghe đến câu “tiền trảm hậu tấu”đã phóng đi mất. Vì thế, khi ông Thứ nói xong một hơi thì không thấy chánh văn phòng đâu cả (ông có thói quen là khi nói với cấp dưới thì quay lưng lại người nghe), ông hơi bực vì chưa kịp dặn dò thêm cái khoản “giải trí lành mạnh” cho khách đặc biệt, nhưng ông dịu lại ngay vì thầm khen anh chàng này nhanh tay nhanh chân, đi mây về gió như là Đái Tôn trong Thuỷ hử, rất được việc . Ông định cầm bút làm tiếp cái việc của nhà thơ thì chuông điện thoại réo. Nếu là cấp dưới thì đã bị ông la mắng cho vuốt mặt không kịp , nhưng đây là ông Đại Trí, Phó giám đốc Sở Lâm nghiệp của tỉnh, cấp trên của ông. Ông Đại Trí gọi ông lên để duyệt lại lần cuối cùng toàn bộ nội dung chương trình của ngày lễ ra mắt công ty.  

Trên đường đến Sở gặp ông Đại Trí , ông Thứ nghĩ : mình cũng đã là loại tướng tá ngon lành, cơ mưu có thừa dùng không hết, vậy mà cái tay Đại Trí này còn gian ngoan xảo quyệt gấp trăm ngàn lần. Chẳng thế mà suốt bao nhiêu năm chiến tranh, hắn chỉ là sĩ quan tham mưu, lên đến trung tá mà không bị một vết thương nhỏ, không phải đứng dưới mưa bom bão đạn lần nào. Bây giờ chuyển ngành làm phó giám đốc Sở Lâm nghiệp khác gì ngồi trên đống vàng ! Thật đúng là tướng rắn, giỏi luồn lách, luôn tìm được chỗ thanh nhàn mà “ngồi mát ăn bát vàng”, mặc kệ cho thiên hạ xông pha nơi mũi tên hòn đạn, nơi đầu sóng ngọn gió ! Kể ra, ông Thứ cũng không ghanh ghét gì ông Đại Trí, nhưng ông thấy thằng cha này tham quá, tham như vua chúa thời xưa . Đáng lẽ cái chức giám đốc Công ty vào tay ông , hắn lại nhét thằng con nuôi của hắn vào cái ghế ấy mà phỉnh ông rằng : ông làm cái nghề tổ chức đã thành tinh rồi, cho nên phải bố trí xếp đặt thế mà nắm lấy công việc này, chưa thể giao cho ai được. Còn thằng con tôi, tuy là đã đến tuổi tam thập nhi lập, nhưng thực ra vẫn là con nít, ông gắng kèm cặp nó cũng như là Tể tướng bên cạnh vua ngày xưa ấy, quyền hành trong tay ông cả còn gì nữa!... Ông Thứ nghe cũng bùi tai, vui vẻ chấp thuận nhưng bên trong ông chưa chịu. Tuy ông cũng thuộc loại Xà tướng (tướng rắn) như ông Đại Trí và hiện tại kém chức ông Đại Trí vì ông thuộc nhóm Tiểu xà, còn ông Đại Trí thuộc nhóm Đại xà; nhưng ông không bị phá tướng như ông Đại Trí: khi ngủ thì hai mắt trợn ngược, răng nghiến ken két. Ông ta nhất định sẽ chết bất đắc kỳ tử, mình chỉ ấn nhẹ ngón tay út vào ông ta cũng nhanh chóng lao xuống vực thẳm. Lúc đó, không phải cái chức Giám đốc công ty mà cả cái chức phó giám đốc Sở, rồi giám đốc Sở cũng vào tay ông! Nghĩ thế, ông ra hiệu cho anh lái xe tăng tốc độ, chiếc Toyota lao đi như mũi tên! 

Ông Thứ đến phòng làm việc của phó giám đốc Đại Trí thì giám đốc công ty Đại Đức đã ngồi ở đó từ bao giờ. Ông Thứ thầm khen cái thằng bé mới ba mươi tuổi này mà đã có phong thái làm quan cứ như là từ trong bụng mẹ! Hắn thuộc loại Hầu tướng (tướng khỉ): trán lõm, đầu tròn, hình dáng như khỉ, thân thể nhẹ tênh mà khỏe, mắt vàng môi mỏng, ngồi trước đàn ông thì như mũi tên muốn cắm vào mặt người ta, còn ngồi trước phụ nữ thì hau háu như mèo thấy mỡ!...Loại này tham lam, háo sắc nhưng lúc hành sự thì lắm mưu nhiều mẹo, không làm quan to cũng giàu nứt đố đổ vách! Tuy nhiên, ông Thứ cũng không ngán cái thằng nhỏ cấp trên này của ông vì với bản năng nghề nghiệp,ônghiểu rằng hắn chẳng phải loại thông minh tài ba gì mà nhờ vào sự sắp đặt, chạy chọt của ông bố nuôi Đại Trí và nhờ vào sự ăn may: tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm bảy, tám tuổi ( được ông Đại Trí nhấn mạnh như một chiến tích có một không hai trong lý lịch cán bộ), rồi được đi học ở nước ngoài từ phổ thông cho đến đại học, rồi nghiên cứu sinh thành phó tiến sĩ. Cái may của ông Thứ là suốt bao nhiêu năm đất nước chiến tranh, thiên hạ kẻ chết người bị thương đếm không xuể thì ông chỉ việc ngồi rung đùi mà duyệt hồ sơ, lý lịch cho họ được đứng vào hàng ngũ quân đội nhân dân (con cái địa chủ, tư sản, phản động dứt khoát ông không ông cho vào đội quân cách mạng ấy, bởi vì vào đến chiến trường chúng sẽ chạy sang hàng ngũ quân địch hoặc làm nội gián!...).Tuy thế, cái may của ông Thứ vẫn còn kém thằng nhỏ Đại Đức này vì ông vẫn còn phải sống buồn tênh với cảnh núi rừng hoang vu, ma thiêng nước độc, muỗi vắt như châu chấu ngày mùacòn nó thì được ăn chơi nhảy múa ở tận nước ngoài! Nghĩ đến đây, ông Thứ lại thấy tức vì đời ông, của ngon vật lạ ông đã nếm đủ nhưng chỉ riêng cái món “đàn bà Tây” là ông chưa biết mặt ngang mũi dọc nó như thế nào! Nghĩ vậy, ông Thứ quyết thề với lòng mình là phải diệt thằng nhãi con này bằng chính cái mà nó mê muội nhất: nữ sắc! Ông đã thấy rõ như ban ngày rằng, trên đời này, từ cổ chí kim, không gian hùng, hảo hán nào thoát được sợi dây thắt cổ kỳ lạ làm bằng mái tóc mỹ nhân !... 

Ông Thứ ngồi vào chiếc sa-lon giả da bóng lộn, mở ca-tap định trình bày kế hoạch của ngày ra mắt công ty thì ông bỗng ngửi thấy mùi nước hoa đặc biệt thoang thoảng đâu đây? Ông liền ngừng lại, ngẩng lên kín đáo quan sát hai bố con ông Đại Trí. Ông Đại Trí như đang đọc được ý nghĩ trong đầu ông Thứ, khẽ phẩy tay rồi nói: 

- Thôi khỏi! Tôi phôn cho ông lên đây là để thưởng cho ông sau những ngày khó nhọc lo cho cái công ty này ra đời. Với cái công ty này, rồi chúng ta sẽ giàu không kém những nhà triệu phú, tỷ phú Hồng Kông, Hoa Kỳ! 

- ?!  

- Tôi biết là ông vẫn ao ước được xài “đồ ngoại”. Rồi ông sẽ được toại nguyện trong những chuyến công cán sang Nhật, Hồng Kông, Xinhgapo sau này nếu ông làm tốt khâu xuất khẩu. Còn bây giờ, ông hãy xài thử đồ nửa ngoại, nửa nội! 

- ?! 

- Đệ tử của tôi ở Sài Gòn kiếm đươc con nhỏ lai Mỹ rất ngon lành, cứ như tài tử điện ảnh! Nó vừa đưa tới sáng nay, tôi chưa biết thế nào! Vả lại, dân làng Dạ Huyết chúng tôi không quen “ngủ ngày” như dân làng Nhật Lam của ông! Vậy xin nhường ông trước, kính lão đắc thọ! 

Nhìn thần sắc hai bố con ông Đại Trí, ông Thứ nghĩ bụng: quân đểu giả! Nhìn mặt chúng mày là ông biết chúng mày đã “làm việc” cật lực rồi! Thôi được, ông cứ ghi “sổ nợ” đó, sẽ tính toán sau! Nghĩ vậy ông Thứ nói: 
- Xin cám ơn Sếp! Rồi bề tôi sẽ có dịp báo đáp!.. 

Ông Thứ muốn nhào vào căn buồng có mùi thơm lạ đang bay ra kia (ông Đại Trí sống độc thân nên Sở bố trí phòng ngủ và phòng làm việc cạnh kề nhau, ăn thông bằng một cái cửa nhỏ), nhưng ông vẫn phải cố kìm nén, thong thả bước vào. Ông Thứ giật mình sung sướng khi thấy một cô gái tóc vàng mắt xanh cực kỳ xinh đẹp và quyến rũ đang nằm mơ màng nhả khói thuốc lên trần nhà. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, ông Thứ mới đứng trước một cô gái con lai hấp dẫn như thế, cho nên ông như mất bình tĩnh, sung sướng phát cuồng, không kịp cởi quần áo, đổ lăn kềnh vào người cô gái, khiến cô gái giật mình, mẩu thuốc lá hút dở rơi xuống ngực đau nhói. Cô gái vừa bật người dậy vừa chửi:”Đù má! Thằng già khùng!”.Ông Thứ như không nghe thấy câu chửi mà ôm chặt lấy đầu cô gái, vừa đè cô gái xuống vừa nói như người mê sảng:”Ôi, tóc vàng, mắt xanh!...Vàng…Xanh!..Vàng vàng ! Xanh xanh!...”.
Đến đây, chắc bạn đọc có thể thấy rằng ông Đại Trí chính là Trí Trá bướu cổ - Trí Trắc Đội trưởng đội cải cách của chương Một; còn Đại Đức chính là Trần Nhân Đức, sau cuộc đấu tố ông Hiền đã được Trí Trắc đem theo và nhận làm con nuôi. Còn ông Thứ là người làng Nhật Lam, tuổi thơ của ông ta không có gì đặc biệt. Lẽ ra cuốn tiểu thuyết sẽ dành nhiều trang để kể về binh nghiệp cũng khá ly kỳ, độc đáo của Trí Trá bướu cổ - Trí Trắc – Đại Trí và quãng đời du học cũng rất hay ho của Trần Nhân Đức – Đại Đức, nhưng như thế “mảng đen” (còn gọi là “cái xấu”, “cái ác”) trong cuốn tiểu thuyết sẽ quá đậm. Vì thế, ai muốn biết kỹ hai nhân vật này, hãy lên mạng bà Còng (Website Bacong.net)… 

Trong lúc người ta đang say sưa túy lúy với cái ngày ra mắt của công ty khai thác rừng thì Trần Duy Nhất, kỹ sư trồng trọt, đang cầm tờ Quyết định của trường Đai học Lâm nghiệp, trên đường đi đến cái Sở Lâm nghiệp mà ông Đại Trí làm phó giám đốc nói trên, để nhận công tác. Lúc này, Duy Nhất đang ngồi trên chuyến tàu tốc hành Hà Nội – Plêiku và tàu đang chạy qua đoạn đường nguy hiểm: qua đèo Hải Vân!... Khi con tàu như một con trăn lớn, trườn ra khỏi những con đường ngầm sâu hun hút, đen ngòm thì cũng là lúc Trần Duy Nhất bừng tỉnh.  

Trần Duy Nhất bừng tỉnh , nhưng cái đói, cái mệt như một bàn tay vô hình, ấn anh xuống cái giường con sát nóc tàu. Anh mơ màng nhớ lại … 

Cuộc đời học trò suốt đêm chui rúc trong các đống sách cao ngất đã trôi qua từ lúc nào không hay. Mãi đến khi cầm tờ quyết định phân công công tác, anh sinh viên chuyên ngành trồng trọt Trần Duy Nhất mới giật mình bừng tỉnh . À, thì ra đã đến lúc mình không thể chui rúc mãi trong các kho sách được nữa ! Đã đến lúc phải nhận công tác ! Mình sẽ làm gì đây ? Vốn là con mọt sách, không biết tí gì về cuộc đời thường ngày, Duy Nhất không khỏi bâng khuâng, hồi hộp khi đến phòng tổ chức nhận điều động công tác. Trước khi đưa quyết định nhận công tác cho Duy Nhất, ông Trưởng phòng tổ chức của trường đã nói với anh : “Tổ bộ môn đề nghị giữ anh ở lại trường để thực hiện một đề tài nghiên cứu lớn. Nhưng các cơ sở lại rất thiếu người, rất cần những người thông minh, giỏi giang như anh. Tỉnh miền núi X đã đến tận trường để xin cán bộ. Khi xem hồ sơ của anh, họ sẽ thích và tha thiết xin anh về . Như vậy, anh về đó công tác sẽ rất có lợi !...”. Duy Nhất không nói gì, trong đầu anh thoáng nghĩ : “Mình đang theo đuổi một đề tài nghiên cứu với giáo sư trưởng bộ môn. Nếu người ta phân mình về tỉnh X, tuy xa xôi, nhưng mình cũng sẽ liên lạc với giáo sư để thực hiện đề tài nghiên cứu. Còn ông bố nuôi của mình, muốn mình ở Hà Nội để bố con gần nhau. Mình sẽ nói thế nào với bố nuôi đây ?”. Ông trưởng phòng tổ chức lặng lẽ hút thuốc và kín đáo theo dõi nét mặt Duy Nhất . Như đọc được ý nghĩ trong đầu Duy Nhất, ông nhẹ nhàng nói : “Tôi biết anh rất sẵn sàng chấp hành lệnh phân công của tổ chức. Nhưng ông bố nuôi của anh đã già rồi, cần có anh bên cạnh trong những năm tháng cuối đời. Chúng tôi rất thông cảm với hoàn cảnh của anh . Mặc dù quyết định phân anh về tỉnh X đã được ký, nhưng nếu anh thấy cần xin ở lại trường , anh làm đơn trình bày hoàn cảnh, chúng tôi sẽ đổi quyết định khác !...”. Ông trưởng phòng tổ chức đưa cho Duy Nhất tờ quyết định về tỉnh X đã ký . Cầm tờ giấy mỏng mảnh mà Duy Nhất thấy lòng xao động kỳ lạ. Tỉnh X là ở đâu ? Mình sẽ sống như thế nào ở nơi xa lạ này ? Mình sẽ phải xa bố nuôi – ông giáo Liêm -, một người suốt đời cô đơn, trong sạch đã giành trọn tình cảm cho mình từ lúc sáu bảy tuổi đến giờ !...Ông Trưởng phòng tổ chức lại nói : “Ông giáo Liêm, bố nuôi anh đã đến gặp chúng tôi, nhưng không thấy hết cái khó khăn, phức tạp khi chúng tôi xét đổi quyết định cho anh. Anh là một người thông minh, chắc anh hiểu chứ ? Đổi quyết định là phức tạp lắm !”. Duy Nhất nói : “Phức tạp là sao ? Chỉ cần kiếm người khác cho tỉnh X là xong !”. Ông trưởng phòng tổ chức mỉm cười, nói nhẹ nhàng từng tiếng một : “Điều đó thì đúng như anh nghĩ . Nhưng việc giữ anh ở lại trường , rất khó khăn. Chỉ tiêu biên chế đã hết. Muốn xin thêm anh ở lại trường , phải lên Bộ xin thêm chỉ tiêu biên chế. Mà đụng đến chuyện này ở Bộ, phức tạp nhiêu khê lắm, cửa quan mà ! Anh có hiểu không ?”. Duy Nhất bỗng lờ mờ nhớ lại lời một cán bộ của phòng tổ chức nói với anh mấy hôm trước : “Cậu phải “chạy” mạnh vào thì mới được ở lại trường ! Còn cái ông thày tổ trưởng bộ môn của cậu là nóng tính lắm, nói với cán bộ tổ chức mà cứ phụt lửa ầm ầm !...”. Cái lời nói thoáng qua ấy Duy Nhất không để tâm, nhưng anh bỗng giật mình khi nghe ông Trưởng phòng tổ chức nói tiếp : “Phải “chạy” mới được ! Nếu anh cần, tôi sẽ nhờ một người quen trên Bộ họ “chạy” cho !”. Duy Nhất chưa hiểu, anh ngơ ngác nói : “Chạy là thế nào ? Tôi nghĩ cứ đủ tiêu chuẩn thì được ở lại trường chứ ? Trường cũng còn thiếu cán bộ cơ mà ?”. Trưởng phòng Tổ chức dụi điếu thuốc vào cái gạt tàn, thở ra một cái rồi nghiêm mặt nói : “Anh đúng là thông minh ở đâu ấy, đúng là con mọt sách ! Tôi nói để anh hiểu nhé : “chạy” không có nghĩa đen như trong từ điển là một động từ biểu thị hành động của con người khi dùng hai chân lướt nhanh trên mặt đất ! Mà “chạy” ở đây có nghĩa là “chạy vạy”, “chạy chọt”, v.v…Muốn “chạy” tới đích phải có “dầu nhớt” !...Mà “dầu nhớt” ở đây không phải là dầu thực nhưng nó có tác dụng tương tự : giải quyết được sự trục trặc ở các khâu trong guồng máy tổ chức rất lớn và chặt chẽ ! Anh đã hiểu chưa ?”. Duy Nhất thấy câu chuyện trở nên rối rắm, mù mờ. Khi giải những bài toán về ma trận, về chuỗi số, “xích ma” phức tạp , Duy Nhất cũng không thấy rối trí như khi nghe những lời ông Trưởng phòng tổ chức nói . Như đọc được ý nghĩ của anh, ông Trưởng phòng tổ chức lại mỉm cười nói tiếp : “Đúng là anh đứng trước bài toán cuộc đời chứ không phải trong toán học. Thôi, tôi nói thẳng nhé ! Các cụ đã dạy : nói gần nói xa chẳng qua nói thật ! Bài toán cuộc đời này tôi sẽ giải giúp anh, anh chỉ cần trả thù lao cho tôi ! Chỗ thân tình tôi nói thật : như người ta, chạy việc này phải tốn hơn chục cây ! Nhưng với anh , còn sống với nhau nhiều, tôi giúp không anh : chỉ cần năm cây đưa cho người ta !...”. Duy Nhất giật mình bàng hoàng khi nghe những lời ấy. Sao ông ta lại trắng trợn đòi hối lộ mình như vậy ? Ông ta không sợ mình tố cáo ông ta tội đòi ăn hối lộ hay sao? Lại như đọc được ý nghĩ của anh, ông trưởng phòng nói tiếp : “Hôm nay tôi tiết lộ với anh điều này nhé: ông bố nuôi anh đã khai man lý lịch của anh! Anh đâu phải là trẻ vô thừa nhận? Anh chính là con của địa chủ lớn Trần Đức Hiền và bà Lê Thị Lương ở làng Dạ Huyết! Khi xác minh được điều đó, chúng tôi đã định đuổi học anh. Nhưng tôi vốn không phải là người thô bạo. Anh đang học giỏi như thế, phải tìm cách giúp anh đạt ước nguyện rồi tính sau. Nay anh đã có bằng cấp, đã khôn lớn, thì đó là lúc cần nói thật với anh!”. Duy Nhất đã hiểu con bài mà ông ta thò ra: ông ta đang dồn đẩy anh tới miệng vực và sẽ kéo anh trở lại nếu như… Nhìn ông Trưởng phòng Tổ chức, mắt Duy Nhất như nhòe mờ, như có đám mây đen bao phủ, và rồi, bộ mặt ông ta ẩn hiện trong đám mây ấy như thể nhìn qua tấm gương dị dạng! Lần đầu tiên trong đời, Duy Nhất mới hiểu thế nào là sự đê tiện! Toàn thân anh run lên và như có một động lực vô hình thúc đẩy, Duy Nhất đứng bật dậy, hất tung cả cái bàn vào mặt ông Trưởng phòng Tổ chức!... 

Sau vụ đó, Duy Nhất bị kỷ luật nặng: treo bằng tốt nghiệp và lao động cải tạo tại trường ba năm! Thế là Duy Nhất âm thầm làm lao công tạp vụ, đủ thứ công việc tạp-pí-lù suốt ba năm trời!...Hết hạn, anh được điều về Sở Lâm nghiệp một tỉnh miền núi phía Nam . Ông giáo Liêm – người bố nuôi cô đơn – đã chết vì quá lo buồn! Duy Nhất lòng nặng trĩu, nhận tờ quyết định điều động mà anh không thể phân tích tâm trạng mình lúc đó ra sao? Đi ngay, mau thoát khỏi cuộc sống buồn tẻ này! Duy Nhất chỉ kịp suy nghĩ vậy và khăn gói lên đường !... 

Lúc xếp hàng từ cửa nhà ga ra sân ga, Duy Nhất như bị cuốn vào biển người hỗn loạn. Lên đươc tàu, tìm được ghế ngồi thì anh thấy mệt mỏi rã rời và khi sờ vào túi áo để lấy tiền uống nước, anh giật mình vì trong túi đã không còn gì! Thì ra bọn móc túi ở ga đã lấy sạch tiền bạc và mọi giấy tờ của anh từ bao giờ!... 
* * *  
Tàu đang dừng ở sân ga Đà Nẵng. Tiếng ồn ào nhốn nháo của cái ga lớn miền Trung này đã làm Duy Nhất bừng tỉnh. Anh tìm cái ba-lô quần áo thì nó cũng không cánh mà bay! Chỉ còn cái túi du lịch đựng hơn chục cuốn sách miệng mở toang hoác! Chắc là kẻ trộm đã lục lọi trong đó nhưng không kiếm được cái gì ưng ý nên đã bỏ lại! Duy Nhất mệt mỏi, bần thần ngồi ôm cái túi sách trong lòng. Đầu óc anh như mây bay lãng đãng… 

Một tốp công an Đường sắt và kiểm soát viên trên tàu đã dừng lại trước Duy Nhất. Một nhân viên kiểm soát vỗ vai anh, nói :  

- Cho kiểm tra vé ! 

Duy Nhất giật mình, lúng túng trình bày hoàn cảnh của mình nhưng một công an nói :  

- Anh nói vậy sao mà tin được ? Mời anh xuống ga để làm rõ sự việc ! Ai không có vé, không có giấy tờ đều phải xuống ga !... 

Không để cho kịp phân bua trình bày gì thêm, hai người công an đã xốc nách anh lôi xuống tàu. Tiếng một hành khách nói : “Thời buổi này không biết ai là người bị mất cắp còn ai là kẻ cắp ! Nhưng theo tôi thì thà bắt nhầm còn hơn là bỏ sót !”. Lúc đó, có hai cô gái trẻ, khoảng ngoài hai mươi tuổi, nằm đối diện với giường của Duy Nhất lo lắng nói chuyện với nhau. Một cô nói :  

- Cái anh này xếp hàng mua vé liên vận về tỉnh X cùng với chúng mình hôm ấy. Lan có nhớ không ?  

Cô gái tên Lan nói :  

- Đúng đấy Cúc ạ ! Mình nhớ vì bộ mặt rất buồn của anh chàng, cứ như là một nhân vật tiểu thuyết nào đó mình đã đọc ! 
Cô gái tên Cúc nói :  

- Mình cũng không thể quên được khuôn mặt đượm buồn nhưng đôi mắt rất thông minh của anh ấy. Vậy thì đúng là anh ấy bị mất cắp rồi ! Làm sao bây giờ ? Phải giúp anh ấy chứ ! Biết đâu anh ấy cũng về tỉnh X nhận công tác như chúng mình ! 

Lan nói :  

- Mình cũng nghĩ vậy ! Nhưng làm thế nào bây giờ ?  

Cúc, cô gái khỏe mạnh, xin xắn, tươi trẻ với mái tóc xõa ngang vai khẽ nhíu mày, cắn môi vẻ suy nghĩ rất lung rồi nói dằn từng tiếng :  

- Thế này nhé : Lan cứ đến Sở giáo dục trình diện trước đi, nói là mình sẽ đến sau ! Dồn tiền sang đây cho mình ! Mình sẽ xuống ga bảo lãnh cho anh ấy ! Nhất định phải được !... 

Cúc nhanh chóng thu gọn hành lý của mình, giao cho Lan giữ rồi chạy xuống sân ga. Bóng Cúc thoáng cái đã lẫn vào đám đông ồn ào của sân ga !... 

Hai cô gái có tên Lan và Cúc ấy là ai vậy mà lại có lòng hào hiệp như vậy ? Đó là Lê Thu Lan và Phan Thị Thủy Cúc. Thu Lan và Thủy Cúc cùng tốt nghiệp Khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cùng vào Tây Nguyên nhận công tác trên chuyến tàu Liên vận Hà Nội – Tây Nguyên này. Nhưng hai cô gái, hai cảnh ngộ khác nhau, có thể nói là trái ngược nhau. Phan Thị Thủy Cúc là con một cán bộ cao cấp. Nếu cứ theo tình hình Hà Nội lúc đó thì Cúc chẳng cần phải lo lắng chi hết và số phận đã dành sẵn cho cô một con đường thênh thang đầy hoa thơm trái ngọt, nếu cô muốn . Ngay cả chuyện học hành , cô có thể không cần thi cũng đỗ, muốn có bằng tiến sĩ cũng dễ như kiếm một cái vé xem tuồng chèo ! Ra trường, muốn làm việc ở đâu tùy thích và vào cơ quan nào cũng vậy, muốn làm gì thì làm, muốn chơi thì chơi ! Nhưng , Cúc không muốn đi trên con đường trải sẵn nhung lụa đó. Cô muốn tự mình đi tìm một cuộc sống bình dị và có ý nghĩa. Cô đã không ở Hà Nội như bao con ông cháu cha khác mà xung phong đi Tây Nguyên với ý nghĩ : tránh xa quyền lực của người bố có thể làm lu mờ giá trị thực của người con ! Mặt khác, cô cũng muốn đi đến một chân trời xa, một vùng đất mới, như bao đứa bạn tuổi trẻ lãng mạn của cô thường vẫn suy nghĩ, ở đó sẽ có nhiều điều mới lạ, thú vị !...Còn Thu Lan là một cô gái thôn nghèo . Cả làng cô chỉ có hai ba người vào đại học. Vì thế cô là niềm tự hào của cả dòng họ. Vì thế cô phải ở Hà Nội bằng mọi giá để người làng cô còn có thể tự hào mà nói với người làng bên rằng : “Cô giáo Thu Lan đang dạy học ở thủ đô là người làng tôi đấy !”. Vì thế, cuộc “chạy” cho Thu Lan ở lại Hà Nội đã được các bậc cao mưu nhất của làng lo liệu ngay từ năm cô học năm thứ nhất. Song, tất cả các mẹo mực, kế sách của các quân sư quạt mo làng cô đều thất bại vì Thu Lan chưa đủ xinh đẹp khả dĩ khiến cho một vị lang quân nào đó liều chết chạy cho cô được ở Hà Nội, vì mẹo thì hay nhưng làng cô nghèo quá, có mấy nơi người ta chỉ đòi cái giá “hữu nghị” là một cái xe Diamant nguyên hộp mà cũng không có đủ (Bố cô đã đi vận động quyên góp cả làng mới được bảy phần cái xe Diamant. Đến khi dốc hết gia tài, cả chổi cùn rế rách bán gom được đủ tiền thì người ta trả lời đã có người khách nhảy vào chỗ ấy mất rồi !). Thất bại không thôi đã nhục, đằng này đến phút chót,Thu Lan lại gặp phải thằng đểu, nó lừa cô, vừa cuỗm cái Diamant, vừa cuỗm đi cả đời con gái của cô ! Thu Lan uất quá định uống thuốc tím tự tử ! May mà Cúc kịp biết được, cứu Thu Lan, gửi về cho bố cô hai cái Diamant và rủ cô đi Tây Nguyên !...  

Chương 3

Trong khi Trần Nhân Đức đang say sưa bí tỉ với cái ngày ra mắt của Công ty khai thác rừng , trong khi Trần Duy Nhất đang bị giam cùng với bọn lưu manh trộm cướp ở ga Đà Nẵng , thì ở Sài Gòn, trong một biệt thự vắng vẻ trên đường Trương Minh Giảng , Trần Thị Hiền Lương đang lâm vào một tình thế không kém phần hiểm nghèo ! 

Ông bố nuôi của Hiền Lương – một chủ thầu gỗ cỡ lớn – đã di tản, để lại cho cô một cái biệt thự rộng mênh mông, trống vắng. Suốt một tuần nay, ngày ngày Hiền Lương phải đến trụ sở Phường để học tập và tham gia lao động công ích, đại loại là lao động dọn dẹp đường phố và các trụ sở của phường , quận. Đã mấy lần, Hiền Lương nghe mấy cô văn thư của Ủy ban Phường nói : “Chị hên lắm đó nghe ! Được ông chủ tịch phường bảo lãnh đó, chớ không đã đi cải tạo tập trung rồi ! Ông chủ tịch nói với tụi em là : Chị tuy là ca sĩ phòng trà thời Mỹ ngụy, lại là vợ sĩ quan cảnh sát ngụy, nhưng bản chất chị là hiền lành, thực thà, lại đang có con nhỏ mới bốn năm tuổi, nên được miễn tập trung cải tạo ! Ông chủ tịch phường còn nói : nếu chị cải tạo tư tưởng tốt, ông sẽ bố trí chị vào làm công tác tuyên truyền văn nghệ ở Ban thông tin phường ! Hên quá còn gì !”. Một cô khác lại nói : “Nhà của chị thuộc diện tư sản, đáng lẽ bị tịch thu rồi ! Nhưng ông chủ tịch phường bảo lãnh đó. Ông nói : chị sẽ được tuyển vào đội văn nghệ xung kích của Ban thông tin Phường , rồi chị sẽ trở thành ca sĩ cách mạng, lúc đó Ủy ban phường sẽ chính thức xác nhận quyền sở hữu ngôi nhà ấy cho chị ! Còn bây giờ ấy à, ông chủ tịch nói cho chị mượn đó!”..Nghe những lời nói ấy cùng với những cái nhìn, nụ cười bóng gió, Hiền Lương thấy rùng mình khi nhớ lại mỗi khi nhìn thấy cô, dù mắc bận công việc tới đâu, ông chủ tịch phường cũng hỏi thăm cô rất ân cần, có phần âu yếm và ông không giấu nổi ánh mắt thèm muốn mỗi khi nhìn theo cô !... Và rồi, nỗi lo sợ ám ảnh ấy đã thành sự thật, khi sáng nay, gặp Hiền Lương đang rửa tách ly ở văn phòng ủy ban, ông chủ tịch đã nói : “Cô Hiền Lương ! Từ nay cô không phải làm lao công tạp vụ nữa ! Tôi đã quyết định lấy cô vào Ban thông tin Phường . Cô về nghỉ ngơi và viết lại bản lý lịch và tự kiểm điểm đi ! Tối nay, tôi sẽ đến làm việc cụ thể với cô !...” . Hiền Lương như thấy ù tai khi bắt gặp ánh mắt khác thường của ông chủ tịch. Cô luống cuống thu dọn tách ly rồi phóng một mạch về nhà, đóng sập cửa nằm vật xuống giường, tim đập muốn vỡ lồng ngực !...Những giấc mơ lộn xộn thi nhau hiện về, đi lướt qua đầu cô như những cuốn phim không đầu không cuối…Con sông quê hương ban ngày nước trong xanh, ban đêm nước đỏ như máu, tuổi thơ của cô như đang bồnh bềnh trên dòng nước, cô cố bơi nhưng chân tay như bị chuột rút, cứng đờ !...Bến đò làng Dạ Huyết, cuộc đấu tố ồn ào, tiếng hô “Đả đảo” inh tai, thằng anh sinh đôi với cô thắt “xanh-tuya” bằng dây chuối, đeo súng ngắn bằng gỗ, cầm gậy gõ vào đầu ông Hiền với những tiếng nói chói tai !...Bố cô (ông Hiền) ho vọt máu lên trời rồi chết trên tay những người dân…Nhốn nháo, nhộn nhạo, Hiền Lương cố vùng chạy thoát khỏi đám người nhốn nháo đó, nhưng chân cô khụy xuống, ngã xấp mặt xuống bãi cát, bãi cát thấm đỏ máu bố cô !...Rồi có một ông tiên râu tóc bạc phơ, dắt cô đi giữa những đám mây trắng xốp, cô nhìn thấy có rất nhiều em nhỏ như cô đang líu ríu dắt nhau đi học, áo dài trắng bay phất phơ như mây trắng !...Có con chim họa mi đêm đêm đậu trên cửa sổ hót cho Hiền Lương nghe những bản nhạc êm ái, nhưng sao mà buồn vậy ?...Ồ ! Con chim họa mi lại biết hát tiếng người : “Nếu vắng anh, ai dìu em đi chơi sông chiều lạnh vắng ? Nếu vắng anh …”…Rồi con chim họa mi ấy bị nhốt trong lồng, con chim họa mi ấy trở thành ca sĩ phòng trà…Đêm đêm, có một chàng trai phúc hậu, trong sắc phục sáng trắng, âm thầm say sưa ngồi nghe chim họa mi hát những bài hát buồn, chỉ thấy chia ly và đẫm lệ. Thỉnh thoảng chàng sĩ quan thở dài rồi lặng lẽ ra về…Một lần, chàng sĩ quan đã theo xe của chim họa mi, chỉ nhìn từ xa mà không nói, nhưng ánh mắt chàng như những lời hát buồn ! Một bọn cướp chặn xe của họa mi, chúng xuất hiện như những con diều hâu, cánh đen xì, móng vuốt nhọn hoắt ! Những con diều hâu cắp họa mi chực bay đi thì một chim đại bàng xuất hiện, mắt đại bàng rực sáng, đôi cánh căng gió! Đại bàng lao vào đánh tan xác lũ diều hâu!...Cô gái như đang ngủ trên dòng sông xanh êm trôi, không một tiếng động. Cô gái đang ngủ yên thì có một bàn tay đầy lông lá vồ lấy bộ ngực trinh trắng của cô gái, giật xé đi những mảnh áo trắng trong! Bộ mặt của con quỷ cũng đầy lông xuất hiện, nó sà xuống bầu vú căng tròn của cô gái! Đúng lúc đó, một chàng dũng sĩ cầm cây rìu thần xuất hiện, chàng vung rìu lên, cái đầu con quỷ đầy lông lá vỡ tan như tro bụi, bị gió cuốn phăng đi!... Chàng dũng sĩ lại xuất hiện với bộ sắc phục cảnh sát trắng tinh, một tay cầm dùi cui hươi hươi trên đầu, một tay cầm mìn tự động nhét vào gầm xe Jeep của bọn sĩ quan Mỹ. Chiếc xe Jeep phóng vút đi, xé rách mặt đường, nhưng được một quãng, chiếc xe nổ tung!...
Hiền Lương giật mình tỉnh dậy, cô thở dốc, mồ hôi đầm đìa. Cô vừa định thần trở lại và nhận ra có tiếng đập cửa rầm rầm, và có tiếng la của thằng Lượng:”Má! Mở cửa! Má!...”. Hiền Lương vội vùng dậy, chạy ra mở cửa. Thằng bé năm tuổi ào vào, ôm chầm lấy mẹ nó, hai bàn tay bé nhỏ của nó sờ lên mặt, lên tóc mẹ nó rồi vừa khóc mếu máo vừa nói: 
- Má! Ai làm gì má mà sao má la hét dữ vậy? 
Hiền Lương vội ôm lấy con, bế nó vào, nói: 
- Đâu có! Má đang ngủ đấy chứ, có la hét gì đâu? 
- Đúng rồi! Con đang chơi với dì Tư, thấy tiếng má la hét rất lớn. Con vội chạy lên đây…Má làm sao thế? 
- À, vậy thì má ngủ mê nói sảng đó. Không sao đâu con! 
- Con chỉ sợ có ai làm gì má, con phải đến cứu má chứ! 
- Ôi, con của má giỏi quá! Vậy con sẽ làm gì để cứu má nào?  
- Con sẽ lấy con dao chặt thịt của Dì Tư chặt bể đầu nó ! 
- Ôi ! Sao con lại nghĩ thế ? Nó là ai ?  
- Nói là con quỷ có râu ấy. Mấy đêm rồi, con đều nằm mơ thấy có một con quỷ có râu đến định ăn thịt má !... 
Hai mẹ con đang líu ríu nói chuyện với nhau thì Dì Tư, người giúp việc nội trợ trong nhà Hiền Lương từ ngày mới sinh thằng Lượng, bước vào nói nhỏ :  
- Cô Hai, có khách đến ! Hình như là ông chủ tịch Phường ?  
- Dì mời ổng vô phòng khách và nói đợi tôi chút xíu ! – Hiền Lương đặt con xuống đất và nói – Con đi chơi với Dì Tư để má tiếp khách nghe con ! 
Thằng Lượng bước ra, cầm tay dì Tư rồi còn quay lại, nói :  
- Khi nào thấy thằng quỷ có râu má kêu con nghe !... 
  Cuộc nói chuyện của ông chủ tịch phường với Hiền Lương đã đi qua cái phần xã giao vòng vo Tam quốc. Đã đến lúc ông chủ tịch thấy rằng phải nói toạc móng heo những gì cần nói với người thiếu phụ mà ông say đắm nhưng thấy kín như bưng này.  
- Cô Hiền Lương à ! Tôi muốn nói chuyện nghiêm chỉnh với cô ! 
- ! ?  
- Tính tôi là nghĩ sao nói vậy ! Tôi rất thông cảm với hoàn cảnh của cô ! Cô là người có nhan sắc, có tài mà phải lâm vào những cảnh ngộ éo le !... 
- Tôi xin cám ơn ông chủ tịch ! Tôi chịu đựng được ! 
- Ấy ! Cô đừng gọi tôi là ông chủ tịch ! Lúc làm việc ở ủy ban mới gọi như vậy. Tôi còn trẻ, chưa tới bốn mươi tuổi. Cô cứ gọi tôi là anh Ba Cứ . Đó là cách gọi thân mật vì tôi vốn hoạt động lâu năm trong căn cứ mà ! Cô cho tôi xưng anh nhé !... 
- …  
- Hiền Lương à ! Em có biết không, người ta định bắt em đi cải tạo tập trung đó ! Người ta lại định tịch thu ngôi nhà này của em nữa ?  
- Thưa ông chủ tịch, vì sao vậy ?  
- Ấy, tôi đã nói đừng gọi tôi là ông chủ tịch mà ! Em biết người ta nói sao không ? Ngoài chuyện ông bố nuôi của em là tư sản ra, ngoài chuyện chồng cũ em là sĩ quan cảnh sát ngụy quyền ra, người ta đã điều tra ra em còn là chỉ điểm trong thời gian em hát trong các câu lạc bộ quân đội ngụy đó ! Nhưng anh đã bảo vệ em vì nghĩ không bao giờ em lại đi làm cái việc tay sai hèn hạ đó ! 
- Thưa ông chủ tịch ! Thế là người ta nhầm tôi với ai rồi đó. Tôi biết gì mà chỉ điểm ? Chẳng những thế , khi biết chồng tôi là cơ sở bí mật của đội biệt động , tôi còn giúp anh ấy nhiều việc lắm ! Chẳng hạn như liên lạc, chuyển vũ khí … 
- Tôi cũng đã đọc những điều cô khai như vậy trong hồ sơ lý lịch . Nhưng tôi đã cho người đi thẩm tra, những đồng chí hoạt động nội thành cũ đều không biết chồng cô hoạt động cho nhóm nào cả ! Làm sao mà cô chứng minh được điều đó ?  
- Ôi !...Anh Hùng Bắc kỳ, chị Tâm Chợ Lớn, chú Năm xích lô…Mọi người đều hy sinh cả ! Chẳng lẽ chồng tôi hoạt động với những người ấy, không ai biết nữa sao ? Còn chồng tôi ! Ơi anh Cát ơi, sao anh không sống lại mà minh oan cho vợ anh ? Vợ anh bị người ta vu cho là chỉ điểm đây này !... 
Hiền Lương nói đến đó thì khóc nấc lên, thổn thức. Chủ tịch phường Ba Cứ lúng túng không biết làm sao, đành đi lại hút thuốc chờ cho Hiền Lương dịu cơn khóc mới nói : 
- Thôi được ! Đó là anh nói người ta nghi cho em như thế ! Còn anh, anh tin những điều em nói. Anh sẽ tìm cách chứng minh với họ và đem sinh mạng chính trị của anh ra bảo lãnh cho em ! 
- Cám ơn ông ! Tôi sẽ đền ơn ông !...- Hiền Lương nghe nói vậy thì đã vơi đi nỗi uất ức khổ đau – Ông muốn gì, tôi sẽ trả ơn ông xứng đáng ! 
- Ấy chớ ! Em chớ có nói ơn huệ gì ! Anh làm việc này vì quí em, thương em mà thôi !...Em có biết rằng từ lâu anh đã đem lòng thương em mà không dám bộc lộ với em không ?  
- Cám ơn ông ! Em xin ông !...Em còn nặng duyên nợ với chồng em lắm ! Em đã thề sẽ ở vậy nuôi con anh ấy khôn lớn !... 
- Hiền Lương à ! Em nghĩ vậy là không thương người đã khuất đâu ! Thằng nhỏ Lượng nó cần có bố ! Em còn trẻ, chẳng lẽ em lại chôn vùi đời người con gái trong cô đơn như vậy ? Hơn nữa, anh nói thật lòng nhé : chỉ có cưới em, anh mới có thể bảo vệ em được ! Còn nếu không thì … người ta sẽ bắt em đi cải tạo ! 

Hiền Lương bỗng thấy rùng mình, ớn lạnh ! Trong đầu cô như có tiếng thác đổ ầm ào !...Cô nhắm mắt lại, ôm mặt, thác Cam Ly Đà Lạt như đang hiện ra…Những ngày ái ân thần tiên của tuần trăng mật như hiện về…Tiếng thác đổ như muốn át đi những lời tâm tình nồng cháy của đôi vợ chồng trẻ : anh sĩ quan cảnh sát Nguyễn Gia Cát và cô ca sĩ Hiền Lương … “Anh Cát ! Thác nước đẹp quá ! Ước gì em được hóa thành thác nước !”; “Nếu em là thác nước, anh sẽ hóa thành đá tảng cho thác em dội vào !”; “Ôi ! Nếu vậy anh sẽ vỡ tan thành muôn mảnh còn gì ! Thôi, em chẳng hóa thành thác nước nữa ! Em sẽ là…là gì bây giờ ?”; “Là vợ anh chứ còn là gì ? À này, em thích đặt tên con là gì ?” Tùy anh ! Nhưng tên con chúng mình phải từ tên em và anh cộng lại ! Tên con trai phải sáng như sao trên trời , tên con gái vang lên lòng nhân ái ! Anh có nghĩ ra không ?”; “Thế này nhé : Cái tên ấy có thể đặt cho cả con trai và con gái mà vẫn đúng với yêu cầu của em, “Lờ…ương…Lương…nặng…Lượng ! Có được không em !”; “Ôi ! Anh của em thông minh quá ! Sao anh nói trúng cả ý nghĩ của em ! Ôi ! Em ước nó thông minh tài trí như Gia Cát Lượng và nhân từ, độ lượng như…”; “Như em được không ?”… Thế rồi hai thân thể, hai con tim như hút cuộn vào nhau, như bay lên cùng với tiếng vọng của thác đổ…Hiền Lương bừng tỉnh, giật mình kinh hoàng khi thấy mình đã bị ông chủ tịch phường đè xuống cái ghế sa-lon từ bao giờ, ông ta đang rúc mặt vào cổ, vào ngực cô và đang vội vã kéo quần cô xuống! Cô bỗng thét lên và muốn vùng dậy nhưng thân hình béo mập của ông chủ tịch Phường đang cố đè chặt cô xuống!... 
Cả Hiền Lương và ông chủ tịch Phường đều không biết rằng, vừa nghe thấy tiếng kêu thất thanh của mẹ, thằng Lượng đã cầm con dao chặt thịt của Dì Tư chạy như bay lên phòng khách. Vừa vào phòng, nhìn thấy ông chủ tịch phường đang đè mẹ nó, thằng Lượng hét lên rồi chạy tới, hai tay cầm cán dao, bổ xuống đầu ông chủ tịch phường!... 
Bến xe Xa Cảng Miền Tây ồn ào, rối loạn như ong vỡ tổ. Tuy thế, tiếng hát của người mù hát rong vẫn vang lên như muốn át đi những âm thanh hỗn độn kia:”Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi…”. Thằng Lượng, một tay nắm chặt tay Dì Tư, một tay túm gấu áo mẹ nó, chạy lon ton trong đám người nhốn nháo ấy. Nghe thấy tiếng hát, thằng Lượng hỏi dì Tư: 
- Dì Tư ơi, tại sao người ta lại hát về hạt bụi? Hạt bụi nhỏ li ti ấy phải không? 
- Rồi lớn lên con sẽ hiểu hạt bụi là gì! …Con cũng là một hạt bụi, dì Tư cũng là một hạt bụi. Mỗi người là một hạt bụi! Chúng ta sinh ra từ cát bụi! 
- Ứ, không phải! Hạt bụi nó đang bay lung tung kia kìa. Đó, nó đã chui vào mắt con rồi nè!... 
Thằng Lượng đứng lại dụi mắt. Nó bị một người đụng phải suýt té nhào nếu dì Tư không nhanh tay kéo nó lại và bế xốc lên. Hiền Lương lầm lì không nói, cô cắm đầu bước gấp về phía góc bến xe có tấm biển đề chữ “Nơi đậu xe đi Tây Nguyên”. 
Khi chiếc xe ca đã chạy khuất khỏi cổng bến xe, dì Tư giật mình kinh hãi với cái cảm giác như đang đứng giữa một khu rừng hoang vắng!...Trước mặt dì Tư, một đám mây đen bỗng vun vút bay tới! Vừa bay, đám mây vừa vặn vẹo rồi biến thành hình người, có cái mặt giống như ông chủ tịch phường. Đám mây ông chủ tịch phường mồm phụt ra khói đen xì vào mặt dì Tư! Tuy vậy, dì Tư vẫn nhìn thấy đám mây ông chủ tịch phường ấy rẽ ngoặt về phía chiếc xe ca chở hai mẹ con Hiền Lương. Thằng Lượng nhìn thấy đám mây, nó dơ dao chém, nhưng đám mây cuốn lưỡi dao biến mất! Hiền Lương nhìn thấy đám mây thì rú lên kinh hãi, bế thốc thằng Lượng rồi vùng chạy, chạy mãi…bỗng cả hai mẹ con hóa thành hai hạt bụi bay vút lên một vì sao nhấp nháy. Tức thì vì sao nổ tung!... 
Dì Tư giật mình bừng tỉnh khi bị một chiếc xe thồ xô ngã nhào xuống mặt đường. Dì Tư chưa kịp đúng lên, một chiếc xe tải lao vút tới và phanh két cháy mặt đường, chỉ cách dì Tư một mét. Người lái xe thò cái đầu trọc lốc ra khỏi ca-bin, chửi thề:”Đù má ! Bà già khùng muốn chết hả?”. Dì Tư thấy đau nhói trong ngực, rồi gục xuống mặt đường. Mọi người xúm lại. Một bác xích-lô vực dì Tư lên xe, tính chở tới bênh viện. Nhưng đi được một đoạn, dì Tư nói: 
- Chở tôi đến đồn công an! 
- Sao, bà khùng thật đấy hả?  
- Chở tôi đến đồn công an! – Dì Tư la lên – Tôi là kẻ giết người! Tôi đã chém chết ông chủ tịch phường!... 
Bác xích lô nghĩ rằng dì Tư bị ngã xuống đường, đau quá nên bị mê sảng. Vì thế, bác cắm cổ đạp tới bệnh viện… 

Hai ngày sau, trên các báo đã đăng lệnh truy nã tội phạm Thị Hiền Lương. Hai ngày sau nữa, có một số người biết mặt dì Tư thì thấy dì đang lang thang trên đường, luôn mồm nói:”Tôi là kẻ giết người! Tôi còn giết nữa! Tôi sẽ giết cái đám mây đen mặt người!...”. Thi thoảng, người ta lại thấy dì Tư hát:”Hạt bụi bé tí be ti –Bụi ơi bụi hỡi bụi đi đường nào – Bụi bay lên tít vì sao – Bụi ơi bụi hãy bay vào tay tôi…”. 
Dì Tư đã trở thành người điên. Dì đi lang thang khắp thành phố, vừa đi vừa hát những câu không đầu không cuối. Không ai biết dì Tư là ai, ăn ở đâu, ngủ ở đâu và hầu như không ai bận tâm đến những người điên bụi đời như thế. Nhưng có một người biết dì Tư rất rõ, biết từ cái thời dì Tư còn là một cô gái xinh đẹp nhất làng, nười ấy là ông Tám Cụt, đạp xích lô dạo. 
Dì Tư quê ở Lái Thiêu, cái vùng nổi tiếng với những vườn cây măng cụt thật là ngoạn mục. Khi Dì Tư đến tuổi yêu đương, anh thợ làm vườn Tám Phú Quốc đã lọt vào mắt xanh của cô Tư. Mối tình của họ thật đẹp, tưởng như không có gì có thể ngăn cản nổi. Bởi vì cô Tư rất mê ca vọng cổ mà anh Tám ca bài Dạ cổ hoài lang thì mùi mẫm không ai bằng . Những đêm thanh tĩnh, cả khu vườn như lặng đi, cô Tư cũng lặng đi khi nghe anh Tám ca :  

Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
Biết bao thuở đó đây xum vầy
Duyên sắt cầm tình thương
Thiếp khấn nguyện cho chàng
Đặng chữ bình an

Sớm trở lại gia đàng
Cho én nhạn hợp đôi mới vui
 


Rồi đến khi anh Tám đã thiêm thiếp ngủ, anh lại nghe văng vẳng tiếng cô Tư hát như gần như xa : “Đêm thiếp nằm luống những sầu tây !...”. Và mặc dù đã mơ màng , mồm anh Tám vẫn lẩm nhẩm hát nhịp : “Tồn xê cống xê là hò -…là xự cống xê xang hò – Xê líu xừ xang hò xừ xang …” Nhưng, cuộc tình sao mà lắm trái oan ! Khi đám cưới chuẩn bị tiến hành thì có một ông thầy tướng nói với anh Tám :  
- Anh Tám này ! Anh với cô Tư thật là trai tài gái sắc ! Nhưng, tôi nói cho anh biết, cô ta có tướng “sát phu”, anh mà cưới cô ta, anh sẽ bị chết bất đắc kỳ tử ! 
Anh Tám nghe mà rợn tóc gáy ! Anh vốn mê tín và cuộc đời bôn ba lưu lạc gian truân càng làm cho anh tin vào tướng số ! Anh đã nghe người ta kể về những người lấy phải vợ có tướng “sát phu” đã bị chết bất đắc kỳ tử thật làm thảm thương !... Lão thầy tướng lại lải nhải :  
- Anh có tướng nhờ vợ, vậy phải lấy người nào có tướng “vượng phu ích tử” mới mong yên ấm. Để rồi tôi sẽ làm mai cho anh một người như ý. Còn cô Tư, vợ đẹp là vợ người ta, anh đừng có ham mà chết không kịp hối !... 
Nghe thầy tướng nói vậy, anh Tám buồn nẫu ruột. Nhưng đến khi gặp lại cô Tư, anh Tám lại nghĩ : mình mà không lấy được cô Tư, chắc không thể sống nổi !...Và thế là anh quyết xin cưới bằng được, có vì cô Tư mà chết thì cũng thỏa nguyện ! Nhưng , đúng lúc anh đang lo sắm lễ cưới thì bị bắt lính gấp, không được chậm trễ một ngày ! Anh Tám đành nuốt hận mà ra đi ! Cô Tư cũng khóc hết nước mắt mà thề chung tình đợi ngày anh trở về !...Đêm đêm, cô Tư cất tiếng hát não nề những câu ca mà cô đã học được ở anh, mong anh ở nơi xa nào đó nghe được mà hiểu thấu nỗi lòng cô :  

“Từ là từ phu tướng
Kiếm báu sắc phong lên đàng
Vào ra luống trông tin chàng
Đêm năm canh mơ màng
Em luống trông tin chàng
Gan vàng quặn đau…”
 


Nhưng anh Tám nào có nghe được những lời ca nhớ thương đó. Anh bị điều lên tận Tây Nguyên xa lắc làm cho cô Tư ở nhà mất bặt tin anh !...Gia đình cô Tư ép cô lấy chồng , một nhà gia thế. Cô không chịu, bỏ trốn lên Sài Gòn đi tìm anh Tám vì cô nghe nói anh đã bị thương và đang sống lang thang vất vưởng .Nhưng , cô Tư tìm hoài mà chẳng thấy người tình của mình đâu. Tuyệt vọng , cô đã nhảy xuống sông Sài Gòn tự vẫn. Song số phận chưa cho cô chết, cô đã được bố nuôi của Hiền Lương cứu sống và cô ở đợ luôn cho ông… 
Ngay từ phút đầu tiên nhìn thấy người đàn bà điên đang lang thang trên đường, ông xích lô Tám cụt (là anh Tám Phú Quốc giỏi ca vọng cổ năm xưa) đã nhận ra ngay đó là cô Tư Lái Thiêu chứ không phải ai khác ! Ông Tám đã âm thầm “hộ tống” người tình xưa của mình mà đau khổ bất lực ! Có lúc ông đã tính chuyện đi học nghề thuốc để chữa trị cho bà nhưng gặp ông thầy nào, ai cũng nói là không thể chữa khỏi.  
Đêm hôm ấy, sau khi đã lang thang suốt ngày, bà Tư điên đã mỏi mệt thiếp ngủ. Ông Tám cụt, theo lệ thường, lại chở bà về nằm dưới mái hiên rộng của một nhà hàng lớn trên đường Đồng Khởi. Đấy là “nhà” của họ. Lúc ấy đã hơn 2 giờ sáng . Đường phố vắng lặng . Thỉnh thoảng mới có vài người bán bánh chưng bánh giò và vài cô gái “bán hoa” đi qua. Ông Tám cụt vừa mơ màng chợp mắt thì ông bỗng nghe thấy như từ đâu vọng đến tiếng một người con gái hát bài Dạ cổ hoài lang – bài hát ruột của ông: 

…Thiếp khấn nguyện cho chàng
Đặng chữ bình an
Sớm trở lại gia đàng…
 


Ông Tám cụt bừng tỉnh. Hình ảnh cô Tư xinh đẹp đang cùng ông hát trong vườn cây Lái Thiêu ngày nào như hiện về rõ mồn một trước mắt ông. Ông rụi mắt, ngỡ giấc mơ. Nhưng những hình ảnh êm đẹp nhất ấy của đời ông vẫn hiện lên rõ ràng, và như là cô Tư đang hát cho ông nghe những câu ca thắm thiết tình nghĩa vợ chồng… Nhưng những hình anh ấy bỗng vụt biến khi trên đường xuất hiện một tốp thanh niên dân phòng, tay cầm gậy vừa đi vừa nện cộc, cộc xuống mặt đương yên tĩnh. Khi đi ngang qua chỗ ông Tám cụt và bà Tư điên đang nằm, một người trong tốp dân phòng cười ré lên rôi “đổ xuống” một câu vọng cổ săc mùi rượu:”Em ơi em…Dù cho em thân tàn ma dại, đầu bạc răng long, điên điên khừng khùng… thì anh vẫn quyết theo em, yêu em đến cùng!...” Cả tốp dân phòng hưởng ứng cười sặc sụa. Ông Tám cụt giận muốn trào máu, muốn tung cái chân còn lại đá vỡ mặt mấy thằng kia, nhưng ông đã kịp nénlòng khi thấy bà Tư thốt ngồi dậy, nhìn bốn phía rồi nhìn ông rất lạ… Ông Tám có cảm giác như bà Tư đã nhận ra ông của thời trai trẻ nhưng không nói ra được? Rồi bà đột ngột ngất xỉu như khư bà đột ngột tỉnh dậy!... 
Nhìn bà Tư tiếp tục thiếp ngủ, ông Tám cụt đau nhói trong tim, những giọt nước mắt hiếm hoi của ông trào ra từ bao giờ!...Không biết từ lúc nào, ông Tám đã cất giọng ca bài Dạ cổ hoài lang… Ông Tám biết lắm, mỗi câu chữ trong lời ca là nỗi đau buồn của những kiếp người khổ ải mà cái ông nhạc sĩ Cao Văn Lầu ấy đã viết ra được thành những lời ca này! Và ông thấy,trong lời ca đó có cả cuộc đời mình với những tâm tư nặng trĩu!... 
Ông Tám cụt đã hát bài Dạ cổ hoài lang ấy không biết bao nhiêu lần. Tâm trí ông như mê đi, như trôi theo tiếng nhạc lời ca lãng đãng mây bay. Chính vào những phút giây đó, ông Tám cụt đã không biết được rằng bà Tư đã tỉnh dậy và hát theo ông :  

Đêm năm canh mơ màng
Em luống trông tin chàng
Gan vàng quặn đau…
 


Không ai có thể tin nổi rằng bà Tư đã khỏi điên khi thấy ông Tám cụt và bà Tư sống với nhau rất hòa thuận, êm ái trong một ngăn xép nhỏ ở cái hẻm sâu trên đường Tôn Thất Đạm. Câu chuyện về bà Tư điên sau khi gặp lại người tình xưa đã khỏi điên khiến người ta phì cười vì cái sự huyền diệu của ái tình. Nhưng , khi biết bà Tư là người có liên can đến vụ cái chết của ông chủ tịch phường nọ thì người ta bắt đầu nghi vấn : liệu có phải bà Tư giả điên để hòng che đậy tội giết ông chủ tịch phường ? Bà Tư chính là thủ phạm hay thủ phạm là Trần Thị Hiền Lương như đã thông báo ? Và, một số người đã bắt tay vào điều tra lại vụ án… 
Như linh cảm được sự bất an đang rình rập xung quanh mình, một hôm bà Tư nói với ông Tám :  
- Ông Tám à ! Tôi tính phải đi khỏi đây ! Tâm trạng tôi luôn thấp thỏm. Mà ông biết không , tôi nhớ mẹ con nó quá chừng ! 
- Tôi cũng thường nghĩ đến mẹ con cô Hiền Lương chứ đâu phải riêng bà ! – ông Tám trầm ngâm – Tôi tính thế này bà nghe có được không ? Bọn mình già rồi, sắp chết rồi, sống dăm bữa nửa tháng cũng được. Nhưng mẹ con cô Hiền Lương không thể sống cực khổ nơi rừng núi như thế được. Tôi muốn dành những ngày tháng cuối cùng này chăm sóc thằng Lượng. Cả đời tôi đã biết nuôi con là thế nào đâu ?  
- Nhưng biết mẹ con cô ấy ở chỗ nào bây giờ ? Tây Nguyên rộng lắm, rừng núi bạt ngàn biết đâu mà tìm ? Sức ông và tôi đều yếu cả rồi !... – bà Tư rưng rưng nước mắt… 

Mặc dù không biết mẹ con Hiền Lương giờ ở đâu, nhưng ông Tám và bà Tư vẫn nhất quyết đi tìm bằng được. Họ đã lặng lẽ rời khỏi căn gác xép thuê bé nhỏ để tới vùng cao nguyên xa xôi. Tuy thế, cuộc kiếm tìm của họ cũng không đến nỗi vất vả cho lắm. Nhờ đã đóng quân khá lâu ở cả Lâm Đồng , Buôn Ma Thuột và cả Pleiku, rồi Kon Tum, ông Tám đi tới đâu cũng gặp được những người quen cũ và khi nghe chuyện cuộc đi kiếm tìm đó của hai ông bà già, họ đều xúc động và nhiệt tâm giúp đỡ cả về ăn ở và hỏi thăm tin tức của hai mẹ con Hiền Lương . Hai người có tìm thấy mẹ con Hiền Lương hay không ? Đó là một câu hỏi thật khó trả lời !... 
(Còn tiếp)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Sài Gòn ngày 13.04.2011.
. Trích đăng lại vui lòng ghi rõ nguồn Newvietart.com.

BÃO GIẬP MƯA VÙI

Tiểu thuyết của ĐỖ NGỌC THẠCH

Trải bao bão giập mưa vùi
Trái tim vẫn hát vang lời yêu thương!
chương 4
Sau khi bị đưa xuống ga Đà Nẵng, Trần Duy Nhất được nhốt chung với một bọn toàn dân trộm cắp, trấn lột, gái điếm trên tuyến đường sắt Bắc – Nam. Thương thay cho anh chàng thư sinh chân yếu tay mềm, chỉ biết có sách vở, giờ đây mới biết đến một thế giới hoàn toàn xa lạ : thế giới của dân “giang hồ”. Duy Nhất trở thành cái “bao cát” cho bọn đàn em thỏa sức đấm đá rồi trở thành trò chơi cho bọn “đại ca” : anh phải nhảy múa, hát hò cho chúng nó nghe rồi phá ra cười khoái trá. Chỉ khi đã kiệt sức thiếp đi, Duy Nhất mới trôi vào những giấc ngủ đầy ác mộng . Và rồi chưa đẫy giấc, anh lại bị bọn chúng dựng dậy, hành hạ tra tấn đủ kiểu, kể cả những kiểu man rợ tục tằn nhất như “mút cu” cho mấy thằng đại ca, ngửa mặt cho chúng nó thay nhau ỉa, đái !...Có lúc, Duy Nhất thoáng có ý nghĩ tự đập đầu chết đi nhưng chúng nó luôn bám lấy anh như ruồi nhặng, không để cho anh được một phút yên thân !...
Duy Nhất bị giam như thế mới có hai ngày mà con người anh như bị biến dạng đi một cách khủng khiếp : anh chỉ còn như là một cái thây ma ! Chính vì vậy mà sau khi chạy vạy ngược xuôi suốt ba ngày trời, cô gái mới tốt nghiệp Đại học Sư phạm có tên là Cúc ấy đã không nhận ra anh khi người ta cho cô đi vào các phòng giam để tìm Trần Duy Nhất. Cúc đau khổ, thất vọng nhìn từng khuôn mặt (mà bộ mặt nào cũng quái đản dễ sợ) của tất cả các phòng giam của khu ga nhưng cô không thể tìm thấy Duy Nhất theo như cái hình ảnh của anh mà cô đã ghi nhận được trên tàu. Một người công an đã nói với cô :
- Thôi, cô từng tìm kiếm nữa, chỉ mất công thôi ! Cô thấy đấy, chúng nó là một mớ hỗn độn bẩn thỉu như những đống rác ! Tôi không hiểu nổi một cô gái duyên dáng, có học thức như cô lại có quan hệ với chúng !
Cúc vụt nhìn người công an, cô cắn môi rồi bật khóc :
- Anh không hiểu gì cả ! Vì thế các anh đã bắt cả những người tốt ! Người mà tôi tìm không phải là dân trộm cướp ! Các anh phải trả lại anh ta cho tôi ! Phải trả lại cho tôi !...
Cúc la hoảng lên ầm ĩ khiến người công an tròn mắt ngạc nhiên. Rồi đột nhiên , nét mặt anh ta trở lại bình thản, nhìn Cúc lừ lừ rồi giằn giọng :
- Cô không được nói lung tung! Cô điên rồi hả? Cô đi đi không tôi lại bắt nhốt vào đó bây giờ!
Và cảm thấy như quá nặng lời vô lý với người con gái, anh chàng công an ngập ngừng giây lát rồi bỏ đi, để Cúc đứng ngơ ngác giữa những bộ mặt cô hồn quái đản đang rú lên những tiếng cười ghê rợn. Một thằng hét lên:”Bồ ơi! Anh đây nè! Vào đây ân ái với anh đi em!”… Từng tràng cười, la hét lại rộ lên. Cúc như muốn vỡ màng nhĩ. Cô vùng chạy ra sân ga. Cô cứ chạy như người mất hồn một lúc thì vấp phải một thanh tà-vẹt và té xấp xuống bãi đá…
- Ngày 12-3-19..: Về đến Sở rồi, gặp lại cái Lan rồi mà mình vẫn chưa hết kinh hoàng. Ôi ! Tại sao con người ta lại ác với nhau đến như vậy ? Tại sao anh ta lại bị bắt nhốt chung với một bọn trộm cướp ? Tại sao số phận mình lại liên quan đến anh ta ? Cho đến bây giờ, mình vẫn chưa biết anh ta tên là gì, gốc tích như thế nào, vậy mà mình có linh cảm thật kỳ lạ : số phận mình như đã gắn chặt vào anh ta ! Số phận ? Thật là khó hiểu ? Đó là trò chơi của vị thần nào vậy ? Nếu không gặp may, thì sau khi ngã dụi ở sân ga hôm ấy, mình đã bị bọn mất dạy làm hại đời con gái rồi ! Một người vô danh đã cứu mình thoát khỏi tay bọn đểu và lại còn mua vé cho mình về Sở nữa ! Anh ta là ai nhỉ ? Liệu số phận anh ta có liên quan gì tới mình hay không ? Còn anh chàng trí thức bất hạnh kia, bây giờ anh ta ở đâu rồi ? Anh ta đã trốn khỏi phòng giam hay là bị bọn lưu manh đánh chết rồi ? Ôi ! Đau đầu quá ! Mới bước vào đời đã gặp bao nhiêu chuyện kinh hoàng ! Thế mà trước đây, mình vẫn nghĩ là “Bài ca sư phạm” đẹp lắm !...

- Ngày 14-3-19…Ngày hôm qua mình không ghi được nhật ký vì gặp chuyện điên đầu nữa. Lão trưởng phòng tổ chức mới gặp mình đã nhìn chòng chọc làm mình phát tởm ! Mồm lão ta thì hôi mà lão cứ ghé sát vào mặt mình mà nói ! Nếu không vì cái nghề sư phạm này thì mình đã bỏ ra khỏi phòng rồi. Lão cứ thuyết phục mình về làm nhân viên phòng tổ chức cho lão. Lão nói : “Giờ có chủ trương mới là lấy một số sinh viên mới ra trường để đào tạo cán bộ tổ chức chứ không nhận mấy cha sĩ quan quân đội chỉ có “đỏ” mà không có “chuyên” nữa. Nhìn cô, tôi biết cô rất có khả năng làm cán bộ tổ chức !” . Mình nói : “Nhưng nguyện vọng duy nhất của em là đi dạy học. Cho em dạy ở đâu cũng được, bản làng xa xôi em cũng không ngại”. Lão ta cười mỉm, lại nhìn mình chòng chọc rồi nói : “Em có tinh thần như thế là rất tốt. Nhưng, để em đến tận bản làng thì thật là phí, lãng phí nhân tài ! Thôi, không nói nhiều, đây là sự phân công của tổ chức, em phải có nhiệm vụ chấp hành !”…Mình tức giận ra về mà linh cảm thấy có chuyện không hay. Quả nhiên, sáng nay, khi đến phòng Tổ chức thì một cô nhân viên nói rằng ông Trưởng phòng hẹn mình làm việc ở nhà (Hồi còn đi học, nghe người ta nói có nhiều người hay làm việc ở nhà hoặc quán nhậu, mình không tin !). Mình vừa bước vào phòng thì đã thấy ông ta nhìn mình bằng ánh mắt khác thường, mình hoảng sợ, tính bước ra ngay. Nhưng ông ta đã bước nhanh ra cài cửa lại rồi ôm chầm lấy mình !...Ôi ! Thật là xấu hổ và nhục nhã ! Tại sao mình không đủ sức để đập vỡ mặt lão ta ra khi lão cứ cố rúc mặt vào ngực mình !... Thật là đểu giả ! Mình không ngờ những người ở cương vị lãnh đạo quan trọng lại có thể hành động đểu cáng như thế ? Mình đang luống cuống cự lại lão thì vợ lão đột nhiên trở về, đập cửa rầm rầm !...Ôi, thật là xấu hổ khi phải ghi cái chuyện này ra đây ! Thôi, mình không thể viết được nữa, đau đầu quá ! Cái số mình nó làm sao thế này ? Mẹ ơi, mẹ thường nói là con có quí nhân phò trợ cơ mà ? Sao lại gặp lắm thằng đểu thế ?

- 15-3-19…Mình cứ tưởng sau cái sự việc ấy, lão trưởng phòng Tổ chức sẽ bị cách chức, bị kỷ luật hay tương tự như thế. Nhưng mình bàng hoàng cả người khi nghe nói lão ta sẽ chuyển sang Tỉnh ủy làm phó Ban Tuyên huấn hoặc Tuyên giáo gì đó ! Trời đất ơi ! Tại sao lại như thế nhỉ ? Những điều mình được học ở nhà trường về luân lý, đạo đức là sai hết sao ? Mình càng ngạc nhiên hơn khi vợ ông ta lại đến động viên, an ủi mình và nói : “Cháu quên chuyện đó đi, nghĩ làm gì cho mệt ! Loại cán bộ ngũ tuần như các lão ấy ai cũng có “máu dê” như thế cả ! Cứ cả nghĩ, dằn vặt như cháu sao sống nổi ở đời đầy dê cụ này ! Cháu biết không , cái ông phó giám đốc của cháu, thủ trưởng cấp trên của lão chồng cô ấy, ông ta còn cưỡng hiếp nhân viên ngay trên xe TOYOTA như Nghị Hách trong Giông tố của Vũ Trọng Phụng ấy ! …Ối giời ơi ! Cháu đừng có tròn xoe mắt ra như thế ! Làm thân con gái thì phải biết mà “tương kế tựu kế” thì mới sống nổi chứ ! Cháu biết không ? Ngày xưa cô chỉ là lao công quét dọn thôi, ở nhà quê ra mà, văn hóa mới có lớp hai ! Nhưng, cháu biết không , cô đã “nắm huyệt” được các lão dê ấy và bắt các lão ấy cho cô làm cán bộ công đoàn . Bây giờ cô có chân trong công đoàn Tỉnh đấy ! Hí… Hí !...Hí !...”. Mình nghe bà vợ ông trưởng phòng tổ chức nói một hồi mà như ù hết cả tai !...
- l6-3-19..: Cuối cùng , bà Giám đốc Sở Giáo dục đã thuyết phục được mình làm việc ở phòng Tổng hợp của Sở, nôm na là làm thư ký cho bà Giám đốc. Suốt ngày mình phải bù đầu đọc các bản báo cáo của các phòng giáo dục huyện. Ôi, cái công việc này mới buồn tẻ làm sao! Những lúc thấy mình có vẻ mệt mỏi, bà giám đốc lại nói:”Thôi, xếp những bức “tình thư” ấy lại, đi với cô xuống cơ sở!”. Tưởng rằng đi xuống cơ sở sẽ có nhiều chuyện vui nhưng lại thật lắm chuyện buồn! Các trường cấp huyện phần lớn tiêu điều, xơ xác! Trường cấp xã thảm hại gấp đôi! Học sinh gần như không muốn đi học nữa. Thầy cô giáo thì sống buồn tẻ và kham khổ như dòng tu khổ hạnh! Gặp cái Lan ở trường huyện Krông Pat. Nó gày và đen đến nỗi suýt thì không nhận ra! Hai đứa ôm nhau khóc như mưa rào. Ôi, chẳng lẽ cái mộng “lập nghiệp ở chân trời xa” lại tan vỡ hay sao? Cái Lan khóc đã rồi mới lau nước mắt, nói giọng khô lạnh, như là không phải nó nói:”Tao thành người Tây Nguyên rồi! Tao đã có bầu với thằng Kso Phú, ba tháng rồi”. Mình giật thót, nhìn nó chằm chằm mà không tin ở tai mình, ở mắt mình nữa! “Có bầu? Tại sao lại thế?”- mình hỏi. Cái Lan nói khẽ, giọng chua sót:”Tại sao ư? Tao cũng không biết nữa! Chỉ nhớ là cái hôm ấy, tao đến nhà thằng Kso Phú để xem tại sao nó bỏ học thì không biết từ lúc nào, nó đã đè tao xuống nền nhà…Ôi, nó khỏe như một con gấu!...Tao sợ quá, muốn chết quách đi nhưng không được.Ngày ngày, thằng Kso gấu ấy cũng bám tao như đỉa! Đấy, nó đang đứng ở gốc cây thông kia kìa!”. Mình nhìn theo ánh mắt của cái Lan, thấy một thanh niên người Gia Rai khỏe mạnh, đen bóng, đúng là như gấu, đang đứng bất động, nhìn chăm chú về phía cái Lan! “Sao mày không nói cho tao biết? Sao mày không bỏ về Sở với tao? – mình hỏi dồn. Cái Lan khẽ nhếch mép cười, nụ cười méo mó:”Mày giúp gì được tao? Cái số tao nó thế, biết làm sao được!”. Nói rồi cái Lan lẳng lặng đi về phía thằng Kso Phú. Mình nhìn theo mà nước mắt lại trào ra! Lan ơi, mình muốn gọi nó thật to mà lưỡi như cứng lại! Trời ơi! Chẳng lẽ số phận con người ta lại kỳ quặc như vậy sao?

- l7-3-19..: Sau khi gặp cái Lan về, mình buồn quá. Mình nói chuyện cái Lan với bà Giám đốc Sở. Bà ta mỉm cười nói:”Như thế cũng tốt chứ sao! Biết đâu nó cũng yêu thằng Kso Phú?” Mình kinh ngạc nhìn bà giám đốc và nói như cãi nhau:”Yêu?! Yêu cái gì? Sao cô mà cũng nói như vậy? Cô không hiểu gì về tình yêu ! Nó có người yêu đang chiến đấu ở biên giới ấy! Nó bị thằng Kso Phú cưỡng hiếp mà cũng yêu được à?”. Bà giám đốc thấy mình nói thế thì muốn lảng đi:”Thôi, không nói chuyện riêng tư của người khác! Quan niệm tình yêu của các cô bây giờ phức tạp lắm!”. Từ đó, mình chán ghét bà giám đốc, không muốn làm việc với bà ta nữa. Mình muốn viết thư cho mẹ nói với bố chuyển mình về Hà Nội, nhưng lại sợ bị bố mắng vì chính bố đã lo cho mình ở Hà Nội ngay từ khi mới tốt nghiệp mà mình không nghe, thật mắc cỡ!... Nghĩ mãi, mình nảy ra một kế: mình sẽ viết thư cho mẹ nói đã xảy ra chuyện như của cái Lan, nhưng không phải với thanh niên như thằng Kso Phú mà với một già làng!... Mình suýt phá ra cười và cắm cúi viết!...Mai sẽ ra sân bay gửi cho mẹ!
- 18-3-19..: Không ngờ ở sân bay có người là “đệ tử” của bố. Ông ta mở thư ra xem và gọi điện thoại cho bố. Chuyến chuyên cơ hôm ấy cả bố và mẹ cùng bay vào. Từ sân bay, bố đã gọi điện cho bà giám đốc Sở, bà gọi mình lên. Mình sợ quá. Không biết sẽ thế nào thì đúng lúc bố mẹ mình tới Sở, cái Lan cũng đột ngột xuất hiện! Trời ơi, cái Lan! Đầu tóc nó rũ rượi, mặt đẫm nước mắt và bụi đỏ! Nó ôm chầm lấy mình, vừa khóc vừa nói:”Cúc ơi, mày cứu tao với! Thằng Kso Phú nó đánh tao chết mất! Mày đưa tao ra Hà Nội ngay đi!” Mình chưa kịp nói gì thì thằng Kso Phú chạy xộc vào, định kéo cái Lan đi. Bố mình ra hiệu cho người bảo vệ, người bảo vệ nhanh như chớp lôi thằng Kso Phú ra ngoài! Thằng Kso Phú gào lên vang như sấm:”Trả cô giáo Lan cho tao!...”

- 20-3-19… Ngày hôm qua lại không viết được. Suýt nữa thì mình bị đưa ra Hà Nội cùng với cái Lan, nếu như mình không bỗng chợt nhớ đến anh ta – cái anh chàng trí thức bất hạnh bị bắt oan ở ga Đà Nẵng ấy. Mình kể trường hợp của anh ta và nói dối đó là bạn rất thân, cho nên mình phải có nhiệm vụ tìm bằng được anh ta và cứu anh ta ra khỏi cảnh ngộ oan nghiệt đó. Nghe nói vậy, bố đã dẫn mình sang gặp ông giám đốc Sở Công an, dặn dò ông ta giúp mình bằng mọi cách nếu mình yêu cầu. Khi ông giám đốc công an nhận lời rồi, bố, mẹ và cái Lan mới ra sân bay về Hà Nội …
- 21-3-19…Sáng nay, bà Giám đốc Sở nói : “Từ nay, cháu không phải làm việc gì cho Sở nữa mà chỉ làm nhiệm vụ đi tìm anh bạn của cháu thôi ! Khi nào cháu tìm thấy, cô sẽ làm quyết định cho cháu về Hà Nội. Bố cháu đã dặn cô như vậy. Cô không ngờ rằng bố cháu lại là nhân vật lớn như thế. Toàn bộ lực lượng công an của tỉnh sẽ được huy động giúp cháu tìm bạn ! Thì ra cháu là tiểu thơ công chúa thích phiêu lưu !”. Mình suýt thì quát ầm lên, nhưng vội ghìm lại ngay. Thôi, mặc cho bà giám đốc muốn nghĩ sao thì nghĩ, miễn là mình không phải loại con gái sống dựa vào uy quyền của bố. Mình xung phong đi Tây Nguyên vì một mục đích hoàn toàn vô tư, trong sáng, không thể nói ra bằng lời được. Đã thế, mình sẽ xin sang Sở văn hóa làm cái việc sưu tầm văn học dân gian mà từ lâu mình vẫn thích thú. Nhân đó, mình có thể đi đây đó tự do, thoải mái mà lần tìm dấu vết anh ấy. Nghe nói, các trại cải tạo của khu vực miền Trung phần lớn đều ở Tây Nguyên. Nếu anh ta còn sống , nhất định sẽ phải đi lao động ở trên miền rừng núi này, và như thế nhất định mình sẽ tìm thấy !...

Mình vừa chợp mắt thì nằm mơ một giấc mơ kỳ lạ. Vừa bừng tỉnh, mình liền thức dậy viết ngay ra đây, để đến mai khéo lại quên mất . Giấc mơ như thế này mới lạ chứ…Mình cùng đoàn sưu tầm văn học dân gian đang đi trong một vùng núi rừng xanh tốt, phong cảnh thật là ngoạn mục thì trời bỗng tối sầm, bão lốc nổi lên dữ dội, đất đá bay rào rào, cây cối đổ ngổn ngang…Một lát sau, đất trời bỗng lặng yên đột ngột, cái tĩnh lặng báo trước một điều kinh hoàng ! Quả nhiên, một đám mây đen từ đâu lao vút tới, phút chốc hóa thành ba người mặt mũi kỳ quái, hoa chân múa tay tít mù rồi lần lượt nói như diễn viên tuồng :
- Như ta đây, chính danh là Đại Trí, giám đốc Sở Lâm nghiệp, còn gọi là chúa sơn lâm !
- Như ta đây, chính danh là Đại Đức, hoàng tử của chúa sơn lâm ! Giám đốc Công ty khai thác rừng chính là ta a…a…á !
- Như ta đây, bí danh là Tào Thứ ! Ta chỉ là phó giám đốc Công ty khai thác rừng, nhưng cái ngai chúa sơn lâm sẽ về tay ta ! Ta sẽ dùng mẹo Tào Tháo mà giết chết bố con thằng Trí Trá như giết hai con chó ghẻ ! Rừng sẽ về tay ta ! Rừng ơi ! Tiền ơi ! Tiền !...Đô la ! A…a…a ! Nói rồi cả ba người quái dị đó vơ quáng quàng cả cành cây, cả những cây gỗ đại thụ cho vào mồm nhai ngấu ngiến !

Chúng nhai gỗ mà như thổ phỉ nhai thịt !...Phút chốc, cả khu rừng bỗng trở thành như sa mạc hoang vu ! Ba cái người quái đản bỗng hóa thành ba con quỷ rồi xông vào cấu xé nhau dữ dội. Chừng như đã thấm mệt mà không phân thắng bại, ba con quỷ ấy cuốn lấy nhau, hóa thành một đám mây đen, bay vút đi nhanh như lúc nó xuất hiện !...Cái sa mạc hoang vu ấy như là sắp tan biến thì bỗng xuất hiện một người : anh ta đi lững thững , vẻ suy nghĩ lao lung…Kìa, sao anh ta giống như anh chàng trí thức bị bắt oan trên tàu Thống Nhất ở ga Đà Nẵng ? Đúng rồi, đúng là anh ta ! Anh ta thò tay vào túi lấy ra những hạt cây nhỏ xíu rồi gieo xuống bãi đất hoang vu ! Bóng anh ta nhỏ dần , mờ dần trên sa mạc hoang vu thì những mầm lá xanh nhú lên trên những vết chân của anh ta ! Mình giật mình , sợ anh ta đi mất liền cất tiếng gọi rối rít ! Nhưng, anh ta như là không nghe thấy, vẫn cắm cúi đi về phía cuối chân trời mờ ảo ! Mình hoảng hốt chạy theo thì những mầm xanh đã vụt lớn thành những cây gỗ to lớn, cản mất lối đi ! Mình như mất hút bóng anh ta, luống cuống không biết chạy theo hướng nào thì va đầu vào một cây gỗ , ngã vật xuống !...

22-3-19..:Ở Sở Văn hóa, người ta vui vẻ tiếp nhận mình vào tổ sưu tầm văn học dân gian. Công việc này lâu nay chẳng có ai chuyên tâm cả, người ta cũng lờ nó đi vì những việc thông tin, cổ động thu hút gần hết cả nhân lực và kinh phí của Sở. Việc sưu tầm văn hóa dân gian tuy được nói là quan trọng đấy, nhưng chưa làm cũng chẳng chết ai! Nhưng dạo này, công việc sưu tầm được chú ý đặc biệt vì có nhiều vị giáo sư, cán bộ lãnh đạo của Bộ Văn hóa đến Sở thúc giục. Câu nói “Báo động đỏ về sự mai một vốn văn hóa dân gian” được nói đến rất nhiều, không chỉ ở tỉnh này mà trên cả toàn quốc!...Thế là từ ngày mai, mình sẽ là người sưu tầm văn hóa dân gian, mình sẽ đi đến các bản làng xa xôi để ghi lại những bài ca, những câu chuyện cổ thần kỳ…Và mình tin là trong những đợt đi điền dã ấy, mình sẽ tìm thấy anh ta! Sẽ có phép lạ nào đó giúp mình chăng?
Lâm trường Sơn Thủy Tận, đúng như cái tên gọi của nó, đóng đại bản doanh tại một thung lũng nhỏ, cách nơi có người ở phải đên mươi ngày đường. Nghe nói nơi đây chưa hề có dấu chân người, đúng là chốn sơn cùng thủy tận! Ở đây, tuy không có dấu vết của con người nhưng đúng là mỏ vàng lộ thiên: gỗ cẩm lai bạt ngàn! Đường vào khai thác tuy đầy gian lao, trắc trở nhưng trữ lượng gỗ ở đây lớn lắm, không thể tính nổi, đúng là của kho rừng núi là vô tận ! Ngoài gỗ ra, ở đây còn có khả năng rất nhiều trầm hương. Mấy người thợ sơn tràng nói rằng, từ rất xa xưa, người ta đã xác định đây là rừng của trầm hương, nhưng không hiểu sao, những người thợ trầm vừa mon men đến cửa rừng đã mất tích một cách bí ẩn ! Ngay cả những ai muốn tới chặt gỗ, cũng không thấy trở về, hoặc nếu có trở về thì cũng mang theo bệnh tật kỳ lạ, cứ ngơ ngẩn ngơ ngác như người ăn phải cà độc dược !...Chính vì thế, cho đến cái ngày Công ty khai thác rừng của Đại Đức (tức Trần Nhân Đức) được thành lập, khu rừng này coi như vẫn còn “trinh nguyên”, chưa có bàn tay nào đụng vào ! Chính vì thế, sau khi nghe được những câu chuyện đầy huyền thoại về khu rừng đó, ông Tào Thứ (ít người biết tên thật của ông mà chỉ nghe ông tự giới thiệu cái tên đó, ông còn nói dòng họ ông là một nhánh của Tào Tháo, khi nhánh này lưu lạc xuống phương Nam) đã quyết định thành lập lâm trường Sơn Thủy Tận với ý định hốt bạc mỏi tay ! Khi trình bày ý định của mình với Đại Đức, ông Tào Thứ nói :
- Anh phải để cho tôi toàn quyền điều hành đối với cái Lâm trường này. Và tôi nghĩ rằng, Ban giám đốc chúng ta cần phải khoán trách nhiệm, mỗi người theo dõi chỉ đạo và chịu trách nhiệm hoàn toàn một số đơn vị. Có như thế mới làm ăn khá được. Chứ cứ theo như lối cũ, cha chung không ai khóc, lắm thầy thối ma, lắm cha con khó lấy chồng !...
Đại Đức ngắt lời :
- Không được ! Giám đốc là tôi vẫn phải bao quát toàn bộ hoạt động của Công ty chứ ! Giám đốc vẫn làm tổng chỉ huy, các phó chỉ là người giúp việc, tham mưu thôi ! Mà này, ông định dùng mẹo chia ba thiên hạ, tìm đất hùng cứ một phương để lập nghiệp vương bá đấy hử ?
- Anh đừng có nghĩ cạn như vậy ! Anh là lực lượng trẻ mà sao tôi thấy anh suy nghĩ cũ quá đấy !...
Hai người tranh luận một hồi chưa ngã ngũ thì giám đốc Sở Lâm nghiệp Đại Trí (tức Trí Trá – Trí Trắc) tới. Thấy vậy, Đại Trí nói :
- Sao lại có sự thiếu thống nhất trong lãnh đạo như thế được ? Các anh không thấy bài học đau xót ở rất nhiều cơ quan ban ngành ư ? Nội bộ lục đục là chỉ có mà sập tiệm !
Ông Tào Thứ nói :
- Báo cáo anh, chúng tôi đâu có lục đục. Chẳng qua đó là quá trình mâu thuẫn để tiến tới thống nhất cao hơn ! Và tôi nghĩ là chúng ta sẽ gặp nhau ở cái đích cuối cùng : Tiền ! Làm sao thì làm kiếm được nhiều tiền !

Đại Trí nói :
- Đúng! Cái đích cuối cùng là tiền! Khái niệm làm giàu bây giờ không chỉ là của Tư bản, những người cộng sản cũng phải biết làm giàu. Cái thời thắt lưng buộc bụng, sống kham khổ đã qua rồi! - …Đại Trí quay qua Đại Đức – Ba nói với con vừa với tư cách là Sếp cấp trên, vừa với tư cách là người bố: con là giám đốc nhưng phải coi chú Thứ như cha chú! Chú Thứ đã tới thượng thặng, mưu kế không thua gì Khổng Minh thời Tam quốc bên Tàu! Chúng ta phải dựa vào nhau mà sống, phải đoàn kết mới thành sức mạnh! – Đại Trí lại quay qua ông Thứ - Thôi được, bây giờ anh trình bày cái vụ lâm trường Sơn Thủy Tận xem sao?
Tào Thứ e hèm lấy giọng rồi từ tốn nói:
- Tôi cho rằng cái lâm trường Sơn Thủy Tận này sẽ nuôi sống cái công ty của chúng ta vì trữ lượng của nó là vô tận. Vùng rừng núi này vốn nổi tiếng từ xa xưa là ma thiêng nước độc, nhiều thần linh ma quái, chưa ai dám sờ tới ! Vì thế, chúng ta sẽ được độc quyền khai thác !
- Nhưng việc tuyển người vào đội khai thác sẽ khó khăn ? Ai dám chui vào chốn tử địa ấy ? – Đại Đức hỏi .
- Khỏi lo ! Tôi sẽ dùng mẹo của người xưa : lùa tù binh ra trước trận để hứng hết mũi tên hòn đạn ! – Ông Thứ nhếch mép.
- Ai là tù binh ? – Cả Đại Đức và Đại trí cùng hỏi .
- Còn ai nữa ngoài những tội phạm đang cần phải lao động cải tạo ! – ông Thứ cười mỉm – Tôi có ông bạn thân bên công an, ông ta sẽ cung cấp cho tôi một đội quân đông đảo, bao nhiêu cũng có ! Chúng ta sẽ không phải lo lắng về lương bổng cho đội quân này. Họ sẽ là những người mở đường, tai họa họ sẽ lãnh hết, và khi đó chúng ta đã có những con đường thênh thang vào tận kho gỗ khổng lồ kia !

Đại Trí thở ra, nói nhỏ :
- Ông thật là một con quỷ ! Coi mạng người như cỏ rác ! Thôi được, tôi nhất trí ! Nhưng ông phải nhớ làm công tác chính sách cho tốt : mỗi người mở đường chết đi, đều phải được chôn cất tử tế và hương khói chu đáo ! Nếu không, oan hồn của họ sẽ hóa thành ma rừng mà lật đổ xe chở gỗ của chúng ta sau này đấy !
- Yên trí, yên trí ! Gì chứ đối với hồn ma bóng quỷ tôi có nhiều phép yểm trị tài tình lắm ! Ông nội tôi vốn hành nghề phù thủy đấy chứ ! – Nói rồi ông Thứ xách cặp ra xe, mồm lẩm nhẩm câu thần chú : “Tu lị tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, ta bà ha”.

Ba ngày sau, một đội quân gần một trăm người đã hành quân đến cái vùng rừng núi sơn cùng thủy tận kia. Dẫn đầu đoàn quân đó là ông Tào Thứ. Sau khi được người dẫn đường đưa đi vòng vo Tam quốc một hồi, đoàn người dừng lại ở một thung lũng nhỏ, bốn bề yên tĩnh, tịch mịch, một con suối nhỏ lặng lờ chảy qua, phong cảnh cũng có thể gọi là ngoạn mục. Ông Thứ hỏi người thổ dân dẫn đường :
- Còn chỗ nào đẹp hơn cái thung lũng này không ?
Người dẫn đường đáp :
- Đây là chỗ cuối cùng mà người xưa thường dừng nghỉ ngơi. Còn nếu đi tiếp thì không thể trở về !
- Thôi được, hạ trại ! – ông Thứ ra lệnh – Thung lũng này sẽ là đại bản doanh của Lâm trường Sơn Thủy Tận. Từ đây, chúng ta sẽ tiến quân vào đại ngàn, khai thác tài nguyên của rừng để làm giàu cho Tổ quốc !...

Sau khi hạ trại nghỉ ngơi, một nghi lễ khá quan trọng được tổ chức để thành lập Lâm trường Sơn Thủy Tận. Bài diễn văn của ông Thứ khá dài, có cả bài thơ lục bát về rừng mà ông đã đọc trong ngày thành lập Công ty mẹ. Ông nhấn mạnh nhiệm vụ trước mắt của Lâm trường là mở đường vào tận ngóc ngách của rừng sâu và chiến lược lâu dài là phải xây dựng lâm trường thành một khu kinh tế lớn Lâm – Nông – Công nghiệp cỡ quốc gia, quốc tế, phải biến nơi núi rừng hoang vắng thành đô thị phồn hoa đô hội, có thể đón khách nước ngoài tới tham quan, thu ngoại tệ cho ngân quỹ Nhà nước, vân vân và vân vân ! Vì thế, nhiệm vụ của đội quân mở đường rất nặng nề và ý nghĩa thì rất vinh quang, không khác gì những bậc anh hùng vĩ nhân trong lịch sử đã mang gươm đi mở nước !... Trong số gần một trăm phạm nhân mà ông xin được bên công an, ông Thứ đã tỏ ra là người có con mắt tinh đời khi chọn ra được một anh chàng có dáng vẻ trí thức (mặc dù khuôn mặt thì sầu não, ủ ê) để giao cho anh ta cái chức phó giám đốc Lâm trường kiêm đội trưởng đội mở đường (còn chức giám đốc Lâm trường thì ông kiêm nhiệm luôn, tạm thời như vậy). Anh chàng có tên cũng rất hợp với nơi rừng xanh ngút ngàn này : Trần Thanh Lâm !...

Sau khi ông Thứ và đoàn tùy tòng đã trở về công ty, với lời hứa hàng tuần sẽ xuống Lâm trường cùng với việc tiếp tế lương thực, thực phẩm, cả đoàn quân mệt mỏi lăn ra ngủ. Riêng Trần Thanh Lâm không ngủ được, anh bật đèn pin và lấy cuốn sổ tay ra viết : “Ngày…tháng …năm… : Cuối cùng, mình cũng đến được với rừng , nhưng không phải với tư cách anh kỹ sư trồng trọt mà với tư cách một phạm nhân ! Vì sao định mệnh lại đùa cợt với mình một cách tàn ác như vậy ? Nếu không vì ý định tìm người chị bặt tin từ ngày bố mẹ chết, có lẽ mình đã không còn tồn tại, trên đời này nữa ! Chị Hiền Lương ơi ! Hơn hai chục năm rồi, không biết bây giờ chị thế nào ? Liệu chị em mình có nhận ra nhau không ? Mà không hiểu sao, mình luôn có linh cảm là chị Hiền Lương ở gần mình lắm ? Linh cảm có đánh lừa ta chăng ?...Đêm nay, rừng thật là đẹp ! Và thật trớ trêu thay, mình đi học nghề trồng rừng , số phận lại ném mình vào đội quân phá rừng ! Mình có linh cảm người ta đang tàn phá rừng dữ dội và cái Công ty này, cái Lâm trường này được lập ra là để phá rừng !... Trời ơi, thật là loạn ! Thần rừng ơi, ta cầu xin người hãy quật chết những kẻ phá rừng đi !...”
Đến đây, chắc bạn đọc đã biết Trần Thanh Lâm chính là Trần Duy Nhất, anh chàng kỹ sư trồng trọt bị gặp tai bay vạ gió ở ga Đà Nẵng ! Anh ta đã trải qua những tháng ngày khổ ải trong các trại giam như thế nào, thật khó mà kể hết ra được !

 Chương 5

Đội văn nghệ - thông tin tuyên truyền dừng chân bên bờ suối Đăk Linh: Đội gồm bốn người: 1) Võ Hoàng: đội trưởng, soạn các bản tin, giải thích, vận động bà con thực hiện các chính sách, chủ trương của Đảng, đồng thời cũng là cây ghi-ta, sáo; 2) Kso Rin: người Gia Rai, chuyên đánh trống, chiêng và hát bằng tiếng dân tộc; 3) H’Lan: người Ba Na, đánh đàn t’rưng, Klông pút, hát tiếng dân tộc và 4) Trần Thị Hiền Lương: hát bằng tiếng Kinh, ngâm thơ… Cứ đến mùa khô, đội văn nghệ - thông tin tuyên truyền lại “khăn gói quả mướp” lặn lội đến tận các buôn làng xa xôi hẻo lánh để phục vụ văn nghệ và thông tin tuyên truyền. Lần này, đội văn nghệ - thông tin tuyên truyền sẽ đến Plây Đăk Côi, một bản làng rất xa xôi, hầu như không bao giờ được xem biểu diễn văn nghệ, xem phim…

Khi đã mắc võng bạt xong xuôi, Võ Hoàng nói:
- Bây giờ gần tối rồi, chúng ta nghỉ đêm tại đây, sáng mai sẽ hành quân sớm!
Kso Rin nói:
- Tôi nghe già làng bảo Plây Đăk Côi ở gần một khu rừng linh thiêng lắm. Không ai dám vào rừng cả. Những người đi tìm trầm có vào vài lần nhưng không thấy ai trở về!
H’ Lan nói:
- Em lại nghe già làng nói đó là một khu rừng rất đẹp, rất nhiều gỗ quí. Có một câu chuyện cổ nói rằng đó là nơi các nàng Tiên thường đến dạo chơi đấy!
Võ Hoàng ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Tôi cũng nghe nhiều chuyện về khu rừng ấy lắm! Ở đó có suối Đăk Lây Linh rất đẹp phải không?
H’ Lan cười:
- Suối Đăk Lây Linh là suối trong truyện cổ thôi! Đó là chỗ tắm của các nàng Tiên đấy!
Kso Rin cãi:
- Suối Đăk Lây Linh là suối thật chứ đâu phải chỉ có trong truyện cổ. Suối Đăk Lây Linh là suối mẹ của suối Đăk Linh! Suối Đăk Linh đã đẹp như thế này thì suối Đăk Lây Linh còn đẹp hơn nhiều!
Võ Hoàng tán đồng:
- Kso Rin nói đúng đấy! Tôi cũng nghe có người nói vậy. Thế Kso Rin và H’Lan có biết đường tới khu rừng ấy không?
Kso Rin nói ngay:
- Già làng bảo từ Plây Đăk Côi đến khu rừng ấy chỉ có mấy ngày đường thôi!
H’Lan cười:
- Mấy ngày đường thôi! Đi như bay cũng phải mười ngày! Mà không có sẵn đường đâu, phải tự tìm đường mà đi!
Võ Hoàng, Kso Rin và H’Lan đột nhiên im lặng. Hiền Lương từ nãy đến giờ vẫn ngồi nghe, bỗng nói:
- Hay là chúng mình đến khu rừng ấy đi! Cứ đi ngược dòng suối Đăk Linh này là đến suối Đăk Lây Linh của khu rừng ấy!
H’Lan tức thì reo lên:
- Đúng đấy! Chị Hiền Lương nói hay quá! Chúng ta sẽ đi ngược dòng suối Đăk Linh này là đến suối Đăk Lây Linh! Nếu như dòng suối Đăk Lây Linh mà có thật thì kỳ lạ lắm!
- Kỳ lạ làm sao? – Cả Võ Hoàng và Hiền Lương cùng hỏi.
- Bà nội H’Lan bảo, con gái mà được tắm nước suối Đăk Lây Linh thì sẽ đẹp như Tiên ấy, tóc sẽ dài như dòng suối, da sẽ trắng như nước suối! H’Lan xấu quá, H’Lan muốn được tắm nước suối Đăk Lây Linh!
- H’Lan đẹp chứ! – Hiền Lương cười, nói – H’Lan mà xấu thì như thế nào mới gọi là đẹp?
- Như chị Hiền Lương mới gọi là đẹp! – Nói rồi H’Lan nắm tay Hiền Lương – Em với chị đi ngược suối Đăk Linh một đoạn xem sao! Hôm nay anh Hoàng và Kso Rin lo cơm nhé!
Thoáng cái, bóng H’Lan và Hiền Lương đã mất hút!
Vừa nhóm bếp nấu cơm, Hoàng vừa nói chuyện với Kso Rin:
- Kso Rin có thích đến khu rừng ấy không?
- Thích chứ! Hay là ta đừng đến Plây Đăk Côi nữa. Tôi chán đi hát rong mãi thế này rồi! Tôi chợt nghĩ rằng chúng ta sẽ đến cái khu rừng có suối Đăk Lây Linh ấy, nếu ở đấy đất tốt, tôi sẽ ở lại luôn, lập làng mới!
- Lập làng mới ở một mình à?
- Sao lại ở một mình? Tôi sẽ cưới H’Lan! Anh Hoàng cũng ở lại làng mới với tôi đi, anh sẽ cưới chị Hiền Lương!
- Chị Hiền Lương đâu có thích mình. Với lại mình không thể bỏ đội văn nghệ mà đi như Kso Rin được!
- Anh còn tiếc gì cái đội văn nghệ với cái Sở Văn hóa thông tin ấy nữa? Anh làm việc tích cực như thế hơn năm năm rồi mà người ta vẫn “đì” anh, vẫn moi chuyện vài tháng đi lính Ngụy của anh ra! Vậy mà anh vẫn chịu được à?
- Phải chịu thôi chứ biết làm thế nào! Ông giám đốc Sở hứa là sang năm sẽ cho mình đi học Đại học Văn hóa ở Hà Nội!
- Trời ơi! Em nghe cái chuyện ấy từ lâu rồi! Anh đừng có tin lời hứa! Người dân tộc chúng em nói là làm chứ không có hứa không như thế!
- Thế Kso Rin tính bỏ Đội Văn nghệ thật đấy à?
- Thật chứ giỡn à? Em thích trở về với núi rừng. Núi rừng đã sinh ra Kso Rin này thì núi rừng sẽ nuôi Kso Rin. Chứ lương của Sở Văn hóa không nuôi nổi Kso Rin đâu! Các anh cũng có sống nổi bằng lương đâu!

Võ Hoàng im lặng, trầm ngâm. Anh không ngờ chàng thanh niên Kso Rin này đã nói ra đúng ý nghĩ của mình. Là sinh viên Luật mới được một năm, anh bị bắt lính. Vào lính được ba tháng thì giải phóng miền Nam. Sau sáu tháng cải tạo, học tập, anh tình nguyện xung phong đi xây dựng kinh tế mới trên đất Tây Nguyên này, sau đó, vì cái tài đánh đàn ghi-ta, Sở Văn hóa thông tin tỉnh đã xin anh về với cái đội “hát rong” này từ ấy đến nay! Hoàng làm việc say mê và muốn gắn bó với cái Sở Văn hóa này, nhưng nhiều lúc anh thấy buồn và thất vọng quá!
Trời đã sập tối tự bao giờ. Trăng mọc sớm đã treo lơ lửng ở cuối rừng, tỏa ánh sáng xanh dịu, thanh tĩnh, thỉnh thoảng mới vang lên những tiếng gọi đồng loại của các loài muông thú…
Đêm hôm ấy, cả bốn người đều không ngủ được. Kso Rin đang theo đuổi với những dự tính về làng mới ở khu rừng huyền bí có con suối Đăk Lây Linh thơ mộng. Anh chàng say sưa, thỏa mãn với cái ý nghĩ rằng mình sẽ là người lập ra làng mới, uy quyền sẽ lớn hơn cả các già làng, công lao sẽ được truyền tụng tới mãi mãi các đời sau! Còn H’Lan thì đang suy nghĩ xem có nên nhận lời đi lập làng mới với cái anh chàng Kso Rin kia không? H’ Lan từ lâu đã thầm yêu Võ Hoàng, nhưng anh ấy như là không thiết gì đến yêu đương, lúc nào cũng trầm ngâm như ông già! Từ khi Kso Rin được biên chế vào đội văn nghệ này, anh chàng đã mê H’Lan ngay, nhưng H’Lan không nhận lời, H’Lan còn chờ anh Hoàng! Rồi, chờ mãi không được H’Lan đành để cho Kso Rin dẫn đi chơi đêm, nhưng cô chưa chịu để cho Kso Rin chiếm đoạt thân thể mình. Trái tim cô đã dành cho anh Hoàng, bây giờ muốn trao cho Kso Rin thật là khó làm sao!

Đúng lúc ấy, đúng lúc H’Lan không biết làm thế nào thì chị Hiền Lương xuất hiện! H’Lan nghĩ rằng, chị Hiền Lương mặc dù đã có con là thằng Lượng, nhưng chị vẫn còn đẹp quá, chị lại hát hay nữa, chị thật xứng đáng để anh Hoàng yêu hơn là mình. Và thế là H’Lan dứt khoát không mơ tưởng gì đến anh Hoàng nữa! Ban tối nghe Kso Rin nói ý định đi lập làng mới, bỏ Đội văn nghệ, bỏ Sở Văn hóa, H’Lan cũng thấy thích, cũng muốn rủ anh Hoàng và chị Hiền Lương đi nữa. H’Lan nghĩ: ở cái khu rừng thần tiên ấy, chỉ có những người thương yêu, thân thiết sống với nhau thì thật là sung sướng! Nhưng, chị Hiền Lương như là không muốn đi, hay là chị không yêu anh Hoàng? Theo như nhận xét của H’Lan thì anh Hoàng có ý yêu thương chị Hiền Lương lắm, nhưng tính tình anh thận trọng, rụt rè quá, chẳng dám tỏ tình gì cả, không như những đàn ông khác, thích ai là tìm mọi cách để lăn xả vào như hổ đói! H’Lan tính sẽ hỏi thẳng chị Hiền Lương, nhưng không hiểu sao H’Lan lại không nói được! Trong khi H’Lan đang nghĩ về Hiền Lương thì Hiền Lương cũng đang nghĩ về Võ Hoàng. Nhìn Võ Hoàng, Hiền Lương thấy hao hao như anh chàng sĩ quan cảnh sát Nguyễn Gia Cát của cô năm xưa! Tại sao lại có chuyện trùng lặp như vậy? Hay là hồn của chồng cô hiện về nhập vào hình hài cái anh chàng Võ Hoàng luôn u buồn này? Khi nghe Kso Rin nói chuyện đi lập làng mới, Hiền Lương giật mình và có cảm giác như là bàn tay bí ẩn của định mệnh đang vươn ra nắm gáy mình và cả ba người kia xếp vào những chỗ mà không ai có thể nhìn thấy trước được! Nghĩ đến đó, Hiền Lương thấy ớn lạnh, rùng mình sợ hãi! Cô bật ngồi dậy, nói to:

- Anh Hoàng! Anh hát bài gì đi! Tôi sợ quá! Sao mà buồn thế? Không thể nào ngủ được!
Võ Hoàng đang thả ý nghĩ về nơi vô định, như đoán được phần nào tâm trạng của mọi người lúc này, nhất là Hiền Lương, anh liền ngồi ngay dậy, với tay lấy cây đàn ghi-ta, nói nhỏ:
- Tôi sẽ hát thử một đoạn trong ca khúc mới viết. Hiền Lương nghe xem có được không nhé!
Hoàng dạo một đoạn nhạc rồi cất tiếng hát trầm, buồn:
“Đêm trăng sáng!
Ánh sáng lung linh
Dãy núi lắng sâu trong suy tư
Rừng cây thao thức
Đất ba dan đỏ thắm như tình yêu!
Chàng trai Tây Nguyên, ngực trần căng như trái núi
Con gái Tây Nguyên, tiếng hát như dòng suối trong!
Nghe trong mênh mang như tiếng chiêng ngân
Không gian bao la như ánh trăng soi
Núi rừng ơi! Thức dậy!
Ánh trăng soi khắp núi rừng Tây Nguyên!
(Lời bài hát của Phạm Cao Đạt)

Từ bao giờ, Kso Rin và H’ Lan đã bật dậy, nhảy múa theo từng nhịp của bản nhạc và khi Tiếng hát của Hoàng vừa ngừng thì cả hai người cùng hét lên với những động tác vũ điệu mạnh: Hây! Hây! Hây! Hây!
Cả khu rừng tĩnh lặng phút chốc như rùng mình chuyển động, ánh trăng như tan ra, vỡ vụn ra rồi cuồn cuộn và tuôn chảy như thác!
Cái làng Đăk Côi xa xôi hẻo lánh kia sẽ chẳng bao giờ được đón tiếp đội văn nghệ-thông tin tuyên truyền của Võ Hoàng vì họ đã quyết định đi ngược con suối Đăk Linh để tới khu rừng có con suối Đăk Lây Linh, để lập làng mới!
Riêng Hiền Lương, cô vẫn không khỏi dằn vặt, day dứt khi nghĩ về thằng Lượng, đứa con rất mực yêu thương của cô đang phải gởi ở thị xã và nó thì ngày đêm mong mẹ về! Mặc dù Võ Hoàng đã nói sẽ trở lại thị xã đón thằng Lượng bằng mọi cách nhưng Hiền Lương vẫn chưa yên tâm. Khi nghĩ đến tuổi thơ của mình, cô lại trào nước mắt: chẳng lẽ con mình cũng phải chịu cảnh lênh đênh phiêu bạt ngay từ bé như mình hay sao? Chẳng lẽ nỗi khổ đau của người mẹ còn truyền lại cho cả đời con hay sao?
Sau một tuần luồn rừng lội suối, bốn người đi lập làng mới đã tới cái thung lũng nhỏ nơi lâm trường Sơn Thủy Tận đã đóng đại bản doanh. Gọi là lâm trường, nhưng lúc này chỉ còn có năm người, đang sống lay lắt trong cái cảnh gần cạn lương thực và bị sốt rét hành hạ, trong số đó có Trần Thanh Lâm. Khi gặp nhau, cả hai bên đều giật mình kinh ngạc, ngỡ ngàng! Tốp của Võ Hoàng thì cứ ngỡ đó là ma quỷ hiện về, còn tốp của Trần Thanh Lâm thì lại tưởng rằng đó là các vị thần tiên từ trên trời hạ giới!
Sau khi nghe Trần Thanh Lâm nói về tinh cảnh thê thảm của lâm trường Sơn Thủy Tận, người thì chết vì bệnh tật, người thì bỏ trốn, công ty mẹ không tiếp tế lương thực, Võ Hoàng đã đem một phần lương thực ít ỏi của mình ra “chiêu đãi” những người đang nằm chờ chết đói này. Bữa ăn tuy không linh đình nhưng ngoài sức tưởng tượng của năm con người bất hạnh kia, khiến họ tỉnh lại và hồi phục nhanh chóng như được uống thuốc tiên! Song, với Trần Thanh Lâm, điều hấp dẫn đối với anh không chỉ là bữa ăn mà là những câu trò chuyện với bốn người kia. Anh cảm thấy bên trong họ là những điều kỳ lạ như những câu chuyện cổ. Anh chàng Võ Hoàng trầm mặc như nhà hiền triết thời xưa. Chàng thanh niên Kso Rin như là trang dũng sĩ trong những bản trường ca cổ hiện về. Còn H’Lan, đúng là người con gái kỳ diệu của núi rừng, cô như là làn suối, thoắt cái đã như thác đổ! Riêng Hiền Lương, anh như thấy trong từng dáng nét, cử chỉ đều chứa đựng những điều bí ẩn! Nghe họ nói về dự định đi lập làng mới, Thanh Lâm thầm thán phục ý nghĩ táo bạo nhưng rất đẹp của họ. Anh cũng muốn nhập vào cuộc hành trình rất lãng mạn nhưng đầy gian lao của họ, nhưng khi nhìn bốn “lâm trường viên” còn sót lại kia đang ăn ngốn ngấu, anh không biết nên làm thế nào bây giờ? Chừng như đoán được ý nghĩ của anh, một người ngừng ăn, nói:

- Nếu anh Lâm thích, anh cứ đi với những người lập làng mới đi! Chúng tôi sẽ trở về thành phố. Cuộc sống giang hồ của dân bụi đời chúng tôi không thể xa chốn thành thị được! Ở nơi rừng núi, chúng tôi sẽ chết đói! Chúng tôi sinh ra trên hè phố thì phải bám lấy hè phố mà sống chứ!
- Đúng đấy! Chúng ta giải tán cái lâm trường này đi! Mà nó cũng đã tan thành cát bụi từ mấy tháng nay rồi! Chúng tôi thấy chân tay cứng cáp lên rồi, có thể đủ sức dông được rồi! Anh cứ đi theo họ, chúng tôi cho cái đại bản doanh lâm trường này một mồi lửa là xong!
Tốp Võ Hoàng lại tiếp tục đi ngược con suối Đăk Linh. Ai cũng có cảm giác như là nhặt được báu vật khi Trần Thanh Lâm đã quyết định đi theo. Kso Rin và H’Lan vô cùng ngạc nhiên khi thấy cái anh chàng người Kinh ốm yếu và rụt rè này lại đi bộ rất khỏe và am hiểu tường tận từng loài cây cỏ của rừng núi quê hương mình. Vừa đi đường, Lâm vừa nói cho Kso Rin và H’Lan nghe về giá trị của từng loại lá rừng, cây rừng. Càng nghe, Kso Rin và H’Lan càng thấy núi rừng thật là kỳ lạ. Thì ra còn bao nhiêu điều bí ẩn của núi rừng mà con người chưa thể khám phá hết. H’Lan xúc động quá, cô cất tiếng hát một bài dân ca mà cô thuộc từ nhỏ nhưng không hiểu tại sao lời ca của nó lại như thế:

“Ơ! Rừng ơi!
Sao mà rừng lắm phép lạ?
Rừng nuôi sống muôn loài
Chiếc lá rừng chữa lành vết thương tráng sĩ
Con suối rừng hát mãi những bài ca
Con gái lội xuống suối
Bắp chân sáng lòe như ánh chớp
Con gái bơi theo dòng suối
Bộ ngực trắng ngần vang tiếng chiêng ngân!

Dòng suối Đăk Linh như nghe được tiếng hát trong trẻo của H’Lan, nó như ngừng chảy để thu vào lòng nó tiếng hát ấy rồi đem đi khắp cao nguyên bao la.
Bốn lâm trường viên cuối cùng còn lại vốn là những tay anh chị nổi tiếng từ thời Mỹ ngụy. Đó là: Hội cụt, Hà sẹo, Cao mặt rỗ và Cam cà lăm. Sau khi những người đi lập làng mới đi rồi, cả bọn no nê đánh một giấc ngủ như chết, đến nửa đêm mới tỉnh lại. Hội cụt tỉnh dậy trước tiên. Vốn là một thằng đàn ông dâm đãng, Hội cụt sờ đũng quần nhớp nháp mà tiếc ngẩn ngơ cuộc giao hoan trong mộng với cô gái Tây Nguyên hiện ra bên dòng suối lúc trưa. Khi ngồi ăn cơm, nhìn bộ ngực căng phồng cửa H’Lan, hắn đã muốn nhào tới mà cắn cấu! Nhưng cái đói đã lôi cuốn hắn trước… Bây giờ đây, nghĩ lại càng thấy tiếc và tự rủa mình tại sao lại để lỡ một cơ hội như thế! Hội cụt bật dậy, hắn vung chân múa tay chửi thề một hồi rồi phóng lửa đốt liền cả mấy căn lều của lâm trường Sơn Thủy Tận. Lửa bùng lên, phút chốc ngọn lửa đã chùm kín mấy căn liều ọp ẹp khiến cho ba thằng kia bật dậy, hoảng hốt, ngơ ngác. Hội cụt phá lên cười:
- Hỏa công! Muốn đánh Tào công, phải dùng hỏa công! Đù má thằng Tào Thứ, nó đẩy anh em mình vào chỗ chết để nó làm giàu! Thế nào rồi tao cũng phải cắt dái lão già dê cụ ấy!
Cả ba thằng kia đã hoàn hồn, nhăn nhở cười, bu quanh Hội cụt:
- Giờ sao anh Hai? No rồi, sống rồi, đủ sức chiến đấu rồi, anh hai ra lệnh đi để đàn em hành sự!
Hội cụt múa một đường quyền, hét “hây a…” một tiếng rồi xoạc chân đứng tấn, mắt trợn lên hét to:
- Đuổi theo! Thịt ngay ba thằng đực ấy và ăn gỏi hai con bé!

Lập tức, cả bốn thằng tay dao, tay gậy lao theo hướng đi của tốp Võ Hoàng…
Phải đến trưa hôm sau, bọn Hội cụt mới đuổi kịp tốp Võ Hoàng. Lúc đó, tốp của Hoàng đang dừng lại nghỉ chân bên bờ suối. Hoàng và Lâm ngồi nhóm lửa nấu cơm, Kso Rin vác ná đi kiếm thịt rừng, còn H’Lan và Hiền Lương đang tắm giặt ở một khúc suối phía dưới. Lúc H’Lan và Hiền Lương giặt rũ xong, phơi quần áo trên bụi cây và đang nô giỡn với nhau trong dòng suối thì cũng là lúc từ khúc suối phía dưới, bọn Hội cụt đang lần mò đi lên. Chỉ còn cách chưa đầy trăm mét, bọn Hội cụt đã nghe thấy tiếng cười rúc rích của H’Lan và Hiền Lương. Bước thêm vài bước, cả bốn thằng bàng hoàng, sững sờ khi nhìn thấy rõ mồn một hai tấm thân mịn màng, trắng muốt của H’Lan và Hiền Lương đang lượn lờ trên dòng nước trong vắt. Cả bốn thằng cùng trố mắt ra nhìn như muốn lòi con ngươi, mồm nuốt nước miếng ừng ực, mặt như ngây, như dại! Được một lúc, dường như đã no con mắt, chúng rón rén bò đến chỗ hai người con gái đang tắm, mắt vẫn căng ra, hau háu…

Kso Rin, sau khi bắn được một con gà rừng, đang tìm đường trở về. Do nhắm chệch hướng, Kso Rin đã trở lại hướng con suối vào đúng chỗ bọn Hội cụt nhìn thấy H’Lan và Hiền Lương đang tắm! Kso Rin giật thót người, suýt kêu lên khi nhìn thấy bọn Hội cụt đang dao, gậy lăm lăm trong tay, bò ngày càng nhanh ngược lên dòng suối. Nhìn lên phía trên, Kso Rin thấy H’Lan và Hiền Lương vẫn đang mải nô giỡn, bơi lội, không hề hay biết gì cả! Như có lửa bốc lên mặt, như có thác đổ trong ngực, Kso Rin dương ná, lắp tên nhằm mặt một thằng gần nhất lẩy cò! Mũi tên lao vút đi, cắm phập vào mắt phải của Hội cụt! Hội cụt ôm mặt rú lên, ngã đổ vật ra phía sau. Ba thằng kia bật dậy, đang còn bàng hoàng, ngơ ngác đảo mắt nhìn quanh thì một mũi tên nữa lao vút tới, cắm phập vào cổ Hà sẹo! Hà sẹo bật đổ xuống, tiếng kêu bị tắc ở cổ, theo dòng máu phun ra ằng ặc! Cao mặt rỗ và Cam cà lăm khiếp đảm quay đầu chạy thục mạng, nhưng một mũi tên nữa bay vút theo cắm phập vào lưng Cao mặt rỗ khiến hắn ngã dập mặt xuống đất! Kso Rin còn chạy đuổi theo một đoạn nhưng Cam cà lăm vốn nhanh chân đã mất hút sau rừng cây um tùm!
Cam cà lăm chạy mãi, chạy mãi… Hắn chạy đến chỗ đại bản doanh của lâm trường Sơn Thủy Tận thì cũng là lúc hắn kiệt sức, ngã đổ vật xuống bãi tro tàn ngổn ngang… Hắn nằm chết lịm hồi lâu thì ông Thứ cùng đoàn tùy tùng xuất hiện. Nhìn quang cảnh ấy, ông Thứ rụng rời chân tay, mặt nghệt ra hồi lâu. Khi thấy Cam cà lăm cựa mình ú ớ, ông Thứ mới chạy lại dựng Cam cà lăm lên, hỏi dồn:
- Tại sao? Tại sao lại như thế này? Đi đâu hết cả rồi?
Cam cà lăm mở mắt, ánh mắt đờ đẫn, như không nhận ra ông Thứ, như tưởng là Thần Chết đến bắt mình, hắn hốt hoảng giằng ra và ú ớ:
- Phu…un..rô…ô…ô…
- Phun rô làm sao? – Ông Thứ hét vào tai hắn.
- Phun …rô…bắn…chết…ết…hết rồi!
Một người lấy nước đổ vào mặt Cam cà lăm. Hồi lâu, hắn mới hoàn hồn và nhận ra ông Thứ - phó giám đốc Công ty khai thác rừng kiêm giám đốc Lâm trường Sơn Thủy Tận! Nhưng, quá mệt mỏi và sợ hãi, hắn lại thiếp đi, mồm lẩm bẩm “Phun-rô! Chết… hết rồi!”. Ngần ngừ giây lát, ông Thứ ra lệnh:
- Rút về ngay Công ty! Tập hợp lực lượng tự vệ, súng ống sẵn sàng! Điện ngay cho ban chỉ huy quân sự tỉnh, xin lực lượng truy quét Phun-rô hỗ trợ!

Khi ông Thứ và đoàn tùy tòng về đến trụ sở Công ty khai thác rừng, lập tức Đại Đức triệu tập cuộc họp ban lãnh đạo công ty mở rộng. Cuộc họp đã nhanh chóng nhất trí nhận định tình hình với những sự biến lớn ở lâm trường Sơn Thủy Tận và đã thảo ra bức công văn gửi Sở Lâm nghiệp đồng kính gửi Ban chỉ huy quân sự tỉnh như sau:
“… Lâm trường Sơn Thủy Tận thuộc Công ty khai thác rừng sau một thời gian làm ăn đầy hứa hẹn đã bất ngờ bị một toán Phun-rô (ước chừng khoảng gần đại đội) tấn công dữ dội. Do lực lượng Phun-rô quá lớn, do anh em lâm trường viên lao động quá mệt mỏi, do bị đánh bất ngờ, lâm trường đã bị tổn thất lớn: gần một trăm người đã thiệt mạng, toàn bộ tài sản trang thiết bị trị giá một tỉ đồng đã bị bọn Phun-rô cướp sạch, toàn bộ nhà cửa lâm trường trị giá năm triệu đồng bị bọn Phun-rô đốt sạch! Khi rút quân, bọn Phun-rô còn bắt theo một số người (cũng có khả năng những người này đầu hàng và theo Phun-rô) trong đó có phó giám đốc lâm trường Trần Thanh Lâm. Hiện nay, theo phán đoán của chúng tôi, bọn Phun-rô đang đóng quân ở dòng suối phía trên lâm trường bộ Sơn Thủy Tận khoảng từ 3 đến 5 kilômét! Vì vậy chúng tôi kính đề nghị các đồng chí kịp thời giúp chúng tôi tiêu diệt bọn Phun-rô để lâm trường Sơn Thủy Tận tiếp tục hoạt động, hoàn thành chỉ tiêu khai thác gỗ mà cấp trên đã giao cho!
Ký tên: Giám đốc Lâm trường Sơn Thủy Tận, kiêm phó giám đốc Công ty khai thác rừng: Tào Văn Thứ. Giám đốc Công ty khai thác rừng: Đại Đức.”

Hai ngày sau khi công văn hỏa tốc trên được gửi đi, Ban chỉ huy quân sự tỉnh đã cử một đội truy quét Phun-rô tới Công ty khai thác rừng. Ông Đại Trí, giám đốc Sở Lâm nghiệp bỏ cuộc họp quan trọng về bảo vệ rừng toàn quốc đã đi cùng với lực lượng truy quét Phun-rô xuống công ty vì đây là “công ty chủ bài” của Sở trong kế hoạch xuất khẩu gỗ những năm tới. Sau ba ngày hành quân, đội truy quét Phun-rô vẫn không tìm thấy dấu vết của lực lượng Phun-rô lớn. Trong khi đó, Ban chỉ huy truy quét Phun-rô lại nhận được điện của huyện biên giới xin chi viện gấp vì hai đồn biên phòng thuộc huyện đang bị Phun-rô liên kết với bọn phản cách mạng tấn công! Đội truy quyét Phun-rô được rút về, trao lại nhiệm vụ cho lực lượng tự vệ của công ty. Lực lượng tự vệ của Công ty có tiếp tục tìm đánh bọn Phun-rô hay không, Ban chỉ huy quân sự tỉnh không thấy ông Tào Văn Thứ và ông Đại Đức gửi công văn báo cáo gì cả!
Võ Hoàng, Trần Thanh Lâm, Kso Rin, Hiền Lương và H’Lan sau khi chôn cất Hội cụt, Hà sẹo và Cao mặt rỗ, lại tiếp tục đi ngược con suối Đăk Linh. Không ai bảo ai, nhưng tất cả đều nghĩ, phải đi thật nhanh, đi thật nhanh cho tới con suối Đăk Lây Linh có phép màu nhiệm!
Họ đi được năm ngày nữa thì gặp ngã ba suối: phía trước mắt, con suối vẫn như từ trong xanh thẳm chảy ra không hề ngưng nghỉ, một nhánh chảy về hướng họ đi lên, một nhánh chảy về hướng tây, lòng suối nhỏ hơn đôi chút. Vừa nhìn thấy ngã ba suối, H’Lan đã kêu lên:
- Tới suối Đăk Lây Linh rồi! Trong truyện cổ nói là suối Đăk Lây Linh chảy đến chỗ có cây hoa Pơ lang già thì rẽ làm hai, một nhánh chảy về hướng tây gọi là suối Đăk H’Lây, nhánh chảy về hướng đông mà chúng ta đã đi theo gọi là Đăk Linh! Tại sao không nhìn thấy cây hoa Pơ lang già nhỉ?
Kso Rin nói :
- Chắc là cây hoa Pơ lang già đã chết rồi còn gì?
Nếu thế thì phải có vài cây hoa Pơ lang khác mọc lên thay thế nó chứ? Loài hoa Pơ lang cũng như người Tây Nguyên ấy, già chết đi là phải có con cháu chứ?
Võ Hoàng nói:
- Ta cứ dừng chân nghỉ tại đây đã, rồi sẽ đi tìm cây hoa Pơ lang!
- Đúng đấy! Chúng ta sẽ cử hai người đi về hai hướng suối xem thế nào?

Sau khi hạ trại, Trần Lâm đi ngược theo suối Đăk Lây Linh, Võ Hoàng đi theo hướng con suối Đăk H’Lây, H’Lan và Hiền Lương nấu cơm, còn Kso Rin lại trổ tài đi kiếm thịt rừng! Trần Lâm đi được khoảng một giờ đồng hồ thì anh đã nhìn thấy thấp thoáng từ xa một cây hoa Pơ lang đỏ ối. Đến bên cây hoa Pơ lang, Lâm mới giật mình khi thấy cây Pơ lang đã là một cây cổ thụ khác thường: thân nó phải mười người ôm không hết! Lâm nhìn kỹ xung quanh, về hướng tây, hiện lên dấu vết một dòng suối đã khô cạn từ lâu! Có lẽ đây mới là cái ngã ba suối mà H’Lan nói chăng? Đi ngược suối một đoạn nữa, Lâm thấy lòng suối mở rộng ra hơn, cây cối cũng có vẻ thưa ra, và trong làn gió thoang thoảng có nhiều mùi hương lạ. Lâm thấy rộn lên trong người một cảm giác bồn chồn. Linh tính như mách bảo với anh rằng anh đang đi đến một vùng rừng có sự sống của con người! Vừa mới thoáng nghĩ như vậy, Lâm đã thấy hiện ra ở một khúc suối trước mặt một người con gái đang thả mình trôi theo dòng trong veo! Thân hình người con gái như hòa vào dòng nước, lấp lánh, lấp lánh ánh bạc! Người con gái vụt đứng dậy, ngấn nước chỉ tới bắp đùi, lộ rõ cả thân hình cân đối, mịn màng. Cô gái vòng tay ra sau gáy cuốn lại mớ tóc đen nhánh để lộ rõ một khuôn mặt thanh tú, xinh đẹp vừa có nét người Kinh vừa có nét người Thượng. Dường như định tiếp tục nhoài người ra để bơi theo dòng nước, cô gái bỗng sững lại, hai tay ôm lấy bộ ngực tròn, thở gấp, hoảng sợ nhìn quanh quất. Thấy vậy, Lâm ngồi thụp xuống sau bụi cây, hoảng sợ như người có tội. Anh úp hai tay vào khuôn mặt nóng bừng và nghĩ: Ta đâu có chủ ý nhìn trộm em tắm! Cầu trời cho em đừng nhìn thấy ta! Và Lâm ngồi bất động như vậy sau lùm cây với những ý nghĩ kỳ lạ bay lượn trong đầu!

Lâm ngồi như vậy khá lâu và có cảm giác như vừa qua một giấc mộng kỳ lạ, không đầu không cuối! Bằng một động tác vô thức, Lâm đứng dậy, vươn vai căng lồng ngực hít một hơi dài cái không khí trong lành, mát dịu… Nhưng khi anh vừa định thần lại, mở mắt ra thì thấy người con gái ấy đã đứng ngay trước mặt anh, nhìn anh bằng ánh mắt trìu mến, khóe miệng khẽ mỉm cười! Lâm nói mà không ý thức được là mình nói gì:
- Em là ai vậy? Ta lạc vào động tiên chăng?
- Em không phải là Tiên đâu!
- Vậy thì em là Hồ ly tinh hóa thành con gái trêu chọc ta ư?
- Hồ tinh là gì? Em đâu trêu chọc anh!
- Vậy em để cho ta đi! Đừng nhìn ta như thế!
- Không được! Em đã có lời nguyền rằng người đàn ông nào nhìn thấy thân thể em lúc tắm, em sẽ là vợ người ấy!
Khi Lâm ý thức được rõ ràng sự tồn tại của mình, anh mới nhận ra rằng, từ nãy đến giờ, cô gái vẫn để nguyên thân hình trinh trắng mà đứng trước anh! Và, anh thấy mình như bay lên đám mây vàng khi cô gái tiến lại bên anh!

Võ Hoàng, Kso Rin, Hiền Lương và H’Lan đều vô cùng kinh ngạc khi thấy Lâm đi cùng người con gái xinh đẹp trở về ngã ba suối. Phải một lúc lâu, sau khi đã ngắm kỹ người con gái kỳ lạ ấy, H’Lan mới reo lên:
- Ôi! Giàng ơi! Thế là chúng ta đã đến Play Đăm Khinh! Play Đăm Khinh do chàng Đăm Khinh lập ra! Còn người con gái xinh đẹp này là con cháu của chàng Đăm Khinh và nàng H’Bia?
- Chàng Đăm Khinh và nàng H’Bia là người trong truyện cổ. Còn tôi là H’Linh, bố tôi là người Kinh, mẹ tôi là H’Bnhi! Làng của chúng tôi là Đăk Linh Giang!- người con gái từ tốn nói…

 Chương 6

Đã sang mùa mưa được hơn một tuần. Bầu trời cao nguyên vốn cao xanh lồng lộng mà lúc này ướt sũng . Từng đám mây nặng trĩu thay nhau trút nước. Nước dâng đầy các thung lũng vốn khô cạn, nước ngập tràn các con suối, dòng sông . Những vạt đồi, mảnh vườn hoang vu xơ xác trong mùa khô giờ đã xanh um, các loại cây cỏ đua chen nhau thành một màu xanh chằng chịt, rối mù che kín mặt đất ẩm ướt…Mùa mưa tới, tổ sưu tầm văn học dân gian của Cúc không thể đi điền dã được. Các thành viên trong tổ phần lớn là người dân tộc, cho nên họ được “chế độ” làm việc tự do, mỗi tuần chỉ tạt qua cơ quan một lần, có khi chỉ đến kỳ lương mới thấy ló mặt ! Công việc sưu tầm văn học dân gian tuy có được đốc thúc, nhắc nhở những vẫn ì ạch lắm !...

Trong phòng làm việc của tổ sưu tầm văn học dân gian, Cúc đang ngồi một mình đọc lại và sửa sang các bản chép tay trong các đợt điền dã trước đây. Đã có thể tập hợp lại để đem in thành sách một tập truyện cổ, một tập dân ca và một trường ca của người Ba Na. Vừa nhìn mưa rơi như giăng lưới, Cúc vừa lật đi lật lại bản thảo tập truyện cổ. Có đến năm cái truyện đều nói về khu rừng thiêng có con suối mang tên Đăk Lây Linh, có nhiều chi tiết giống nhau mà lại do nhiều người ở những buôn làng khác nhau, dân tộc khác nhau kể lại. Hiện tượng này cũng thường xảy ra trong văn học dân gian ở các nơi khác, nhưng điều khiến cho Cúc ngạc nhiên là đằng sau cái màu sắc huyền thoại của câu chuyện có những tình tiết miêu tả hiện thực rất chính xác, nhất là vị trí địa lý của khu rừng, vị trí và hướng chảy của con suối Đăk Lây Linh. Cúc đọc đi đọc lại lời bài ca của chàng Đăm Khinh hát khi mùa mưa tới, con suối cạn có con đường dẫn tới nhà nàng H’Kim đã bị dòng nước lũ ngăn cản :

“Khi mùa mưa tới, mùa mưa tới
Đường sang nhà em nước ngập tràn
Suối khô thoắt đã ầm thác dội
Suối chảy về đâu ? Mặc suối về đâu !


Cúc đọc tiếp : “Đã mấy lần, chàng Đăm Khinh cố bơi qua dòng suối nhưng nước cuộn chảy băng băng cuốn phăng chàng đi, hất tung chàng trở lại. Mỗi lần như vậy, chàng Đăm Khinh lại ngồi hát bài ca của mình ! Thấy vậy, nàng H’Kim đã ném những hòn đá vàng rực xuống dòng nước. Chẳng mấy chốc, những hòn đá có phép lạ ấy đã xếp cao thành đống cao ngất, chặn đứng dòng nước hung dữ và bắt nó phải chảy theo hướng khác. Nhờ đó, chàng Đăm Khinh mới tới được nhà nàng H’Kim…”.

Tại sao những hòn đá ở nhà nàng H’Kim lại có màu vàng ? Cúc vẩn vơ suy nghĩ một hồi rồi lấy sổ nhật ký ra. Ghi nhật ký hàng ngày và thỉnh thoảng ngồi đọc lại những trang nhật ký là một thói quen của Cúc từ ngày còn là học sinh phổ thông . Cúc gọi đó là cuốn “Biên niên sử cuộc đời”, trong đó, Cúc không chỉ ghi những chuyện của mình… Trời vẫn mưa tầm tã, Cúc lần giở từng trang nhật ký ra đọc…

Ngày…tháng…năm : Hôm nay, có ông tên là Đại Trí, Giám đốc Sở Lâm nghiệp sang tìm gặp mình. Ông ta nói có thời đã từng là lính của bố mình. Nhân vừa rồi có người của Sở Công an sang nhờ ông lưu ý tìm xem trong các lâm trường, các đội khai thác rừng có anh chàng nào tên là Trần Duy Nhất, quê ở làng Dạ Huyết hay không ? Ông ta bảo, làng Dạ Huyết cũng là nơi ông ta đã sống một thời. Vì thế, ông ta đã cho người đi hỏi tìm, nhưng không có ai là Trần Duy Nhất cả. Chỉ có cái thông báo của Trường Đại học Lâm nghiệp sẽ điều động một số sinh viên mới ra trường vào Sở công tác, trong đó có tên cái anh chàng Trần Duy Nhất đó. Nhưng phòng tổ chức nói là không thấy anh ta đến trình diện. Ông ta hỏi tại sao mình lại cất công đi tìm cái anh chàng vô danh tiểu tốt ấy làm gì ? Mình suýt cáu lên với ông ta. Nhưng thôi, ông ta làm sao mà hiểu được tại sao ?

Ngày …tháng …năm : Hôm nay ông Đại Trí lại đến. Ông ta bảo ông nghe được rất nhiều chuyện cổ tích, lúc nào sang nhà ông ta, ông sẽ kể cho mà nghe, chẳng phải mất công đi sưu tầm ở tận đâu đâu. Mình tưởng thật, ngay chiều, sang chỗ ông ta. Thì ra ông ta nói láo, đấy chỉ là cái cớ để ông ta rủ mình đến chơi. Cuối cùng, ông ta mới thò cái ý định ra là muốn giới thiệu mình làm quen với con trai ông ta , cũng là người quê ở làng Dạ Huyết, tên là Đại Đức, hiện là giám công Công ty khai thác rừng. Mình chúa ghét cái trò mối lái vớ vẩn này, nhưng nghe thấy anh ta cũng là người làng Dạ Huyết, đồng hương với cái anh chàng mà mình đang tìm kiếm, nên mình tính cũng thử gặp anh ta xem sao ? Khi gặp cái anh chàng Đại Đức, mình mới biết anh ta chính là con nuôi của bố anh chàng Trần Duy Nhất. Dù sao thì hai người cũng là anh em với nhau. Mình cứ suy nghĩ mãi về cái sự lạ lùng này :không tìm thấy Trần Duy Nhất mà lại gặp người anh em của anh ta? Điều này nói lên cái gì? Hay là số phận không cho mình tìm thấy Trần Duy Nhất mà lại đẩy cái anh chàng Đại Đức này đến với mình? Nhưng, không hiểu sao, mình không thấy có thiện cảm với cái anh chàng Đại Đức này. Anh ta được du học nước ngoài, có chức vị ngon lành, cư xử có vẻ lịch sự (theo lối sang trọng, trưởng giả) nhưng bên trong ánh mắt anh ta, mình lờ mờ đọc thấy được những điều không trong sạch, có vẻ mờ ám. Nhìn anh ta, mình lại nghĩ: có phải chức tước cao sang, cuộc sống quá đầy đủ về vật chất đã khiến cho tâm hồn người ta u tối đi? Tại sao tạo hóa lại đánh đố thế nhỉ, tại sao ở những người lam lũ vất vả mình lại nhìn thấy ánh mắt sáng trong, cao thượng còn ở những người được tín nhiệm, đề cao một cách hợp pháp thì lại ẩn chứa sự đê tiện?

Chính vì có ác cảm với Đại Đức nên mình đã luôn đề phòng hắn và mình đã thoát được một âm mưu rất đen tối của hắn . Tối nay, hắn tổ chức sinh nhật và khẩn khoản mời mình tới dự. Hắn sợ mình không đến nên đã cho người đem xe đến và cứ như lôi mình ra xe vậy ! Buổi tiệc thật là đông đúc, có mặt gần hết các vị có trọng trách ở các Ban, ngành trong tỉnh. Mình bị nài ép uống bia nhiều quá đến mức mình sinh nghi sự nhiệt tình của những người cứ bám lấy mình mà mời mọc, chúc tụng . Bia lon ngoại ê hề, ngổn ngang, đổ lênh láng ra sàn nhà…Thì ra Đại Đức đã bố trí ba bốn cô gái ra bộ thân thiết, chị chị em em để đổ cho mình xỉn. May mà mình chỉ giả bộ nhấp môi rồi lén đổ đi nên vẫn tỉnh táo, vẫn có thể quan sát toàn bộ căn phòng nhốn nháo đang ngập trong bia rượu…Khi chiếc cát-xét hai loa ré lên những điệu nhạc dậm giật và đã có vài đôi nhảy múa cuồng loạn thì mình nghe Đại Đức nói nhỏ với mấy cô gái đang đổ bia cho mình : “Chắc là cô nàng xỉu rồi, kéo vào phòng cho anh, xịt chút ê – te rồi khóa cửa buồng lại nhé ! Các em sẽ có thưởng !...” Lúc đó mình đâu có xỉn, chỉ hơi khó chịu vì tiếng nhạc chói tai, vì mùi bia nồng nặc nên mình nằm gục xuống để từ chối không uống nữa. Vừa nghe Đại Đức nói vậy, máu nóng bốc lên mặt như lửa đốt, mình cầm ngay cái đĩa to trên bàn, ném vút vào bộ mặt đỏ rần của hắn và la lên:”Quân đểu giả! Đồ mất dạy!”. Hắn sững người, ôm mặt thì máu đã túa ra đỏ lòm cả khuôn mặt to bự!...Mình chạy vút ra ngoài, hắn đuổi theo nhưng bị vấp ở cửa, ngã nhào xuống sân. Mình chạy ra khỏi cổng và bỗng nghe thấy tiếng gầm rít như tiếng của quỷ sứ từ dưới âm phủ vọng lên:”Đù má con ranh!...Tao quyết lột truồng được mày!...”…

-Ngày…tháng…năm… : Không hiểu sao, sáng nay mình bị lên cơn sốt dữ dội, phải vào bệnh viện tỉnh, đến quá trưa mới thấy thanh thản đôi chút. Mình cứ bị ám ảnh hoài bởi câu nói đe dọa kia. Bây giờ đây, mình mới hiểu phần nào sự khổ hạnh của những con người luôn luôn bị tai họa rập rình, đe dọa ! Có phải chăng ai cũng bị tai ương đe dọa, rập rình ? Làm sao để xua đuổi tai họa rập rình đó ? Làm sao để thoát khỏi nó ?

Tối nay, mình được nghe chị Hoa, y tá trực phòng mình kể bao nhiêu là chuyện bê bối của các vị quan chức trong tỉnh, nghe mà cứ ngỡ là chuyện của thời phong kiến thối nát ngày xưa ! Càng nghe, càng thấy buồn, chán ! Thế là những quan niệm của mình về xã hội, về cuộc đời bị đảo lộn hết cả !...Khi mình nói cho chị Hoa biết buổi lễ sinh nhật và câu nói đe dọa ấy, chị giật mình thảng thốt, ôm chặt lấy mình, ràn rụa nước mắt hồi lâu rồi mới nói : “Chị chính là nạn nhân của cả hai bố con hắn đó ! Trước đây, chị là công nhân lâm trường . Chị hát hay nên được chọn vào đội văn nghệ của ngành lâm nghiệp. Khi chị tập trung tham gia hội diễn ở Sở, chị bị cả hai bố con nó lừa gạt chiếm đoạt đời con gái chị !...” Mình hét lên : “Sao chị không lôi chúng nó ra tòa ! Không đập vào mặt chúng nó ?”. Chị Hoa lau khô nước mắt nói bình thản : “Đâu có dễ như em nói. Chị là dân đen thấp cổ bé họng nói ai nghe ? Số phận mình trong tay họ cả ! Chị đành âm thầm chịu đựng để xin họ cho đi học y tá. Làm y tá cũng cực nhưng công nhân lâm trường còn cực gấp trăm ngàn lần ! Phải đánh đổi như vậy thôi em ạ !...Con nhỏ em chị cũng vậy . Nó muốn thoát khỏi cảnh làm ruộng chân lấm tay bùn nên đành phải giao thân cho một ông ở Ban tổ chức tỉnh. Giờ nó được làm văn thư đánh máy ở Văn phòng ủy ban ấy !...” Mình lại hét lên : “Trời đất ! Còn những người không chịu đánh đổi thì sao ?”. Chị Hoa không nói gì, chỉ nhìn mình ngập ngừng rồi bỏ đi !...

Ngày …tháng…năm : Tối nay, ngập ngừng mãi chị Hoa mới nói với mình : “Cúc ơi ! Chị quí em, với lại chị cũng biết em là con ông lớn ở ngoài Hà Nội, chị mới nói với em điều này : Thằng Đại Đức ấy, nó đưa chị một chỉ và bảo chị bỏ thuốc mê cho em uống rồi khóa cửa buồng ngoài ngồi canh cho nó làm nhục em !”

“Trời ! Vậy chị nói sao ? – mình hốt hoảng hỏi”. Chị Hoa nói : “Chị chưa nói gì, nhưng chị sợ nó lắm ! Nó thân với Bác sĩ trưởng khoa, nếu trái ý nó, nó nói với Bệnh viện đuổi việc chị !” Mình hét lên : “Không được ! Không thể như thế được ! Em sẽ lôi cổ nó ra tòa !” Chị Hoa nói : “Em không lôi được đâu ! Em phải viết thư cho bố em, kêu bố em vào mới trị nổi hắn ! Ở tỉnh này, thế lực hắn mạnh lắm !”. Mình đã định đi đánh điện ngay cho bố nhưng khi nghĩ lại rằng, mình đã thề không bao giờ dựa vào thế lực của bố trong cuộc sống, nên lại thôi ! Có lẽ sáng mai mình xin ra viện ! Mình sẽ đi đến các bản làng để sưu tầm văn học dân gian ! A ! Đúng rồi, mình sẽ đi tìm con suối Đăk Lây Linh để làm rõ những câu chuyện cổ về con suối này, và cả khu rừng huyền bí kia nữa!
Có thể cái chuyện “Sự tích suối Đăk Lây Linh” sẽ là một đề tài nghiên cứu thú vị về truyện cổ dân gian, giống như truyện Tấm Cám của người Kinh vậy !...Phải đi ngay, phải tránh xa bọn mặt người dạ thú này !...
Khi Cúc đề nghị đi điền giã vùng rừng có con suối Đăk Lây Linh để tìm hiểu thêm những dị bản về chuyện “Sự tích suối Đăk Lây Linh” thì không ai hưởng ứng cả ! Những thành viên của tổ sưu tầm đều tỏ ra không sốt sắng lắm với cái công việc khó khăn và đơn điệu, tẻ nhạt này. Họ chỉ tranh thủ đi hỏi chuyện những người ở quanh thị xã và các thị trấn nếu tiện dịp. Cúc đề nghị ông Giám đốc dùng quyền ra lệnh, nhưng ông giám đốc nói : “Công việc này mà không tự nguyện thì khó ép lắm, giống như tình yêu ấy ! Vả lại, bây giờ Sở đang phải chuẩn bị nhiều việc khác cấp bách hơn !...” Cúc suýt nổi khùng lên với ông giám đốc nhưng cô lại cắn môi bật khóc ! Ông giám đốc chỉ cười và nói : “Bây giờ em hãy tranh thủ biên soạn lại, cho đánh máy rồi đem in lấy một tập đã. Làm thế cũng đủ mệt rồi đấy !”. Nói xong, ông giám đốc lại tất tả ra xe để lên họp với Ban tuyên huấn tỉnh …

Đúng lúc Cúc thất vọng, buồn chán muốn xin nghỉ phép về Hà Nội chơi thì Thầy Phát, dạy văn học dân gian Cúc trước đây dẫn một nhóm sinh viên điền dã sưu tầm văn học dân gian các dân tộc vùng Tây Nguyên, đã ập đến như một cơn gió lốc. Tóc thầy đã bạc trắng như cước nhưng gương mặt thầy vẫn trẻ trung, tươi cười. Vừa gặp Cúc, thầy Phát đã nói :

- Thầy vẫn còn đủ “bộ đồ nghề” để theo đuổi cái nghiệp chướng này : một đôi tai thính, một bộ óc biết suy luận, một trái tim bốc lửa và một cặp giò rắn chắc !

Cả tốp sinh viên quây lấy Cúc tíu tít hỏi chuyện về những bản làng xa xôi với những câu chuyện cổ thần kỳ. Họ nhìn Cúc như là bậc anh chị trong nghề và ủng hộ ngay ý định đến vùng con suối Đăk Lây Linh của Cúc. Thế là ngay ngày hôm sau, Cúc đã nhập vào đoàn sưu tầm văn học dân gian của thầy Phát, nhằm hướng khu rừng bí ẩn có con suối Đăk Lây Linh hành quân…
Đại Đức không chịu từ bỏ ý định chiếm đoạt thân thể Cúc. Không thuyết phục được Hoa “nội ứng” cho mình, hắn lồng lộn trừng phạt cô y tá Hoa bất hạnh. Lần đầu tiên hắn thấy đồng tiền và thế lực của hắn không có tác dụng, hắn không thể chịu nổi. Hắn đưa số tiền lớn cho tay bác sĩ chiến hữu và cô y tá bị cho nghỉ việc với lý do: chuyên môn kém ! Hoa sẵn sàng nghỉ việc ngồi bán cam, chuối ở cổng bệnh viện khiến hắn càng tức tối. Ý định chiếm đoạt Cúc đang đốt lửa trong lòng hắn…

Đại Đức thuê người theo dõi Cúc thật chặt và khi biết Cúc sẽ đi cùng đoàn sưu tầm đến vùng rừng có con suối Đăk Lây Linh , hắn đã thành lập một đoàn khảo sát và chắc mẩm sẽ ăn tươi nuốt sống Cúc ở khu rừng đó.

Đoàn khảo sát do đích thân Đại Đức chỉ huy, gồm năm người mà hắn tự đặt tên là “Ngũ hổ bình Liêu” ! Trong danh sách gửi báo cáo lên cấp trên, người ta thấy toàn là kỹ sư về rừng, nhưng thật ra Đại Đức đã tuyển bốn tên đao búa có hạng để phò trợ hắn trong cuộc “săn bắt người đẹp” này. Tốp “Ngũ hổ” tức tốc luồn rừng đón lõng tại chỗ đại bản doanh của lâm trường Sơn Thủy Tận khi xưa. Khi đến nơi, đại bản doanh đã trở lại hoang vu, nền nhà cũ lau cỏ đã mọc um tùm, nếu không có dấu vết của những cây gỗ bị chặt còn nằm ngổn ngang quanh một bãi rộng , hẳn là Đại Đức không thể nhớ nổi đây đã từng là lâm trường bộ thuộc quyền vì hắn chỉ mới đến “thăm” lâm trường có một lần.

Vì đoàn sưu tầm văn học dân gian còn dừng lại ở hai bản làng để làm việc nên tốp phục kích của Đại Đức nằm chờ đã năm ngày mà vẫn không thấy tăm hơi gì. Hắn đang băn khoăn suy nghĩ hay là đoàn sưu tầm đã đi chệch hướng thì từ trên thượng nguồn suối Đăk Linh, có tiếng người thoang thoảng vọng về. Bọn Đại Đức tản ra phục trong những bụi cây kín đáo…

Trên thượng nguồn con suối Đăk Linh lúc đó có hai người đang đi xuống, đó là Võ Hoàng và Hiền Lương. Tại sao Võ Hoàng và Hiền Lương lại xuất hiện ở đây ? Số là sau khi có cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa Trần Thanh Lâm và Hơ Linh trên con suối Đăk Lây Linh, tốp người đi lập làng mới của Võ Hoàng đã được Hơ Linh đưa về nhà mình ở gần đó . Thì ra họ đã đến địa phận của làng Đăk Linh Giang. Làng Đăk Linh Giang là một làng nhỏ của người Giẻ Triêng, ở tận nơi sâu thẳm của đại ngàn, vậy mà vẫn không tránh khỏi tai họa của chiến tranh. Trong một lần “khảo sát” rừng của một đội thám báo trực thăng, bọn chúng đã đổ quân xuống làng Đăk Linh Giang và giết sạch, đốt sạch cả buôn làng. Cuộc tàn sát đẫm máu đó đã làm cho anh lính Lê Duy Ái kinh hoàng…Trong khói lửa mịt mùng hỗn độn, anh lính Duy Ái đã bồng một bé trai suýt bị cháy chạy trốn vào rừng. Hôm đó, hai vợ chồng ông A Li và bà Hơ Bnhia cùng hai đứa con gái là Hơ Bnhi và Hơ Bnhin ngủ lại trong rừng để tìm gỗ làm nhà nên đã thoát khỏi cuộc tàn sát đẫm máu đó. Khi vợ chồng ông A Li và các con trở về làng thì chỉ còn những đống tro tàn. Hồi lâu, họ mới thấy anh lính Duy Ái cõng thằng bé A Nhú trở về…


Từ đó, năm người sống với nhau. Anh lính Duy Ái trở thành chồng của Hơ Bnhi. Chục năm sau, cậu bé A Nhú và Hơ Bnhin cũng thành vợ chồng…Cho đến khi tốp người Võ Hoàng đến thì Đăk Linh Giang đã trở thành một buôn làng nho nhỏ, có cả người Gia Rai, người Xơ Đăng từ những nơi khác trôi dạt đến xin nhập làng…Làng Đăk Linh Giang đã vui vẻ mời tốp người Võ Hoàng ở lại với họ. Ông Lê Duy Ái và bà Hơ Bnhi đã đồng ý cho cô con gái Hơ Linh cưới Trần Thanh Lâm. Đám cưới của họ được tổ chức cùng với các đôi Kso Rin và H’Lan, Võ Hoàng và Hiền Lương. Trong cuộc vui bất ngờ và có phần kỳ lạ đó, Thanh Lâm mới biết Hiền Lương không chỉ là cô ca sĩ phòng trà Sài Gòn năm xưa mà còn là cô bé Trần Thị Hiền Lương, con nuôi vợ chồng ông Trần Đức Hiền và bà Lê Thị Lương ở làng Dạ Huyết. Đến lúc ấy, Thanh Lâm mới nói tên thật của mình chính là Trần Duy Nhất. Hai chị em bồi hồi xúc động, sung sướng ngỡ ngàng nhận ra nhau sau hơn hai mươi năm xa cách, kể từ sau cái trận đấu tố hãi hùng ấy!...

Cuộc sống của những thành viên mới ở làng Đăk Linh Giang nhanh chóng ổn định. Trần Thanh Lâm say sưa lao vào nghề trồng rừng của mình. Anh đến những khu rừng bị cháy để trồng lại những loại gỗ quí. Anh nghĩ rằng niềm vui của công việc sẽ giữ anh ở lại vùng rừng này suốt đời !...Riêng Hiền Lương, cô luôn nghĩ về đứa con trai là thằng Lượng còn gửi ở thị xã mỗi khi cô theo đội văn nghệ - thông tin tuyên truyền của Võ Hoàng đến các bản làng xa xôi. Hết một mùa mưa, Hiền Lương cùng Võ Hoàng trở lại thị xã để đón thằng bé Lượng…Họ không thể biết rằng tai họa đang rình chờ họ ở khúc suối Đăk Linh nơi lâm trường Sơn Thủy Tận đóng đại bản doanh ngày trước !...

Khi đã nhìn rõ Võ Hoàng và Hiền Lương, Đại Đức lẩm bẩm:”Đi săn hươu lại gặp nai! Thôi được, chưa gặp em Cúc thì dùng tạm cô nàng từ trên trời rơi xuống này đã. Mà nhìn kỹ cũng xinh đẹp ngon lành đấy chứ! Đúng là số đào hoa, đi đâu cũng gặp gái đẹp!”. Nói rồi Đại Đức ra hiệu cho bốn thằng kia chuẩn bị tung dây bắt sống!

Khi Võ Hoàng và Hiền Lương đi vừa tới tầm tay của bọn Đại Đức, nhanh như chớp, hai thằng tung dây giật ngã Võ Hoàng và Hiền Lương, một thằng tung chăn chiên chụp vào đầu Võ Hoàng, một thằng cầm cuôn dây nhào tới trói nghiến hai người lại. Bị bất ngờ, Võ Hoàng và Hiền Lương không kịp phản ứng gì. Đại Đức tức thì ra lệnh:”Trói thằng đực vào gốc cây kia, cho nó xem “phim con heo”! Lột quần áo nàng Tiên ra để tao làm việc!”. Hai thằng lực lưỡng kéo Võ Hoàng lại một gốc cây. Chúng đang định trói Võ Hoàng vào thân cây thì một thằng trố mắt nhìn Võ Hoàng, đoạn giật tung sợi dây, nắm chặt lấy hai vai Võ Hoàng mà lắc mạnh, miệng rối rít:”Ối!..Á…Võ Hoàng! Võ Hoàng ghi-ta hả? Mày có nhận ra Hùng Điển Vi đây không? Tao là Hùng Điển Vi của mày đây! Hoàng Ghi-ta!...”. Hoàng định thần giây lát. Trong đầu anh thoáng vụt hiện về những năm đầu đời sinh viên trường Luật… Chẳng lẽ đây chính là thằng Hùng có sức khỏe như Điển Vi – một tướng cận vệ của Tào Tháo trong Tam quốc? Võ Hoàng chớp chớp mắt, nước mắt anh chảy ràn rụa, anh liền ôm chặt lấy thằng vừa định trói mình , nghẹn ngào:”Trời…đất ơi!...Hùng…Hùng Điển Vi đây thật rồi!...”…

Trong khi Võ Hoàng và Hùng Điển Vi đang bồi hồi xúc động nhận ra nhau thì Đại Đức tái mặt hoảng sợ khi sự việc lại diễn ra trái ngược bất ngờ như vậy. Hắn thấy hai thằng kia đã lột xong quần áo của Hiền Lương thì quát to:”Bay đâu! Giết chết hai thằng đang ôm nhau ngay, tao thưởng cho mười cây vàng!”

Ba thằng kia tức thì cầm gậy, cầm dao nhào tới Võ Hoàng và Hùng Điển Vi. Chưa hết xúc động vì gặp lại bạn cũ, nhưng bằng sự nhạy cảm bản năng, Hùng gạt Hoàng ra, né người xoay lại, nhanh tay bắt được một cây gậy đang bổ xuống đầu mình, đoạn ngồi thụp xuống, tóm chân một thằng, quay một vòng rồi ném vút vào rừng xanh! Hùng lại gầm lên một tiếng, trờ tới vươn cánh tay vượn định thụp gáy một thằng thì cả hai thằng đã quỳ mọp xuống, van lạy líu cả lưỡi! Hùng liếc qua phía Đại Đức, hắn khiếp đảm toan bỏ chạy nhưng Hùng đã nhảy một bước tới sát Đại Đức, tóm gáy ấn mặt hắn xuống đất khiến hắn giãy rụa ằng ặc!...Thấy vậy, Võ Hoàng vội la to:”Điển Vi ngừng tay! Chúng ta phải hỏi tội nó! Chưa cho nó chết ngay được!”. Hùng thả tay đứng dậy mà Đại Đức vẫn nằm úp mặt xuống đất như đã chết! Trong khi Võ Hoàng lại giúp Hiền Lương mặc lại quần áo thì Hùng nhìn hai thằng vẫn quỳ mọp quát to:”Hai thằng mắc dịch kia! Tao tha cho lần này !...Cút !”

…Hùng Điển Vi lục trong túi đựng lương thực thực phẩm của “Đoàn khảo sát tài nguyên rừng” đủ thứ : nào bia lon, thịt hộp, nai khô bày ngổn ngang rồi nói :

- Trời đất run rủi thế nào mà chúng ta lại gặp nhau ở đây, cứ như là anh hùng nghĩa sĩ gặp nhau trong chuyện kiếm hiệp ấy ! Chị Hiền Lương à ! Tôi với Võ Hoàng là đôi bạn chí cốt đấy ! Cùng học một lớp trường Luật, cùng bị bắt lính, cùng bị đi học tập cải tạo, nhưng tôi rủ hắn bỏ trốn hắn không chịu, để đến bây giờ mới gặp lại nhau !...Nào, ta cụng lon mừng ngày tái ngộ !

Hiền Lương đã trở lại bình thường, mỉm cười cầm lon bia Carlsberg giơ lên. Hùng cụng một cái rồi xà lại gần Hoàng, vòng tay quàng lấy vai Hoàng, nói :

- Tao với mày uống chung như xưa nha ! – nói rồi đưa lon bia lên mồm Hoàng. Hoàng uống ừng ực, bia trào ra chảy cả xuống cổ. Hùng uống ực cái đã hết phần bia còn lại, đoạn ném vứt cái lon vào đầu Đại Đức lúc đó vẫn nằm bất tỉnh dưới đất . Hùng vừa mồi xong điếu thuốc, thả khói khoan khoái rồi nói :

- Mày biết tại sao nhận lời con heo kia mà đi chuyến này không ? Mấy hôm trước đó, tao đang ngồi uống cà phê ở quán bà Còng xế cổng Sở Lâm nghiệp ấy, thì bà lão nhìn tao chằm chằm mà nói rằng : “Chú hãy đi đến suối Đăk Linh, sẽ gặp bạn cũ và có lộc. Nhưng nhớ là phải đi với bọn cướp !”. Tao nghe mà giật mình, nhưng ngờ ngợ không tin, mới hỏi thử bà già : “Tôi là dân đâm thuê chém mướn, chuyên đi đòi nợ thuê sống qua ngày, làm gì có bạn mà gặp ?”. Bà lão nói : “Chú tin hay không tùy chú . Còn gặp bạn là tôi nói gặp bạn cũ chứ có phải bạn ăn cướp trấn lột bây giờ đâu ! Tôi nói thêm nhé : bạn học của chú ngày xưa ấy ! Thời trẻ chú học khá lắm phải không ?”. Mày bảo bà già nói có dễ sợ không ? Tao thấy bà lão nói trúng phóc, muốn hỏi nữa nhưng bà lão không nói mà bảo : “Nói đâu biết đến đó ! Lão không được phép tiết lộ nhiều thiên cơ !” Nói xong bà lão nghiền cối trầu và khe khẽ ngâm :

Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao !...


Nghe đến đấy, Hiền Lương giật mình kêu lên:
- Bà Còng nào? Anh vừa nói bà Còng bán nước à? Anh tả lại hình dạng xem nào?
- Bà lão khoảng bảy, tám mươi tuổi rồi, lưng hơi còng nhưng thần sắc còn mạnh lắm. Nghe nói bà lão ở ngoài Bắc mới vào được một năm. Bà lão sống một mình. Chắc bà lão cũng có máu giang hồ phiêu bạt!
Hiền Lương reo lên:
-Vậy thì đúng là bà Còng bán nước ở bến đò làng Dạ Huyết quê em rồi! Em nhìn thấy là nhận ra ngay dù đã hơn hai mươi năm!...
Mọi người đang nói chuyện vui vẻ thì hai thằng vừa bị đuổi đi ban nãy quay lại, lúng búng nói:
-Đại ca!...Cho…chúng em lon bia…chúng em khát quá, đói quá!
Hùng Điển Vi quẳng cho hai thằng hai lon bia, chúng bật nắp uống ừng ực…Lúc đó, Đại Đức đã cựa quậy. Võ Hoàng nói với hai thằng kia:”Dựng nó dậy!”. Hai thằng chạy lại, xốc nách Đức dậy. Hắn như không đứng vững, mắt lấm lét hết nhìn Hùng Điển Vi, nhìn Võ Hoàng rồi Hiền Lương. Hắn nói lí nhí:
-Cho tôi xin lon bia!
Hùng Điển Vi nhếch mép cười:
-Bây giờ không phải là lúc uống bia, thưa ngài giám đốc! Ngài đang đứng trước Tòa án, ngài sẽ bị xử tội thích đáng!
Đại Đức giật thót người:
-Tòa án? Tòa án gì? Tại sao tôi lại bị ra Tòa?
-Tòa án của dân nghèo chứ tòa án gì nữa! – Hùng Điển Vi cười gằn – Tôi biết ngài giám đốc sống rất phè phỡn. Tôi lại cũng biết ngài ăn chơi khét tiếng, biết bao người con gái tội nghiệp đã bị ngài làm hại! Ngài đang thuê chúng tôi đi bắt gái cho ngài xài đó thôi! Ngài lấy tiền ở đâu? Tại sao ngài có quyền làm bậy như vậy?
Một thằng đang xốc nách Đại Đức nói xen vào:
-Thưa anh Hai! Em còn được biết bí mật tội lỗi của hắn: Hắn vốn là một đứa bé bị vứt trôi sông, người ta đã vớt lên cứu sống hắn, nuôi hắn…vậy mà hắn vô ơn bạc nghĩa, táng tận lương tâm, hắn đã đấu tố bố nuôi khiến ông già uất quá mà chết đấy ạ!
-Có đúng vậy không ngài giám đốc? – Hùng Điển Vi hỏi, giọng nói có gì ghê rợn.
-Không phải! Tôi không có tội gì cả!...Quân trộm cắp, chúng mày phải đưa tao về Công ty!-…Đại Đức bỗng gào lên!
Điển Vi bỗng nổi cáu:
-Đù má!...Mày ngoan cố hả? Nhét đất vào mồm hắn! Hắn ăn quá nhiều thịt cá nên không hiểu đất đai đã nuôi sống hắn như thế nào đâu!
Tức thì hai thằng kia bốc nắm đất ấn vào mồm Đại Đức, hắn ú ớ giãy rụa. Hùng Điển Vi lại quát to:
-Cắt dái hắn! Hắn là một con dê cụ, hắn đã hại biết bao con gái! Cắt!...
Tức thì hai thằng kia thao tác nhanh như chớp, chỉ nghe Đại Đức rú lên một tiếng khiếp đảm rồi toàn thân mềm nhũn!...Hùng Điển Vi nói tỉnh khô:
-Được lắm, chúng mày đã biết lập công chuộc tội. Giờ hai đứa chúng mày có nhiệm vụ khiêng nó về giao cho thằng bố Đại Trí! Hắn phải tiếp tục sống để làm bài học nhỡn tiền cho những kẻ đồng lõa!
Võ Hoàng từ nãy đên giờ cứ ngớ ra, không biết nói gì! Nhưng Hiền Lương thì lặng người đi hồi lâu rồi khóc nấc:”Trời ơi!...Trần Nhân Đức!...Đó là Trần Nhân Đức, người anh em song sinh với tôi đó ư?”!... 
(Còn tiếp)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Sài Gòn ngày 14.10.2011.
. Trích đăng lại vui lòng ghi rõ nguồn Newvietart.com.