Phê Bình & Tiểu Luận
Phê bình & Tiểu Luận của Đỗ Ngọc Thạch trên vannghechunhat.net- Trích: Văn Cao...
Văn Cao - Dòng suối mơ không vơi cạn... - Đỗ Ngọc Thạch
- Chuyên mục: Tản văn
- Lượt xem: 33
Với Thi nhân, nỗi ám ảnh thời gian là điều hệ trọng. Hàn Mặc Tử đã từng viết những câu thơ nặng trĩu : “Van lạy không gian xóa những ngày”. Xuân Diệu đã viết những câu thơ hốt hoảng : “Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”…Với Văn Cao, khi tuổi đã cao, sức đã yếu, ngẫm lại sự đời với tâm trạng :
“Kỷ niệm trong tôi
Rơi
Như tiếng sỏi
Trong lòng giếng cạn”
Vậy mà cảm hứng thi ca vẫn còn xanh nguyên :
“Riêng những câu thơ
Còn xanh
Riêng những câu hát
Còn xanh
Và đôi mắt em
Như hai giếng nước”.
(Thời gian – 1987)
Rơi
Như tiếng sỏi
Trong lòng giếng cạn”
Vậy mà cảm hứng thi ca vẫn còn xanh nguyên :
“Riêng những câu thơ
Còn xanh
Riêng những câu hát
Còn xanh
Và đôi mắt em
Như hai giếng nước”.
(Thời gian – 1987)
Cho đến hôm nay, đọc lại thơ Văn Cao, ta càng cảm nhận một cách sâu xa điều đó. Và trong ta lại ngân lên những lời ca đầy chất thơ của nhạc phẩm đầu đời của Văn Cao :
“Thiên Thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn phai một lần”
(Thiên Thai)
“Thiên Thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn phai một lần”
(Thiên Thai)
Văn Cao sáng tác Buồn tàn thu năm 1939, lúc mới có 16 tuổi, Thiên Thai (năm 1940) , Trương Chi, Thu cô liêu, Bến xuân, Suối mơ (năm 1941)…Thiên tài âm nhạc Văn Cao đã phát lộ vào tuổi đôi mươi mơ mộng. Và đến những bản hùng ca chứa đựng hào khí dân tộc trong những ngày đầu độc lập và toàn quốc kháng chiến : Bắc Sơn, Làng tôi, Ngày mùa, Trường ca Sông Lô…và đỉnh cao là Tiến quân ca, sau này trở thành Quốc ca. Những thành công lớn đó của Văn Cao trong âm nhạc đã nhanh chóng đưa Văn Cao đến đỉnh vinh quang và trong ý niệm của công chúng ông là một thiên tài âm nhạc. Điều đó phần nào đã che lấp đi một Văn Cao khác – Văn Cao thi sĩ và Văn Cao họa sĩ. Và cho đến nay, công chúng vẫn chỉ biết đến Văn Cao nhạc sĩ và Văn Cao họa sĩ, còn Văn Cao thi sĩ thì chỉ những người quen thân và trong làng văn biết rõ mà thôi !
Thực ra, Văn Cao đồng thời sáng tác cả nhạc, thơ và hội họa. Người đời còn ít biết đến thơ của Văn Cao vì nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân chủ yếu là trong nhiều năm (có đến gần 30 năm, từ khoảng 1957 đến 1985), thơ Văn Cao không được xếp vào “dòng chảy chính thống” của thơ ca Việt Nam hiện đại. Phải chờ đến thời kỳ “đổi mới tư duy”, những giá trị lớn lao của thơ Văn Cao (cũng như nhạc Văn Cao) mới được “hợp pháp hóa” ! Riêng về chuyện này, có thể nói Văn Cao là một điển hình của một mẫu người nghệ thuật đa tài, đa năng và đa nạn. Nhưng chính qua sự “thử lửa” đó của cuộc đời, cốt cách thi nhân của Văn Cao đã trở thành vàng nguyên khối, bản lĩnh thi nhân của Văn Cao càng lớn, sức sống của thơ Văn Cao càng mạnh mẽ…
Nhiều người nghĩ rằng gần ba chục năm gặp “nạn”, Văn Cao đã thu mình, im lặng và thậm chí có không ít người cho rằng thiên tài Văn Cao đã chết. Song, không phải như vậy, mạch thơ, suối thơ của cảm hứng sáng tạo trong Văn Cao không bao giờ ngưng nghỉ và vơi cạn như chính Văn Cao đã khẳng định : “Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng” (Sổ ghi chép, 12-7-1957). Trong bài thơ Những bó hoa (ngày 17-3-1974), Văn Cao đã viết :
“Những bó hoa mang tới
Chúc tụng
Thành công một con người
Hằng ngày hằng ngày
Xây thành cái mồ chôn
Con người thành công ấy
Người ta đôi khi bị giết
Bằng những bó hoa.”
Chính vì vậy mà Văn Cao ít đăng thơ và có thể nói ông không muốn “bị giết” bởi những bó hoa chúc tụng như bao “thi sĩ” khác, lại rất khát khao chuyện đó !...Thơ của Văn Cao mới chỉ được công bố rất ít (Bài Ngoại ô mùa đông 46 trên báo Văn Nghệ số 2 năm 1948, trường ca Những người trên cửa biển – 1956, chùm thơ về Quy Nhơn -1985, và được tuyển chọn trong tập Lá – NXB Tác phẩm mới, 1988, v.v…), nhưng cũng đủ để chúng ta thấy rõ một phong cách nghệ thuật độc đáo, một cốt cách thi nhân lớn, một dòng sông thơ chở nặng phù sa không hề ngưng nghỉ !...
*
Trở lên trên là bài viết của tôi về thơ Văn Cao qua tập thơ Lá (bài viết vào năm 1993, nhân Văn Cao tròn 70 tuổi)- quả là tập thơ mỏng mảnh như lá cây!... Đến năm 2005, nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của Văn Cao, Nhà xuất bản Đồng Nai in tập Thơ Văn Cao, cũng chỉ tập hợp 50 bài thơ ngắn và việc PR cho tập thơ này cũng không được chú ý, như việc xuất bản tập thơ Lá trước đây? Đó là dấu hỏi lớn cần được các nhà nghiên cứu văn học tìm hiểu thấu đáo, bởi số lượng thơ của Văn Cao đã sáng tác không thể chỉ ít ỏi như vậy, bởi trong tập thơ này, ta thấy trong từng câu chữ đều chất chứa những “tịch nhiên vô thanh” (tiếng lặng lẽ không tiếng), những suy tư của một thiên tài không được giải tỏa!...Ta khó có thể lĩnh hội được ngay những câu thơ có sức nặng vô hình như thế này:
“Con thuyền đi qua
Để lại sóng
Đoàn tàu đi qua
Để lại tiếng
Đoàn người đi qua
Để lại bóng
Tôi không đi qua tôi
Để lại gì?
(Không đề)
Hoặc:
“Có lúc
Một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ
Có lúc
Ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt
Có lúc, nước mắt không chảy ra ngoài được”
(Có lúc)
**
“Con thuyền đi qua
Để lại sóng
Đoàn tàu đi qua
Để lại tiếng
Đoàn người đi qua
Để lại bóng
Tôi không đi qua tôi
Để lại gì?
(Không đề)
Hoặc:
“Có lúc
Một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ
Có lúc
Ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt
Có lúc, nước mắt không chảy ra ngoài được”
(Có lúc)
**
Cuộc đời Văn Cao đầy bi kịch, tuy nhiên nhạc của ông không hề bi lụy mà có lúc tươi sáng lạ thường. Ca khúc Mùa Xuân Đầu Tiên của Văn Cao viết ngay sau ngày giải phóng Miền Nam là một nhạc phẩm độc đáo có một không hai mà không nhạc sĩ nào sánh nổi: “Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về/ Người mẹ nhìn đàn con nay đã về/ Mùa xuân mơ ước đang đến đầu tiên/ Nước mắt trên vai anh giọt rơi ấm đôi vai anh niềm vui phút giây như đang long lanh”.
Ca từ thật giản dị nhưng đầy chất thơ bởi nó chứa đựng ý tưởng lớn lao của thiên tài:
“Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên/ Ôi giờ phút chia tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm/ Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người/ Từ đây người biết yêu người…”.
TP.HCM , 1993 – 2009
Đỗ Ngọc Thạch
Văn Cao - Dòng suối mơ không vơi cạn... - Đỗ Ngọc Thạch
- Chi tiết Chuyên mục: Tản văn Lượt xem: 33
Với Thi nhân, nỗi ám ảnh thời gian là điều hệ trọng. Hàn Mặc Tử đã từng viết những câu thơ nặng trĩu : “Van lạy không gian xóa những ngày”. Xuân Diệu đã viết những câu thơ hốt hoảng : “Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”…Với Văn Cao, khi tuổi đã cao, sức đã yếu, ngẫm lại sự đời với tâm trạng :
Hải Thượng Lãn Ông thượng kinh ký sự - Đỗ Ngọc Thạch
- Chi tiết Chuyên mục: Tản văn Lượt xem: 70
Đỗ Ngọc Thạch
Hải Thượng Lãn Ông (“Ông già lười Hải Thượng”) là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác(1720,1724? – 1791). Quê cha ở thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Cuộc đời Lê Hữu Trác phần nhiều gắn bó với ở quê mẹ thôn Bầu Thượng, xã Tình Diệm, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), từ năm 26 tuổi đến lúc mất. Cha là Lê Hữu Mưu (*), mẹ là bà Bùi Thị Thưởng.
Vũ Trọng Phụng - Tài hoa bạc mệnhSuy nghĩ về đề tài trong sáng tác văn học
- Chi tiết Chuyên mục: Tản văn Lượt xem: 232
Lâu nay, trong công tác nghiên cứu, phê bình văn học, chúng ta thường phân chia các tác phẩm văn học theo từng diện đề tài : Đề tài lao động, đề tài chiến tranh, đề tài cách mạng, đề tài lịch sử, v.v…Trong các diện đề tài lớn đó lại được phân chia ra thành nhiều đề tài phạm vi hẹp hơn.
- Chi tiết Chuyên mục: Tản văn Lượt xem: 254
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 có ba người cùng trang lứa, cùng tài ba xuất chúng và cùng đoản mệnh. Đó là Vũ Trọng Phụng (1912-1939), Hàn Mặc Tử (*) (1912-1940) và Bích Khê (**) (1916-1946).
Thêm... Thêm bình luận mới
Mùa mưa đọc lại Vũ Trung Tùy Bút
- Chi tiết Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 48
Vũ trung tùy bút (*) (Tùy bút trong mưa) của danh sĩ Phạm Đình Hổ là một tập truyện ký bằng chữ Hán, theo thể loại ký – một thể loại văn học đã để lại nhiều tác phẩm lớn do các nhà văn là nhà Nho sáng tác, như Truyền kỳ mạn lục (1547) của Nguyễn Dữ, Phủ biên tạp lục (1776), Kiến văn tiểu lục (1777) của Lê Quý Đôn, Thượng Kinh ký sự (1783) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Tang thương ngẫu lục (**) của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, v.v…
Mùa xuân nhớ thi sĩ Nguyễn Bính
- Chi tiết Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 53
Vào buổi chiều 30 Tết Bính Ngọ (ngày 20-1-1966), tại làng Thiện Vinh, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định (lúc đó là tỉnh Nam Hà được ghép lại bởi hai tỉnh Nam Định và Hà Nam), có một trái tim Thi nhân đã ngừng đập : đó là Thi sĩ Nguyễn Bính !
Nguyễn Nhược Pháp - Cô gái chùa Hương sống mãi tuổi 15
- Chi tiết Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 95
Nhà thơ lớn người Avar xứ Daghestan Rasul Gamzatov (*) có viết : “Mặt đất tối sầm nếu không có thơ ca”. Đó là chân lý vĩnh cửu.
CÁC BÀI KHÁC...
- Nguyễn Khuyến - Mơ màng thế cuộc cũng cầm bằng
- Nguyễn Du và trăng
- Thi trung hữu nguyệt
- Đọc lại Bích Khê
NGUYỄN KHUYẾN - MƠ MÀNG THẾ CUỘC CŨNG CẦM BẰNG
- Chi tiết Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 108
Nguyễn Khuyến (*) là nhà thơ quen thuộc của đông đảo công chúng văn học trước hết bởi tài học với ba lần đỗ đại khoa, chính vì thế mà người ta gọi ông bằng tên làng Yên Đổ cùng với chiến tích thi cử: Tam Nguyên Yên Đổ. Sự vinh danh đó rất xứng đảng bởi thơ Nguyễn Khuyến có một Tình quê vô bờ bến và có một chùm ba bài thơ viết về quê hương vào loại kiệt tác mà mỗi khi nói đến ông người ta đều thấy lời thơ như đang ngân lên giữa trời thu xanh ngắt mấy tầng cao:
Nguyễn Du và trăng
- Chi tiết Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 123
Trong Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có bài Ký Huyền Hư tử (Gửi Huyền Hư tử) rất đáng chú ý. Lâu nay người ta vẫn cho rằng Huyền Hư Tử là tên hiệu một người bạn của Nguyễn Du, không rõ tên thật là gì.
Thi trung hữu nguyệt
- Chi tiết Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 138
Lý Bạch (*) là nhà thơ lớn thời Đường, là một ngôi sao sáng chói trên thi đàn Trung Quốc từ thời nhà Đường đến nay. Người ta thường gọi ông là Thi Tiên (Trích Tiên Lý Bạch).
Đọc lại Bích Khê
- Chi tiết Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 139
Sáng tác thời kỳ đầu (từ 1931 đến 1936) của Bích Khê (1) là thơ Đường luật và thể thơ hát nói - phần lời cho ca trù, đăng trên các báo Tiếng Dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Người mới...
CÁC BÀI KHÁC...
Nguyễn Trãi - Bui một tấc lòng ưu ái cũ
- Chi tiết Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 249
Nói đến Nguyễn Trãi - Ức Trai (1380-1442), là nói đến một nhân vật vĩ đại về nhiều mặt, rất hiếm có trong lịch sử. Và nói đến Nguyễn Trãi cũng là nói đến tính bi kịch của lịch sử:
Nhớ Long Thành xưa
- Chi tiết Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 181
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng Long mất địa vị đầu não của đất nước về chính trị và văn hóa. Và Cố đô đất Bắc trở nên hoang tàn!...
Thi pháp học - Lịch sử và vấn đề
- Chi tiết Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 194
Từ giữa Thế kỷ 20, công việc nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học theo tinh thần Thi pháp học là xu hướng chung trên phạm vi toàn thế giới. Ở Việt Nam, với chủ trương hòa nhập thế giới, từ sau cao trào Đổi mới 1986, đến nay chúng ta đã có nhiều điều kiện tốt để thực hiện điều này.
CÁC BÀI KHÁC...
ĐỌC LẠI BÓNG CHỮ CỦA LÊ ĐẠT
- Chi tiết
- Chuyên mục: Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
- Lượt xem: 130
Cuộc đời và Thơ Lê Đạt (1) có thể chia làm ba chặng: chặng một trước “vụ Nhân văn-Giai phẩm”, từ 1955 đến 1958; chặng hai tính từ lúc “gặp nạn” cho đến lúc được “xóa tội” là 30 năm (1958-1988); chặng ba là lúc cuối đời, được tự do hoàn toàn, là 20 năm (1988-2008).
Thêm... Thêm bình luận mới
Đổi mới quyết liệt Nguyễn Minh Châu
- Chi tiết
- Chuyên mục: Đời sống văn nghệ
- Lượt xem: 863
Nhà văn phải đứng hai chân giữa mặt đất đầy hiểm họa, giữa thập loại chúng sinh (Nguyễn Minh Châu)
CÁC BÀI KHÁC...
NGỰ SỬ VĂN ĐÀN PHAN KHÔI
- Chi tiết
- Chuyên mục: Đời sống văn nghệ
- Lượt xem: 594
Phan Khôi (1) là người mở đầu cho phong trào Thơ mới với bài thơ Tình già. Phan Khôi là một nhà báo tài năng, một người tích cực vận dụng tư tưởng duy lý phương Tây, phê phán mạnh mẽ thói hư tật xấu của quan lại phong kiến và thực dân Pháp.
Truyện ngắn - Đặc Trưng Thể Loại
- Chi tiết
- Chuyên mục: Đời sống văn nghệ
- Lượt xem: 919
Đặc trưng của từng thể loại văn học và sự tác động qua lại, mối quan hệ giữa các thể loại trong tiến trình phát triển của văn học là những vấn đề cơ bản của lý luận văn học.
Hồng Hà Nữ Sĩ - Hồng nhan Đa Truân
- Chi tiết
- Chuyên mục: Đời sống văn nghệ
- Lượt xem: 433
Nói về nỗi buồn đau của người chinh phụ tất phải nói đến bài thơ Khuê oán của Vương Xương Linh (*):
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
CÁC BÀI KHÁC...
LƯU QUANG VŨ "SỐNG MÃI TUỔI 17"
- Chi tiết
- Chuyên mục: Đời sống văn nghệ
- Lượt xem: 335
Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2010 đã trao giải “Thành tựu trọn đời về Thơ” cho Tuyển thơ Gió và Tình yêu thổi trên đất nước tôi (NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam hợp tác xuất bản, H.2010) của cố thi sĩ Lưu Quang Vũ (1948-1988).
Phê bình văn học - một cơ chế đặc thù của văn hoá
- Chi tiết
- Chuyên mục: Đời sống văn nghệ
- Lượt xem: 239
Tất cả những biểu hiện của hoạt động thẩm mỹ của con người mà chúng ta quen nói nôm na là “đời sống văn hóa- văn nghệ” được bộ môn lý luận văn hóa xác định trong một cấu trúc tổng thể theo một hệ thống với khái niệm văn hóa nghệ thuật - là một hệ thống, một thể thống nhất khép kín.
Xuân sách và tập thơ "chân dung nhà văn" (2)
- Chi tiết
- Chuyên mục: Đời sống văn nghệ
- Lượt xem: 510
Ở bài trước, tôi đã nói về sự hình thành cũng như sự ra đời của tập thơ "Chân dung Nhà văn” của Xuân Sách (1) và sự giải mã chân dung (2) của bốn nhà văn, nhà thơ là Hồ Phương, Võ Huy Tâm, Chính Hữu, Tố Hữu.
Xuân sách và tập thơ "chân dung nhà văn" (1)
- Chi tiết
- Chuyên mục: Đời sống văn nghệ
- Lượt xem: 529
Tập thơ Chân dung nhà văn gồm 100 chân dung 100 nhà văn, nhà thơ được viết bằng thơ (đa phần là thơ tứ tuyệt) của Xuân Sách (1) viết từ năm 1962 đến 1992 mới được in thành sách, tính đến nay đã gần 20 năm tuổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét