Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên phongdiep.net - trích: Ba lần thoát hiểm
Nhìn phong cách rất tự tin của cô gái, tôi định hỏi thêm câu nữa, rằng theo cháu, chú có nên nhận làm cái công việc viết điếu văn hay không? Nhưng tôi không có cơ hội để hỏi vì dường như tất cả đều đang xúm vào cụng li với cô gái! - Ngày đăng: 10/05/2011. Lần đọc: 1799 . Cập nhật bởi: DiepAnh
| |||||||||||||
Khi bốn thằng tới sát người lái xe, tôi đã nhìn thấy rất rõ: ba thằng da mặt nửa đen nửa nâu như người dân tộc, tuy mặc đồng phục kiểm lâm nhưng bộ dạng lớ ngớ, lóng ngóng chứ không oai phong đạo mạo như các chiến sĩ kiểm lâm. ( - Ngày đăng: 08/05/2011. Lần đọc: 2037 . Cập nhật bởi: DiepAnh
Home >> Nội dung website >> KẾT NỐI >> Đường Văn
BA LẦN THOÁT HIỂM - Đỗ Ngọc Thạch
BA LẦN THOÁT HIỂM
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
Năm 1961, tôi học lớp Năm ở trường Phổ thông cấp 2-3 Lương Ngọc Quyến, thị xã Thái Nguyên, nay là Thành phố Thái Nguyên. Tính đến nay (năm 2011) là đã chẵn 50 năm. Số bạn học cùng tôi ở lớp Năm hồi đó, suốt 50 năm qua tôi chưa hề gặp lại người nào. Những tưởng đó chỉ còn là ký ức xa mờ thì thật diệu kỳ, trong dịp lễ kỷ niệm 30-4 và 1-5 vừa rồi, tôi đã bất ngờ gặp lại không chỉ một mà tới ba người bạn học cùng lớp Năm từ hồi năm 1961 đó. Có cuộc hội ngộ không tiền khoáng hậu này bởi mấy người bạn học của tôi đã đứng ra tổ chức một buổi họp lớp “Bạn học thời cởi truồng”. Tại sao không phải là bạn học Đại học hoặc cấp học nào tương đương hay cao hơn? Chỉ là bởi bà vợ của chủ nhà đăng cai hiện đang là Hiệu trưởng một trường Tiểu học mà những người bạn học cũ cùng muốn hùn vốn đầu tư nâng cấp cho ngôi trường bé nhỏ này. Sự có mặt của tôi ở buổi họp lớp “Bạn học thời cởi truồng” này là hoàn toàn ngẫu nhiên: người cung cấp thường xuyên chè Thái cho tôi cũng là “nhà cung cấp” loại trà đặc sản này cho những người bạn học lớp Năm đó của tôi. Hôm ấy, khi đưa trà cho tôi, ông ta hỏi: “Ông nghiện trà Thái như thế, không biết đã từng ở Thái Nguyên hay chưa?” - “Tất nhiên là đã từng. Trong hai năm 1960, 1961 tôi đã ở Huyện Đồng Hỷ rồi Thị xã Thái Nguyên” - “Nếu vậy thì hẳn là ông cùng lứa tuổi với những người bạn trà Thái của tôi!”. Rồi ngay ngày hôm sau, người bán trà đưa tôi tới dự buổi họp lớp “Bạn học thời cởi truồng” có một không hai này.
Chuyện họp lớp “Bạn học thời cởi truồng” này có nhiều chuyện rất thú vị, chẳng hạn mấy người bạn của tôi đã gặp lại được cả những bạn học từ thời lớp Một, lớp Hai, lớp Ba, lớp Bốn. Mỗi khi gặp lại nhau, họ như được sống lại tuổi ấu thơ… Biết bao nhiêu là chuyện như là cổ tích trong những “chuyến tàu ngược thời gian” ấy, tôi sẽ kể dần vào dịp khác, ở đây chỉ xin nói về ba người bạn cùng học lớp Năm hồi năm 1961 với tôi. Người thứ nhất là Phan Thị Tiên Nữ, hiện là chủ một doanh nghiệp chuyên về Hậu táng. Người thứ hai là Lê Văn Chiến Công, hiện là chủ một doanh nghiệp chuyên về đóng hòm tủ và chủ yếu là đóng quan tài. Và người thứ ba là Trần Văn Thạch, chuyên về chạm khắc trên đá, chủ yếu là bia mộ. Ba người này, chỉ có họ Trần là trùng tên với tôi nhưng cả bốn chúng tôi không chỉ đều cùng tuổi Mậu Tý mà trùng cả tháng sinh và ngày sinh, chỉ khác giờ sinh mà thôi.
Còn có nhiều điểm trùng hợp nữa của bốn người bạn cùng học thời lớp Năm chúng tôi là: đều vào đại học được vài tháng thì nhập ngũ (năm 1966), nhưng ba người bạn tôi sau đó đều trở lại trường đại học ngay với quân phục áo lính (như Phan Thị Tiên Nữ thì từ Dân Y chuyển sang Đại học Quân Y, Chiến Công và Văn Thạch thì từ Đại học Bách Khoa chuyển sang Đại học quân sự, người chuyên ngành cầu đường, người thì chuyên ngành kỹ thuật vô tuyến), không như tôi, khi trở lại trường đại học thì đã không còn là quân nhân nữa. Hoặc có sự giống nhau rất cơ bản là cuộc đời cả bốn người đều có nhiều biến động lớn, bảy nổi ba chìm đủ kiểu!... Có một sự trùng hợp khá kỳ lạ của bốn người bạn chúng tôi là trong cuộc đời hơn 60 năm qua đã có ít nhất ba lần thoát hiểm rất đặc biệt: khi chỉ còn cách cái chết đường tơ kẽ tóc! Ba lần thoát hiểm của người bạn nữ Phan Thị Tiên Nữ dường như độc đáo hơn cả!
*
Lần thoát hiểm thứ nhất là khi xảy ra chuyện Cải cách Ruộng đất (CCRĐ; 1954-1956): cô bé Phan Thị Tiên Nữ tuy còn nhỏ nhưng dám chống đối Đội Cải cách quyết liệt (không những không tham gia đấu tố mà còn lén đem cơm cho những địa chủ đang bị giam) nên đã bị đem xử bắn cùng với người ông nội bị kết tội là đại địa chủ cường hào gian ác (người cha của cô bé Tiên Nữ lúc đó đang là bộ đội, đóng quân ở xa, nếu có về nhà lúc này cũng sẽ bị Đội CCRĐ bắt giam luôn). Khi những người trong đội tự vệ xã nhận được lệnh “Chuẩn bị!... Ngắm bắn!” thì có hai tiếng súng nổ liên tiếp “Đoành!... Đoàng!”. Thì ra hai người làm nhiệm vụ hành quyết nghe tới chữ “bắn”, tưởng là lệnh bắn, liền bóp cò. Nhưng, trước khi hai người kia bóp cò chỉ trong tích tắc, thì có một cơn gió lốc ào tới, khiến cả hai người theo phản xạ tự nhiên, xoay người 180 độ để tránh cát bụi do cơn lốc bay tới, táp vào mặt. Chính cái xoay người đó đã khiến cho cả hai nòng súng hướng vào phía những người chủ tọa, hai viên đạn đã găm vào mặt hai người lãnh đạo của tòa án nhân dân đặc biệt (*)! Trong lúc người ta cuống quýt đưa hai người trúng đạn đi cấp cứu thì có ai đó đã đưa hai ông cháu cô bé Tiên Nữ thoát khỏi pháp trường!... Mãi năm năm sau, cô bé Tiên Nữ mới biết hai người đã đưa ông cháu cô thoát khỏi pháp trường chính là hai người lính, bạn chiến đấu của bố cô, lúc đó đã lên tới chức Tiểu đoàn trưởng của một Trung đoàn chủ lực. Một trong hai người lính đó sau này đã trở thành phu quân của Tiên Nữ!
Lần thoát hiểm thứ hai của Phan Thị Tiên Nữ là vào cái ngày cô tới trường Đại học Y khoa nhập học. Lúc đó, năm 1966, trường Y sơ tán ở trong một khu rừng xanh bạt ngàn thuộc địa phận huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên. Đường tới khu sơ tán của trường đương nhiên là xa cách ngàn trùng và phải băng rừng lội suối miên man. Song, điều đáng sợ hơn cả là con đường tới trường đó hoang vắng rợn người và tai họa luôn rình rập: không rắn cắn hổ vồ thì cũng bị bọn lục lâm thảo khấu chặn đường! Hôm ấy, Tiên Nữ cùng một người bạn gái nữa rủ nhau đi cùng. Từ thị xã Thái Nguyên tới nơi trường sơ tán, đi nhanh cũng phải hết một ngày đường. Vì thế, phải khởi hành từ năm giờ sáng thì năm giờ chiều tới nơi, trước khi trời tối. Hai cô gái, người thì cầm gậy, người cầm dao luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, nhưng đi suốt nửa buổi mà không thấy có vấn đề gì? Hai người thấy chân mỏi rã rời và bụng thì réo sôi, liền ngồi xuống bãi cỏ ven đường, giở cơm nắm ra ăn. Nhưng, cả hai cô gái chỉ vừa nuốt xong miếng cơm đầu tiên thì thật bất ngờ, hai cái bao tải như từ trên trời ụp xuống đầu. Hai thằng chụp bao tải xem chừng rất khỏe, nhẹ nhàng xốc cái bao tải lên rồi lấy dây buộc túm miệng bao rất nhanh gọn, rất lành nghề. Hai cô gái không kịp phản ứng gì và khi kịp nhận ra cảnh ngộ của mình thì nghe tiếng hai thằng nói với nhau: “Lần này chúng ta bắt được hai tiên nữ chứ không phải người trần gian! Đại ca sẽ có thưởng lớn!” - “Mày thì lúc nào cũng Đại Ca, Đại Tẩu! Lần này, chúng ta hưởng lộc trước đã! Chẳng lẽ chúng ta suốt đời chỉ toàn ăn sái?” - “Mày đừng có ý định làm phản, Đại Ca mà biết là bị lột da chứ không đùa bỡn đâu!”. Hai thằng không nói gì nữa, vác hai cái bao lên vai rồi lách vào đám cây rừng. Đi được chừng năm phút, bỗng có tiếng quát lớn: “Đứng lại! Để hai cái bao tải xuống rồi biến thì ta tha chết!”. Thì ra có hai thằng lục lâm khác chặn đường, muốn đoạt hai cái bao tải của hai thằng kia. Hai thằng đang vác bao tải, thấy vậy thì quẳng cái bao tải xuống và nhất tề lao vào hai thằng chặn đường nhanh như hổ báo. Bốn thằng cuốn cuộn lấy nhau mà đấm đá với những chiêu thức rất tàn độc. Vì thế, không phải đợi lâu, chỉ năm phút sau thì cả bốn thằng cùng hồn lìa khỏi xác. Tiên Nữ không thấy động tĩnh gì thì gỡ cái kẹp tóc ba lá (**), nhẹ nhàng rạch cái bao tải rồi chui ra. Vừa ra khỏi cái bao tải, Tiên Nữ cũng thấy cô bạn đường của mình đang đứng cạnh cái bao tải rách, nhìn thấy cô thì reo lên “Thoát rồi!”…
Lần thoát hiểm thứ ba xảy ra khi Phan Thị Tiên Nữ là Bác sĩ, đang làm việc tại một Đội điều trị dã chiến ở chiến trường thời kháng chiến chống Mỹ. Lần ấy, BS Tiên Nữ cùng một y tá đi công tác thì gặp ổ mai phục của bọn lính biệt kích. Khi tới một khu rừng thưa, cả hai người cùng vừa phát hiện ra “mùi biệt kích” thì đã nghe tiếng súng nổ như pháo giao thừa xung quanh! Hai người tìm chỗ ẩn nấp và phán đoán tình hình thì tiếng súng ngừng lại rồi vang lên tiếng loa “chiêu hồi”, nghe rất gần: “Hãy đầu hàng đi, hỡi các em gái Việt Cộng!... Chúng tôi đã biết rõ chỉ có hai em gái rất xinh đẹp, vì thế chúng tôi không nỡ sát hại người đẹp! Các em sẽ được đón tiếp như Nữ hoàng!”. Lụa, cô y tá đi cùng Tiên Nữ không kìm được tức giận khi chợt phát hiện ra cái loa chiêu hồi đang lấp ló trong một bụi cây, liền kéo cò súng khẩu AK, hai tiếng nổ đinh tai, đầu đạn xé không khí lao đi. Có vẻ như Lụa đã bắn trúng cái loa chiêu hồi, tức thì tiếng súng của tốp biệt kích lại rộ lên như một tràng pháo nổ, đầu đạn bay vèo vèo, cắm vào các thân cây phầm phập. Lụa nói với Tiên Nữ: “Bác sĩ rút đi, tôi sẽ ở lại ăn thua đủ với chúng!”. Tiên Nữ nói ngay: “Không được, sống cùng sống, chết cùng chết! Tôi không thể bỏ Lụa chết ở đây mà sống một mình!”. Nói rồi Tiên Nữ vừa bắn vừa tiến sát hơn tới quân địch chứ không phải là rút lui như Lụa nói. Lụa thấy vậy thì như con rắn, vừa bắn vừa bò tới sát mục tiêu… Khi hai người nhìn rõ mặt từng thằng lính biệt kích, có lẽ chỉ cách khoảng ba mươi mét, thì thật bất ngờ, tiếng súng của tốp biệt kích ngưng hẳn rồi có tiếng nói yếu ớt vang lên: “Tốp lính biệt kích đã bị tiêu diệt hoàn toàn…Tôi là Y tá Huỳnh Lương Y, hãy chôn tôi tại đây và sau này xin báo về cho gia đình tôi theo địa chỉ trong túi áo ngực!...”. Thấy lạ, cả Tiên Nữ và Lụa cùng ngừng bắn, chạy tới chỗ phát ra tiếng nói kia thì thấy một người lính biệt kích đang ngồi tựa lưng vào một gốc cây, ngực đầm đìa máu!
*
Sau khi gặp lại ba người bạn cùng học hồi lớp Năm, tôi cứ nghĩ mãi không hiểu tại sao công việc mà họ làm hiện nay lại có liên quan với nhau, tức là lo việc mai táng. Đây có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là họ rủ nhau cùng làm cái công việc này? Ba ngày sau buổi gặp mặt, tôi đang tính đến gặp từng người để hỏi cho ra nhẽ thì nhận được điện thoại của Phan Thị Tiên Nữ hẹn đến dự tiệc tiễn đưa cô con gái út của Tiên Nữ đi đào tạo Tiến sĩ ở nước ngoài, về chuyên ngành Thần kinh. Khi tiệc rượu đã ngà ngà, Tiên Nữ nói: “Ba người chúng tớ từ hồi gặp lại nhau, làm ăn với nhau rất tâm đầu ý hợp, cứ tưởng là đã có một bộ ba hoàn chỉnh tuyệt vời. Nhưng từ ngày gặp thêm cậu, tớ mới nhận ra cái cảm giác “còn thiếu cái gì đó” của bộ ba chúng tớ là có thật: chúng tớ thiếu một người chuyên viết điếu văn thiện nghệ! Người đó chính là cậu, chúng ta sẽ làm thành Bộ Tứ tuyệt vời!”. Nghe Tiên Nữ nói, tôi giật mình, chưa kịp “phân tích” tình hình ra sao thì Lê Văn Chiến Công nói: “Lâu nay, khi thực hiện tang lễ cho khách hàng, tớ để ý thấy những điếu văn được đọc ở những tang lễ ấy có gì đó bất ổn: tớ có cảm giác như là người nằm trong quan tài không chịu được, muốn bật nắp mà bay ra!”. Và Trần Văn Thạch, người bạn trùng tên với tôi kết luận: “Nói tóm lại là chúng ta sẽ nhận cả phần viết điếu văn cho khách hàng, tức bao trọn gói! Cậu cứ suy nghĩ kỹ, nếu thấy có cảm hứng thì mới nhận làm, không ai bắt ép cậu!”. Nghe mấy người bạn học lớp Năm nói vậy, tôi cũng chưa biết trả lời thế nào thì cô con gái của Tiên Nữ, nhân vật chính của buổi tiệc nói: “Cháu thấy điếu văn là khó viết nhất và cũng là thể văn quan trọng nhất bởi nó phải kết tinh, thâu tóm được cả cuộc đời của người đã chết! Viết điếu văn không phải là sự kết thúc mà là sự khai mở một cuộc đời mới cho người vừa chết!”. Tôi định hỏi cô gái một câu gì đó đại loại như, còn cháu, tại sao lại chọn nghiên cứu Thần kinh, thì cô gái đã cụng li với tôi và nói: “Cháu biết chú định hỏi cháu cái gì rồi! Cháu xin trả lời trước: hiện tại và và sẽ là cả tương lai, bệnh Thần kinh sẽ rất phát triển và trở thành nan y. Vì thế, biết nghề này sẽ hái ra tiền!”.
Nhìn phong cách rất tự tin của cô gái, tôi định hỏi thêm câu nữa, rằng theo cháu, chú có nên nhận làm cái công việc viết điếu văn hay không? Nhưng tôi không có cơ hội để hỏi vì dường như tất cả đều đang xúm vào cụng li với cô gái!
Lòng bối rối vô cùng, không biết cậy nhờ ai tháo gỡ, tôi đi ra về. Trong đầu tôi bỗng vang lên những câu văn bi hùng của cụ Đồ Chiểu trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”:
…Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi,
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chỉ nài sắm dao tu, nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém đặng đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Mặc kệ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ…
Tới đầu ngõ hẻm, gặp một ông già hát xẩm đang ngồi ngâm nga:
“Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người!
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên Còn chi ai khá ai hèn Còn chi mà nói kẻ hiền người ngu”
“Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi”!
Khi ông già ngừng, tôi vụt nghĩ: Đó là đoạn kết của “Văn tế thập loại chúng sinh”, có nghĩa là bàn tay của Định mệnh đã “xếp đặt” nên “cuộc chơi” cuối cùng này?
Sài Gòn, đầu tháng Năm 2011
Đỗ Ngọc Thạch
----
Chú thích:
(*) Các buổi đấu tố thường được tổ chức vào ban đêm. Số lượng người tham gia đấu tố được huy động từ vài trăm đến cả ngàn người, và thời gian đấu tố từ một đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố, các bần nông bước ra kể tội địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức CCRĐ, người ta cho ra tờ báo lấy tên là Lá Rừng (ngụ ý tội ác địa chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố các địa chủ được tạm giam trở lại để chờ tòa án nhân dân xét xử, cũng có người bị đánh chết ngay trong lúc đấu tố. Gia đình và thân nhân người bị đấu tố thì bị cô lập, bị bỏ đói và chịu nhiều sự phân biệt đối xử và nhục hình.
Tại các huyện, một tòa án nhân dân đặc biệt được lập ra và đi về các xã xét xử các địa chủ. Sau khi kết án, địa chủ bị xử bắn trước công chúng do đội tự vệ xã hành quyết. Những người không bị xử bắn thì bị cô lập trong các làng xã, một số bị thiệt mạng vì bị bỏ đói.
(**) Loại kẹp tóc ba lá thời này rất phổ biến, có ba miếng kim loại mạ kền sáng bóng, ngoài công dụng kẹp tóc có thể dùng làm dao dọc giấy, làm cái luồn dép cao su và nhiều công dụng khác!
Home >> Nội dung website >> KẾT NỐI >> Đường Văn
KIẾM SỐNG - Đỗ Ngọc Thạch
KIẾM SỐNG
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
Khi tôi đến làm việc tức “kiếm sống” ở cái lò bánh ngọt “tiểu thủ công” này thì đội ngũ “thợ thuyền” ở đây đã có 11 người: 4 người đứng lò, 4 người làm thành cái bánh và đóng gói sản phẩm và một người làm nhiệm vụ “nuôi quân” tức nấu ăn. Những người thợ ở lò bánh này làm việc từ 6 giờ sáng cho đến 6 giờ tối, buổi trưa nghỉ ăn cơm tại chỗ khoảng nửa giờ. Trừ hao những lúc nghỉ giữa giờ vì nhiều lý do thì tổng số giờ lao động của thợ bánh là tròn Mười giờ, tức hơn giờ làm việc của Nhà nước hai giờ. Đó cũng là thời gian lao động nói chung của hầu hết những cơ sở sản xuất tư nhân và có thể nói cái thời gian lao động “dôi ra” này chính là một trong những “yếu tố” làm nên lợi nhuận của giới chủ. Khi tôi đến lò bánh làm việc, ông chủ lò bánh nói: “Lò bánh của chúng ta đang phát triển và đã có “thương hiệu” trên thị trường, vì thế tất cả hãy cố gắng làm thật tốt phần việc được giao. Số người của chúng ta vừa đủ bộ 12 con giáp Tý Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, vì thế mỗi người sẽ mang tên một con giáp, cứ thế mà gọi. Tại sao lại gọi như vậy? Đây là con số tuyệt đẹp, nó sẽ giúp chúng ta làm ăn phát tài, vì thế ta sẽ giữ con số màu nhiệm này, không thêm không bớt”. Nói rồi ông chủ đưa ra một cái rổ nhựa, trong có sẵn mười hai mảnh giấy viết sẵn từ Tý cho đến Hợi, ai bốc được chữ nào thì sẽ mang “thợ danh” chữ đó. Tôi chờ cho mọi người bốc hết, mở mẩu giấy cuối cùng ra có chữ “Tý”, đúng là số trời đã an bài! Điều kỳ lạ là không chỉ riêng tôi mà năm người nữa là Sửu Dần Mão Thìn Tỵ cũng bốc được chữ trùng với năm sinh của mình. Năm người này, cùng với tôi là sáu, còn có đặc điểm giống nhau nữa là không phải thuộc nhóm “lao động phổ thông” tức lao động chân tay chuyên nghiệp mà tối thiểu là đã tốt nghiệp đại học nhưng đang thất nghiệp (do gặp “nạn” bi kịch gia đình và bè phái đấu đá ở công sở nên bỏ nhà, bỏ nhiệm sở đi hoang). Cái truyện ngắn này chủ yếu nói về năm người này: Sửu đã từng du học nước ngoài thời bao cấp, có bằng Tiến sĩ về Toán học, được rất nhiều trường đại học ở nước ngoài mời làm giáo sư nhưng vì nhớ quê hương, nhớ vợ mà trở về Việt Nam; Dần là cựu Sinh viên trường Đại học TDTT, chuyên về võ thuật (đã từng làm chân trụ cho đoàn xiếc của một tỉnh ở ĐBSCL, tức giữ thăng bằng cho một cái cột lớn đặt trên vai, trên có một, hai người làm những động tác uốn dẻo…); Mão là cựu học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự, chuyên về vũ khí có sức công phá lớn; Thìn và Tỵ đều là “thầy giáo mất dạy” tức đã trải qua giáo viên Phổ thông Trung học, về môn văn và sử. Sáu người còn lại (từ Ngọ tới Hợi) tuy không qua đại học nhưng đều đã qua chốn quan trường, thấp nhất cũng là Trưởng phòng, cao nhất là Tổng giám đốc và đều giống nhau ở chỗ đã từng qua vòng lao lý vì nhiều tội danh khác nhau… * Công việc ở lò bánh thủ công tuy là lao động giản đơn (còn gọi là lao động phổ thông, lao động chân tay) nhưng cũng có những công đoạn rất khó, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, nếu không sản phẩm sẽ hỏng, tức quăng sọt rác, tức ông chủ lò bánh sẽ lỗ vốn! Đó là khâu đánh kem và nướng bìa bánh. Sản phẩm bánh ngọt ở đây gọi là bánh xốp, gồm có hai thành phần chính: lớp kem nằm giữa hai hoặc ba lớp bìa xốp. Kem là đường trắng xay thành bột, trộn với dầu mỡ và cho vào một ít tinh dầu, tạo mùi vị thơm ngon. Bìa xốp là bột năng được nướng cho giòn, khi nướng cho vào chút bột nở thì sẽ giòn và xốp. Nướng khéo thì sẽ giòn thơm, cộng với hương thơm của lớp kem tạo thành mùi thơm đặc trưng của bánh. Nói thì đơn giản thế, nhưng cái khó là để có được chậu kem sóng sánh, sủi bọt li ti và thơm lừng, mới nhìn đã muốn ăn thử…thì người đánh kem phải có sức mạnh cử đỉnh của Hạng Võ để dùng tay ngoáy nhào cho đám bột đường trộn với đầu mỡ kia biến thành kem (nếu làm bằng máy thì…tốn điện!). Còn cái khó của nướng bìa bánh là người làm phải đứng bên lò lửa, đổ bột đã trộn nước vào những cái kẹp đặc dụng bằng sắt, mỗi cái to bằng cái cặp sách học trò, lật qua lật lại trên ngọn lửa sao cho đến đều hai mặt. Non lửa thì bìa bánh sẽ sống, quá lửa thì tất nhiên là cháy khét, đều bỏ. Vì thế người nướng bìa bánh phải là loại “Người chịu lửa” và có sự nhạy cảm về thời gian (cũng có phần giống với tố chất của Nhà thơ). Nhóm sáu người của nửa trên 12 con giáp phụ trách đánh kem và nướng bìa bánh, tức phần công việc nặng nhọc và đòi hỏi “tay nghề” cao (riêng tôi, người viết truyện ngắn này, “học nghề” chỉ nửa buổi là đã thành thạo mọi công đoạn nên được giao làm nhiệm vụ “đốc công”, tức khâu nào làm sai thì chỉnh sửa, hoặc thiếu người thì tạm lấp chỗ trống). Còn nhóm nửa dưới của 12 con giáp thì làm nhiệm vụ tiếp theo, tức trét kem vào bìa bánh rồi cưa cắt thành những cái bánh nhỏ, đoạn cho vào những bịch ni-lon to bằng nửa cuốn vở học trò, buộc kín miệng bịch là xong. Nhóm sáu người của nửa trên 12 con giáp làm rất tốt công việc, chỉ sau hai ngày được ông chủ lò bánh “cầm tay chỉ việc”. Dần đặc trách việc đánh kem nặng nhọc, khi đánh kem xong, cả cái xưởng bán ngào ngạt hương thơm. Xong việc đánh kem, Dần làm cái việc cắt bìa bánh, sau khi đã trét kem thành những cái bánh nhỏ. Việc này cũng đòi hỏi sức khỏe vì khi cắt thành những cái bánh nhỏ (những bìa bánh lớn sau khi đã trét kem thì xếp đầy một cái khuôn bằng gỗ, kích cỡ của bánh đã có trong khuôn), phải kéo lưỡi cưa thật nhanh như máy, nếu không bánh sẽ nát vụn hoặc không vuông thành sắc cạnh! Cắt xong sẽ chuyển cho nhóm đóng gói. Công việc nướng bìa bánh chủ yếu do bốn người Sửu, Mão, Thìn và Tỵ đảm trách. Bốn người này đều đã kinh qua công tác nghiên cứu, giảng dạy nên sự nhạy cảm vế thời gian rất tốt, tức bìa bánh không bao giờ quá lửa đến nỗi cháy khét hoặc non lửa tức còn sống, bánh sẽ dai như cao su! Tuy nhiên, về khả năng chịu lửa thì cả bốn người đều không thể như Tôn Ngộ Không khi bị nhốt trong Lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân. Vì thế, cứ hai người làm thì hai người ngồi nghỉ, cứ phải luân phiên từng 30 phút! Nhưng khi lò bánh đắt hàng, ông chủ tăng thêm hai lò nữa, tức tổng số là bốn lò, thì không có thể ngưng nghỉ luân phiên được nữa. Những lúc thấy các “giáo sư”, “viện sĩ” kiệt sức, tôi thường tới “chia lửa”! Nhóm nửa dưới của 12 con giáp, tức từ Ngọ cho tới Hợi chủ yếu là làm công đoạn sau, đóng gói bao bì tức hoàn thành sản phẩm và lo chuyện cơm nước cho đám thợ. Trong nhóm sáu người này có ba người là nam, ba người là nữ. Từng đôi một, họ đều là “bạn tù” ở trên mức tình cảm bạn bè và sau khi mãn hạn tù, không trở về với gia đình cũ (vì vợ hoặc chồng của họ đã ly hôn ngay từ khi họ bị khởi tố) mà rủ nhau đi làm thuê kiếm sống, sống cuộc đời mới với “hai trái tim vàng” cho dù chưa có nổi một “túp lều tranh”! Công việc đóng gói bao bì không có gì khó khăn và cũng phù hợp với “xuất thân” (tầng lớp quan cách, chuyên “chỉ tay năm ngón” chứ không phải đụng tay đụng chân vào việc gì cụ thể) của họ nên họ rất hào hứng làm việc. Hơn nữa, trong những khoảng thời gian thọ án bị quản thúc ở trong các trại giam, họ cũng được “rèn luyện” qua những công việc tương tự, có khi còn nặng nhọc hơn nhiều ngồi gói bánh! * Tôi “Kiếm sống” ở lò bánh xốp được nửa năm thì một hôm, một người bạn đồng nghiệp của ông chủ lò bánh (hai vợ chồng ông chủ lò bánh đều là giáo viên một trường đại học) đứng ra thành lập một trường PTTH Dân lập, kết hợp ngày khai trương trường học với lễ cưới vợ lần thứ hai, đã đích thân tới tận lò bánh đưa giấy mời vợ chông ông chủ lò bánh. Khi nhìn thấy tôi đang ngồi uống trà với ông chủ lò bánh thì tân Hiệu trưởng kiêm tân chú rể nhào tới tôi, nắm chặt lấy tay tôi mà rối rít nói: “Người bạn Đầm Mây của tôi!...Thảo nào đêm qua tôi nằm mộng thấy Bồ Tát bảo sáng nay thế nào tôi cũng nhặt được Vàng! Thì ra là ông bạn Vàng của tôi ở Đầm Mây!”. Tôi nhận ra ngay đó là Lương, học cùng lớp Toán với tôi ở Khoa Toán trường ĐH Tổng hợp hồi năm 1966, khi Khoa Toán đang sơ tán ở Đầm Mây thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Hồi đó, cuộc sống của sinh viên bị chữ “Đói” hành hạ tối ngày, tôi và Lương thường rủ nhau vào các thôn xóm ở sát chân núi mua các loại quả như chuối, bưởi, đào mận… ăn cho đỡ đói. Ăn hoa quả nhiều tới mức thành nghiện như đám con cháu của Tôn Ngộ Không ở Hoa Quả Sơn! Gặp lại tôi, Lương nói ngay: “Cậu là một thầy giáo văn võ song toàn (ý nói tôi có thể lên lớp cả Toán và Văn) không thể cứ ngồi đây mà làm thợ bánh được!”. Sau đó, Lương thỏa thuận với ông chủ lò bánh rồi đưa tôi về ngay cái trường PTHT Dân lập mới thành lập của anh ta. Quả nhiên, giáo viên còn thiếu nhiều, tôi vừa phải dạy cả môn Toán và môn Văn. Được trở lại làm Thầy (sau khi tốt nghiệp Khoa Văn ĐH Tổng hợp Hà Nội, tôi có đi dạy học hai năm), tôi cũng thấy đỡ buồn tẻ hơn chuyện làm bánh, ngày nào cũng làm những công việc lặp đi lặp lại, không hề có tính cách tân, sáng tạo. Nhưng, niềm vui cũng chỉ lóe lên như ánh sáng đom đóm bởi một hôm, có hai học sinh, một nam, một nữ tìm gặp tôi tại phòng giáo viên mà nói: “Thầy không được cho em điểm kém, vì nếu em bị bố mẹ đánh đòn bao nhiêu thì em sẽ trả lại thầy đủ bấy nhiêu!” - đó là lời học sinh nam. Còn học sinh nữ thì nói: “Các nơi người ta “đổi tình lấy điểm” rầm rầm. Vậy em xin thông báo với thầy bảng giá trị đổi điểm của em: cầm tay tám điểm, hôn má chín điểm, hôn môi mười điểm. Còn nếu muốn “chuyện kia” thì “Mười điểm trọn đời”! Sau khi hai học sinh kia ra khỏi, tôi nghĩ cái môi trường “tiên học lễ hậu học văn” này thật bất an! Được sáu tháng, một người bạn học cùng Khoa Văn trường Đại học Tổng hợp bất ngờ gặp tôi giữa đường thì chặn lại như cướp đường và nói: “Cái nghề “bán cháo phổi” này bây giờ tổn thọ lắm, học trò không chỉ dám đánh thầy mà còn có thể lấy mạng thầy như chơi! Mà học trò bây giờ vừa dốt vừa lười học, lời thầy giảng chỉ như “đàn gảy tai trâu” mà thôi!”. Nói rồi người bạn lôi tôi tới một tờ báo ngành, đang chuẩn bị cho ra rất nhiều ấn phẩm khác như Bán Nguyệt san, Nguyệt san, Tủ sách và Cẩm nang… đủ kiểu ngoài tờ báo chính ra hàng tuần. Không hiểu sao, lần này cũng được sáu tháng thì lại có một người bạn học thời Lớp Một tới lôi tôi tới một nhà hàng máy lạnh loại sang và nói: “Từ ngày tớ bỏ kinh doanh địa ốc chuyển sang kinh doanh hôn nhân, tức mai mối tình yêu thì lên như diều gặp gió. Cậu không thể tồn tại trong cái đám suốt ngày cãi lộn như mổ bò như thế. Dù cậu có trung lập chủ nghĩa thì trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, vì thế hãy nghe tớ, tẩu vi thượng sách. Hãy sang làm việc cho công ty Dây Tơ Hồng của vợ chồng tớ, nó sẽ là bến đậu cuối cùng của cậu!”. Quả là tôi có tính cả nể, hay bị bạn bè rủ rê lôi kéo. Khi tôi theo người bạn thời Lớp Một về tới trụ sở công ty Mai mối Dây Tơ Hồng thì gặp ngay một cặp vợ chồng mới đi hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt về đòi gặp và nói ngay: “Chúng tôi muốn thanh lý hợp đồng cũ và ký ngay hợp đồng mới. Nghĩa là chúng tôi sẽ ly hôn và nhờ Công ty Dây Tơ Hồng mai mối cho chúng tôi một người chồng khác và một người vợ khác!”. Người bạn Lớp Một hỏi: “Tôi muốn biết lý do vì sao hai người lại nhanh chóng ly dị như thế? Mới một tuần làm sao đã khám phá hết mọi vẻ quyến rũ, hấp dẫn của đối tượng?”. Người đàn bà định nói nhưng rồi nhìn người đàn ông như bảo “Ông nói đi!”. Người đàn ông liền nói: “Tưởng là vui duyên mới nhưng lại hóa ra là đồ cũ! Tức cách nay hơn mười năm, chúng tôi đã sống như vợ chồng với nhau tới hai tháng rồi còn gì!”. Người bạn Lớp Một của tôi cười sảng khoái rồi lấy ra hai bản hợp đồng mới, nội dung là trong vòng một tuần sẽ mai mối cho mỗi người một đối tượng vạn sự như ý! Khi hai người khách hàng đã ra về, người bạn Lớp Một nói với tôi: “Đó, câu thấy chưa, cứ gọi là làm không hết việc, mà loại công việc này chỉ là uốn ba tấc lưỡi, chẳng phải ăn no vác nặng như làm thợ bánh, cũng chẳng phải rát cổ bỏng họng như cái nghề “bán cháo phổi” và cũng chẳng phải tả xung hữu đột trong trường văn trận bút như nghề làm văn làm báo! Cậu còn muốn gì nữa?”. * Quả là người bạn Lớp Một không khác chi Bồ Tát hạ trần gian, tôi đến làm việc cho Công ty Mai Mối Dây Tơ Hồng được hai tháng thì bạn tôi đã cưới cho tôi một người vợ mười phân vẹn mười, chỉ sau khi “động phòng hoa chúc” hai tháng đã có “tin vui”! Tôi sực nhớ đến những người “bạn đồng nghiệp” một thời ở lò bánh xốp, muốn mai mối cho các “giáo sư, viện sĩ” đã “mồ côi vợ” ấy mỗi người một thục nữ đảm đang để nâng khăn sửa túi trong cuộc sống làm thợ bánh vất vả! Song, khi tôi đến lò bánh xốp ấy thì thật bất ngờ: tất cả nhóm năm con giáp trên tức Sửu, Dần, Mão, Thìn và Tỵ đều đã được vợ chồng chủ lò bánh cưới cho mỗi người một người vợ thôn nữ miệt vườn thứ thiệt, còn “Din” trăm phần trăm và mỗi người đã có một con. Còn nhóm sáu người phần dưới 12 con giáp tức Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi thì cả ba cặp đã chính thức bái đường thành thân, mỗi cặp cũng đã có con cái xinh xắn, bụ bẫm! Lò bánh đã phát triển không ngờ, ông chủ đã mua lại căn hộ kế cạnh, xây bốn tầng lầu để phát triển cơ sở sản xuất và có chỗ ở cho cả năm cặp vợ chồng nhóm năm con giáp phía trên (sáu người nhóm con giáp phía dưới thì ở nhà thuê gần cơ sở lò bánh). Khi nhìn những người thợ bánh đang làm việc, tôi thấy không khí của xưởng bánh thật chuyên nghiệp và trên từng gương mặt đều lộ rõ niềm vui lao động say mê, có người còn vừa làm vừa hát, thi thoảng lại có người kể chuyện tiếu lâm và mọi người cười hưởng ứng như pháo ran! Ông chủ lò bánh nói với tôi: “Bây giờ tất cả đều rất an tâm và say mê làm việc, coi lò bánh là nhà, không muốn chuyển đi đâu cả!”. Mặc dù đã “mục sở thị”, tôi vẫn chưa tin là những “giáo sư”, “viện sĩ” kia sẽ gắn bó hết đời với lò bánh, liền đến bên Sửu, người đã từng lấy bằng Tiến sĩ Toán ở MGU (Đại học Tổng hợp Quốc gia Matxcơva, mang tên nhà bác học Lômônôxốp nên còn gọi là trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp) để “phỏng vấn” xem sao thì Sửu nhìn tôi cười rạng rỡ rồi cất tiếng hát bài “Cuộc sống ơi, tôi mến yêu người” bằng tiếng Nga: Я люблю тебя, жизнь Что само по себе и не ново, Я люблю тебя, жизнь Я люблю тебя снова и снова… Rồi bằng tiếng Việt:Cả tình yêu trao cuộc sống Mãi mãi ta mến yêu người tình yêu thắm nồng. Cả tình yêu trao cuộc sống Mãi mãi ta hiến dâng người tình yêu thiết tha.Đèn rực sáng trên tầng cao Là khi ta chân khẽ đưa thong thả bước về. Ta càng thấy yêu con người Mong cuộc sống ta mỗi ngày sẽ tươi thắm hơn… Kìa trời khuya chim rộn hót Những bóng đêm đang tan dần bình minh thức dậy. Từ lòng ta, ngon lửa cháy Hỡi trái tim của con người thèm sống khác xưa. Một ngày mới vẫy chào ta. Bạn đời ơi ta muốn dâng ngọn lửa cháy này Cho cuộc sống bao vui buồn.
Xin hạnh phúc, dẫu muộn màng sẽ đến với ta…
Nghe Sửu hát say sưa, tôi lẩm nhẩm hát theo từ lúc nào (sở dĩ tôi thuộc bài này vì có anh bạn thời lính Ra-đa tên Võ Trí Tâm, sau có đi học ở Nga về, thường hay hát bài này lúc … chán đời). Sửu hát say sưa tới ba lần, tôi còn “phỏng vấn” gì nữa!
Khi tôi đi khỏi lò bánh xốp, ông chủ lò bánh tiễn tôi và nói: “Bất cứ lúc nào ông thích quay trở lại lò bánh, tôi và mọi người đều hoan nghênh!”. Tôi không nói gì vì còn phải chờ Bồ Tát hiển linh báo mộng! Sài Gòn, 16-5-2011
Đỗ Ngọc Thạch
BỘ SƯU TẬP ẢNH KHÁC
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét