Ngay
sau ngày giải phóng Thủ đô, gia đình tôi chuyển về Hà Nội, từ chiến
khu. Bố tôi làm việc ở Bệnh viện quân đội 108 (còn gọi là bệnh viện Đồn
Thủy) nuôi cả nhà, gồm mẹ tôi và năm chị em. Lúc đó, tôi chưa tới mười
tuổi nên không thể nhớ lại được bố mẹ tôi đã xoay trở ra sao để nuôi
một đàn con chúng tôi ăn học giữa chốn thị thành này. Tôi cũng không có ý
thức gì về sự giàu nghèo vì cho tới lúc này, tôi vẫn chưa biết mặt mũi
đồng tiền nó như thế nào!
Gia đình tôi ở nhờ trong
nhà một người bạn học cũ của bố tôi, ở phố Nguyễn Lai Thạch. Chủ nhà
nhường toàn bộ phần lầu một, thoáng mát, rộng rãi. Tuy nhiên, chính vì ở
trên lầu mà cái cầu thang đã trở thành mối nguy hiểm thường trực đối
với tôi: vì không quen đi cầu thang mà mỗi ngày phải lên xuống cái cầu
thang ấy hàng chục lần, nên tôi thường bị té ngã đủ kiểu! Ấy là chưa kể
tôi còn thường bị bố tôi đánh lăn từ đầu cầu thang xuống tới chân cầu
thang! (Sau này, tôi không còn oán bố tôi về chuyện này nữa vì tôi biết
rằng bố tôi là người tính nóng, mà tôi thì hay làm hỏng việc và thường
là không thực hiện đúng những quy định do bố tôi đặt ra, chẳng hạn như
làm vỡ phích nước, khi bố tôi đi làm về mà vẫn chưa nấu cơm xong…).
Nhưng tôi lại phải cảm ơn cái chuyện ngã cầu thang này vì nhờ tôi bị ngã
gãy tay mà tôi đã có một người bạn đặc biệt.
Năm đó (1955), tôi đang
học lớp Một. Vào năm học được một tháng thì tôi bị ngã cầu thang và phải
nghỉ học gần mười ngày. Tới ngày nghỉ thứ ba thì Nhung – lớp trưởng,
được cô giáo giao nhiệm vụ đến giúp tôi chép bài và hướng dẫn tôi học,
để khỏi bị đứt đoạn. Nhưng cả Nhung và cô giáo đều không biết rằng hồi
còn ở chiến khu, tôi đã học xong toàn bộ chương trình lớp Một, vì khi
đó, mẹ tôi là cô giáo tiểu học và đã cho tôi học “dự thính” ! Khi về
Hà Nội tôi mới đủ tuổi vào lớp Một nên phải xin vào học lại từ lớp Một.
Thật là sự trùng hợp ngẫu nhiên, Nhung cũng đã tự học xong chương trình
lớp Một, nhưng là do chị Nhung dạy tại nhà. Thế là việc học bài chuyển
thành những buổi đọc truyện thật là thú vị đối với tôi.
Nhung nói nhà Nhung có
một tủ sách rất lớn được truyền lại từ ông nội Nhung (đã đỗ tiến sĩ dưới
triều Nguyễn), đến bố Nhung, một bác sĩ đã tốt nghiệp khóa đầu của
trường đại học Y – Dược Hà Nội. Chính là nhờ Nhung tôi đã biết thế giới
kỳ ảo của truyện Cổ tích, Thần thoại từ Việt Nam, Trung Quốc cho đến
An-đec-xen, Grim…
Việc Nhung dắt tôi vào
thế giới kỳ ảo của Cổ tích, Thần thoại thật là thú vị đối với tôi, nhưng
còn thú vị, tuyệt vời hơn là việc Nhung đã tình nguyện là hướng đạo dẫn
tôi đi khắp Hà Nội 36 phố phường!
Lần đầu tiên, Nhung dẫn
tôi đến hồ Hoàn Kiếm và kể cho tôi nghe chuyện vua Lê Thái Tổ trả gươm
cho Thần Rùa. Trong khi tôi đang mải suy nghĩ xem Thần Rùa đã để thanh
gươm ấy ở đâu thì Nhung nói:
- Giá như khi giặc Pháp
sang xâm lược nước ta, Thần Rùa cũng cho mượn Gươm ấy thì nước ta đã
không bị chúng đô hộ gần một thế kỷ !...
Tôi nói ngay:
- Giặc Pháp có nhiều súng đạn, gươm thì làm sao đánh lại?
- Ừ nhỉ !... – Nhung nói khẽ và buông một hơi thở nhẹ.
Tôi thấy mình như bị một
lực vô hình nhấc bổng lên cao rồi ném mạnh xuống hồ. Tôi lặn hụp một hồi
thì cảm thấy như là bị chuột rút. Tôi vẫn còn tỉnh táo để nhận ra một
bàn tay nhỏ đã túm tóc tôi kéo vào bờ!
Nhung hỏi, sau khi tôi đã trở lại bình thường:
- Sao bạn lại nhảy xuống hồ?
- Tôi định lặn xuống tìm thanh gươm của Thần Rùa ! – Đúng là trong đầu tôi có ý nghĩ như vậy!
- Trời ơi! – Nhung tròn mắt nhìn tôi – bạn không biết bơi mà sao lại liều như vậy?
- Tôi bơi giỏi ấy chứ! –
Tôi cười to và nói liền một mạch - Ở quê tôi có sông Thao, tôi đã bơi
qua sông rồi bơi trở lại. Đó là chuyện bình thường. Bạn có biết câu
“Sông Thao nước đục người đen – Ai lên Vũ Ẻn thì quên đường về” không?
Quê tôi đẹp và nên thơ lắm. Nhưng khi được biết câu “Mịt mù khói tỏa
ngàn sương – Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ” tôi lại thấy Hà Nội
của bạn chắc là đẹp hơn?
Không phải đợi lâu, Nhung
dẫn tôi đến Hồ Tây. Đứng trước mặt hồ, một cảm giác kỳ lạ dâng trào
trong tôi và tôi đã nhảy ào xuống hồ từ lúc nào. Sau khi lặn một hơi,
tôi nổi lên và sải tay bơi ra giữa hồ. Được một lát, tôi ngoảnh lại thì
thấy Nhung đang đứng yên lặng bên bờ hồ, mắt dõi theo tôi. Bơi được
khoảng gần một trăm mét, tôi dừng lại và chợt nghĩ: “Thử lặn xuống xem
có báu vật gì không?”. Thế là tôi lặn một hơi dài. Quả nhiên, không lâu
la gì, tôi đã tìm thấy một cái đồng hồ bỏ túi và một miếng ngọc bội.
Tôi tặng Nhung miếng ngọc bội và giữ lại cái đồng hồ (Nhưng ngay ngày
hôm sau, cái đồng hồ đã bị bố tôi tịch thu !). Chúng tôi còn trở lại hồ
Tây hai lần nữa, cũng có nhiều chuyện đáng nhớ mãi nhưng chưa thể kể hết
ra đây được!
Tôi ở Hà Nội chưa được
một năm, chưa kịp đi xem hết những kỳ quan của Hà Nội thì gia đình tôi
chuyển về Hà Đông (bố tôi được điều động về làm việc ở quân y viện
103). Ở Hà Đông được một năm thì bố tôi lại được điều động về quân y
viện 109 ở Vĩnh Yên. Ở Vĩnh Yên cũng chưa được một năm thì gia đình tôi
lại chuyển về Hà Nội (bố tôi đã chuyển ngành và đang chờ Bộ y tế sắp xếp
công tác). Lần này, gia đình tôi ở nhờ một trại chăn nuôi bò sữa vùng
ngoại ô, có cái tên rất hay: Lương Yên. Đây là khu lao động, hầu hết là
dân nghèo. Vì thế, phòng mạch của bố tuy đông bệnh nhân nhưng thu nhập
chỉ vừa đủ sống (đa phần chữa bệnh không lấy tiền). Công việc ở phòng
mạch rất nhiều (có đủ các loại bệnh, riêng công việc giải phẫu – chỉ có
tiểu phẫu – thì nhiều không ngờ: ngày nào cũng ngót nghét chục ca)
nhưng người làm chỉ có ba : bố tôi, mẹ tôi (đã là y tá) và tôi. Vì tôi
bận làm việc như thế cho nên thời gian để gặp Nhung thật là hiếm hoi.
Chỉ đến khi Nhung xin chuyển về trường Lương Yên học cùng lớp với tôi
(lớp 4), thì chúng tôi mới được gặp nhau thường xuyên – dĩ nhiên!
Những giờ kiểm tra một
tiết hoặc cả buổi, chúng tôi chỉ làm bài trong mười phút là xong và nộp
bài cho thầy giáo rồi dắt nhau tung tăng khắp phố phường ! Những ngày
tháng đó thật là đẹp và có thật nhiều kỷ niệm nhớ đời. Tôi chỉ xin kể ra
đây một kỷ niệm “đòn đau nhớ đời”!
Lần ấy, khi tôi và Nhung
đang đứng xem giới thiệu chương trình kịch mục trước cửa Nhà hát Lớn thì
thật bất ngờ, chiếc mô-bi-lét của bố tôi đỗ xịch ngay sát người tôi mới
biết! Kết quả là tôi bi một trận đòn “thập tử nhất sinh” cùng với bao
lời kết tội của bố tôi, trong những tội đó có một từ mà lần đầu tiên tôi
được nghe : luyến ái bất chính ! Khi nghe bố tôi nói như thế, tôi nghĩ:
đúng là tôi và Nhung rất thân nhau, rất thích gần nhau, nhưng yêu thì
chắc là từ đây tôi sẽ yêu Nhung!
Tôi chưa kịp nói với
Nhung về những suy nghĩ của mình thì gia đình tôi chuyển lên Thái Nguyên
– bố tôi được giao nhiệm vụ làm giám đốc bệnh viện Khu Gang thép Thái
Nguyên. Tính lại, chúng tôi chỉ cùng được học bên nhau học kỳ 1 của lớp
4, nhưng bù vào đó, Nhung đã dẫn tôi đi khắp lượt Hà Nội 36 phố phường .
Sau này, khi trở lại sống ở Hà Nội lần thứ ba, tôi đã bắt tay vào viết
cuốn Hà Nội ký sự, nhưng rồi bỏ dở vì nghĩ có lẽ mình không qua nổi
những văn tài đã viết rất hay về Hà Nội như Vũ Bằng, Thạch Lam, Tô
Hoài…Lần ra đi này của gia đình tôi cũng thật là cập rập, dĩ nhiên là
tôi không thể chia tay với Nhung. Tới Thái Nguyên, tôi đã viết thư ngay
cho Nhung, gửi cả về nhà và địa chỉ lớp học, nhưng dù tôi có gửi thêm
gần chục lần nữa, cũng không hề có thư hồi âm của Nhung!
Ở Thái Nguyên được một
năm rưỡi, gia đình tôi lại chuyển chỗ ở : đi một mạch từ Thái Nguyên về
thành phố biển Hải Phòng! Bố tôi lại chuyển đổi công tác (chưa phải là
lần cuối): về làm giám đốc Viện điều dưỡng A ở Hải Phòng ! Lúc chiếc xe
tải chở gia đình tôi từ Thái Nguyên về qua Hà Nội, chỉ nghỉ có một đêm,
tôi muốn đi tìm gặp Nhung nhưng tôi không có một kẽ hở thời gian nào: mẹ
tôi đã đẻ thêm ba cậu con trai, từ năm 1955 đến năm 1960, (lúc đó là
đầu năm 1961) và việc trông coi ba đứa em nhỏ tôi phải làm gần hết,
không khác gì một nhũ mẫu thực thụ ! Không thể diễn tả hết cảm giác của
tôi lúc đó: thấy như là Nhung ở rất gần đâu đây mà không gọi được, không
tới được!
Thế là lại phải qua đi
năm năm nữa tôi mới được gặp lại Nhung. Ấy là lúc tôi học xong lớp mười
Trung học Phổ thông và có giấy gọi vào khoa Toán trường Đại học Tổng
hợp. Nhận được giấy gọi, tôi đi Hà Nội ngay. Đoạn đường “tăng-bo” khá
dài (thời gian này – l966, máy bay Mỹ đã tăng cường đánh phá miền Bắc,
cầu Phú Lương trên đường số 5 bị hỏng nên tàu hỏa không thể đi qua)
nhưng tôi đi như bay, như là có cánh mọc dưới chân như nhân vật Hecmet
trong thần thoại Hy Lạp! Gặp lại Nhung sau sáu năm xa cách, tôi đi từ
bất ngờ này đến bất ngờ khác: Nhung đã là một thiếu nữ 18 tuổi cực kỳ
xinh đẹp, không thua kém các hoa hậu thời nay bất kỳ điểm nào ; Nhung
cũng tốt nghiệp phổ thông trung học như tôi nhưng với điểm cao tuyệt đối
mà bây giờ gọi là Thủ khoa, đặc biệt với môn Toán, suốt 10 năm học phổ
thông, Nhung luôn đạt điểm cao nhất; điều bất ngờ thứ ba gây sốc rất
mạnh đối với tôi là Nhung không được gọi vào đại học vì lí lịch: Ông nội
là quan lại thời phong kiến, bố là tư sản, có một ông chú đang làm việc
trong chính quyền Sài Gòn và một ông chú đang sống ở Pháp! Tôi không
nói được lời nào để an ủi Nhung hay đại loại như vậy, chỉ vò đầu bứt tai
và cảm thấy như mình có lỗi! Nhưng Nhung lại an ủi tôi và tỏ ra rất
bình thản (hay đúng là Nhung chỉ tỏ ra bình thản ở bề ngoài ?). Nhung
nói nhỏ nhẹ:
- Bạn nên tới trường ngay đi. Đường xa và bom đạn không biết đâu mà lường! Tôi sẽ đưa bạn tới tận nơi học!
Trời ơi! Nghe Nhung nói
mà tôi như sắp òa khóc! Tôi muốn thời gian ngừng lại, trái đất ngừng
quay và tốt nhất là quay ngược lại cái thời Nhung dắt tôi đi lang thang
khắp 36 phố phường Hà Nội ! Trong đầu tôi vụt hiện lên nào là Hồ Gươm cổ
tích, Hồ Tây bâng khuâng, hồ Thuyền Quang mơ mộng, Ô Quan Chưởng trầm
mặc, Ô Đông Mác lầm bụi, Ô Chợ Dừa nhộn nhịp…, nào là những con đường ào
ào lá đổ, những hàng cây đào Nhật Tân kiên nhẫn đứng đợi xuân về, nào
là cây cầu Long Biên già nua nhưng vẫn cố gồng mình cho đoàn người, đoàn
xe qua lại không ngớt…
Cuối cùng thì tôi cũng
không thể không đối diện với thực tại: tôi đi học, còn Nhung, Nhung sẽ
đi đâu? làm gì? Nhung không trả lời tôi mà giục tôi lên đường. Quả là
con đường sẽ đi rất xa: Khoa Toán của trường ĐHTH sơ tán ở tận huyện
Đại Từ tỉnh Thái Nguyên (tôi có duyên nợ gì với Thái Nguyên đây?). Đi
tàu từ thị xã Thái Nguyên đến ga Quán Triều là hết đường sắt, phải đi bộ
tiếp đến Đại Từ, và điểm cuối cùng là thôn Đầm Mây – chắc là chỗ chúng
tôi học ở tít trên chín tầng mây!
Suốt quãng đường đi bộ,
con đường đồi núi dài hun hút và vắng teo, Nhung hết đọc thơ, bình thơ
rồi lại kể chuyện cổ kim đông tây cho tôi nghe. Tôi không ngờ Nhung đọc
thơ và bình thơ thật tuyệt vời, nhất là những bài thơ tình của Aragon
viết tặng Ensa do Nhung tự dịch từ nguyên bản tiếng Pháp . Cho đến tận
bây giờ, tôi vẫn còn thuộc những câu thơ ấy và nó hiện ra trong đầu tôi
cùng với hình ảnh Nhung đang đọc lên lúc ấy: “Tất cả những gì về anh
nhờ em anh mới biết – Trời đã đứng trưa, ngày cũng sắp qua rồi – hạnh
phúc không phải ngọn đèn nơi quán nhỏ - anh cầm tay em trong cuộc đời
đau khổ - mà con người chưa hiểu nghĩa chung đôi…”
Con đường dài hun hút và
vắng teo ấy cuối cùng cũng ở sau lưng chúng tôi! Tôi sợ phải chia tay
với Nhung. Một nỗi sợ không có hình hài nhưng nó làm tim tôi như ngừng
đập! Và có lẽ Nhung biết rất rõ điều ấy nên Nhung đã đồng ý để tôi đưa
Nhung trở lại thị xã Thái Nguyên. Và rồi cuối cùng, tôi đã đưa Nhung trở
lại Hà Nội. Chúng tôi quyết định sẽ đi lang thang khắp Hà Nội một lần
nữa, một ngày một đêm, rồi tôi sẽ đi Thái Nguyên, tới huyện Đại Từ và
cuối cùng là cái làng Đầm Mây heo hút kia!
Khắp Hà Nội là
một không khí sẵn sàng chiến đấu đánh trả bọn “Thần Sấm”, “Con Ma” của
“Không lực Hoa Kỳ”. Trên đường Thanh Niên bên Hồ Tây, nơi có hàng ghế đá
và những cây liễu rủ tóc thướt tha – nơi hẹn hò yêu đương của những đôi
lứa – sừng sững những khẩu pháo phòng không đang sẵn sàng nhả đạn bất
cứ lúc nào. Trên sân thượng ở các nhà cao tầng, những khẩu súng máy 14,5
li và 12,7 li và cả súng trường CKC cũng đang vươn nòng sẵn sàng chiến
đấu !... Một ý nghĩ thoáng vụt đến: tôi muốn đi chiến đấu, tôi sẽ xông
pha nơi bom lửa bão đạn, chứ không thể tìm đến một nơi an toàn tít tận
cái làng Đầm Mây hẻo lánh trên miền núi rừng kia để mà ngồi học, nhất là
Nhung lại không được đi học nữa! (Ý nghĩ bất chợt ấy chỉ ba tháng sau
đã trở thành sự thật!).
Bấy giờ là tháng Chín – Mùa Thu. Tôi
và Nhung cứ đi lòng vòng mà không định rõ rằng sẽ đi đến đâu? Khi tôi
thấy đôi chân mỏi rời thì cũng là lúc chúng tôi đang đứng trước Văn
Miếu. Chúng tôi đã đến Văn Miếu nhiều lần vì ông nội Nhung có tên trong
tấm bia đá tiến sĩ, mỗi khi nhớ ông nội Nhung lại đến đây…Tôi nói với
Nhung :
- Giá như bây giờ là Mùa Xuân thì hay quá, mình muốn đến nhìn hoa đào đón Mùa Xuân như thế nào?
- Mùa Thu Hà Nội có nhiều
điều kỳ diệu lắm. Mình có cảm giác rằng chính Mùa Thu đã làm cho Hà Nội
đẹp một cách huyền ảo. Vả lại riêng mình, trong bốn mùa ở Hà Nội, mình
thích Mùa Thu nhất, bởi Mùa Thu dài nhất, bí ẩn nhất…- Nhung nói nhỏ.
- Và buồn nhất – Tôi nói chen ngang – Tiếng Thu là âm thanh buồn vô hạn : “Con nai vàng ngơ ngác – đạp trên lá vàng khô”…
Nhung xác nhận:
- Đó cũng là một biểu
hiện lãng mạn của Mùa Thu, nhưng người ta chìm đắm vào đó nhiều quá,
thái quá bất cập. Mình thích Mùa Thu nhất không phải vì Mùa Thu buồn mà
vì lẽ khác. Bạn cứ thử nghĩ xem, tại sao chỉ có Thiên Thu mà không có
thiên Xuân, thiên hạ, thiên đông? Thiên Thu (ngàn năm) là một khái niệm
thời gian không có giới hạn…Mình cứ bị ám ảnh bởi một câu thơ nói về cái
chết của một chú bé lính kèn: “Hỡi người lính kèn nhỏ tuổi – Hãy nằm
đây yên giấc ngàn Thu…” Đó là cái vĩ đại, cái kỳ diệu trong cái bé nhỏ.
Loài người tồn tại được là nhờ điều đó!
Tôi lờ mờ nhận ra điều gì
đó trong suy nghĩ của Nhung, nó như đôi cánh của Thiên Thần đang bay
trên thinh không kỳ ảo. Vì cứ mải đuổi theo đôi cánh Thiên Thần ấy mà
tôi quên hết những gì định nói với Nhung trong ngày hôm nay. Cuối cùng,
tôi lại nói một câu rất vu vơ:
- Thiên Thu? Đúng rồi !
“Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”, hồi ở Hải Phòng, vì đánh nhau mà
mình bị giam ở đồn công an một ngày, đúng là dài bằng cả ngàn năm!
Nhung mỉm cười rồi chợt buông một hơi thở nhẹ và nói:
- Mình rất muốn được học ở
Khoa Toán như bạn, nhưng cái số mình là nó vậy, biết làm sao. Điều mong
ước duy nhất của mình lúc này là bạn sẽ học thật tốt, sẽ trở thành một
nhà toán học như trước đây chúng mình đã hằng mơ ước. Bạn thắp hương cầu
khấn ông nội mình đi, ông sẽ phù hộ độ trì cho bạn…
Chúng tôi cùng cầu khấn
ông nội của Nhung. Tôi nhìn tấm bia Tiến sĩ mà như thấy cảnh tôi vinh
quy bái tổ, Nhung e lệ đón tôi trong tiếng pháo nổ vạn sắc hồng! Nhưng,
kỳ lạ thay, con Rùa dưới tấm bia như là đang bò đi, mới có vài bước
chân mà đã mất hút! Tôi giật mình nhìn sang Nhung, Nhung vẫn đang lầm
rầm khấn điều gì đó! Tôi không nghe rõ tiếng Nhung vì không hiểu sao tôi
nghe thấy tiếng lá rơi rất kỳ lạ, rất to như là tiếng bom nổ! Và điều
đó không sai, máy bay Mỹ đang ném bom ở đâu đó, không xa lắm, tiếng còi
báo động của Thành phố vang lên!
Đoạn kết:
Đoạn kết thật bi thương,
nhưng không thể khác đi được! Tháng Mười năm 1970 tôi được trở về tiếp
tục học tại khoa Toán sau bốn năm là lính Ra-đa thuộc lực lượng Phòng
không – Không quân. Lúc này, trường Đại học không phải đi sơ tán như hồi
tôi mới nhập học nữa. Khoa Toán của tôi học ở khu Thượng Đình. Nói
chung là rất tốt, không có gì phải phàn nàn!
Gặp lại Nhung, chúng tôi
đều rất mừng. Tôi thầm cảm phục Nhung đã có bản lĩnh vững vàng để đi qua
biến cố lớn của cuộc đời. Nếu là tôi, tôi đã gào thét, đã buông thả và
có lẽ sẽ trở thành một kẻ chán đời, bất lực. Trong suốt bốn năm qua,
Nhung đã tham gia rất tích cực trong đội cấp cứu cơ động của Thành phố.
Với tư chất thông minh bẩm sinh, với sự say mê học hỏi qua tủ sách Y học
và sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của người bố, kiến thức cũng như
thực hành về Y học của Nhung không thua kém bất kỳ một bác sĩ chuyên
khoa giỏi nào. Nhung đã cùng đội cấp cứu cơ động cứu sống rất nhiều
người trong những đợt oanh tạc liên tục từ ngày này qua ngày khác của
máy bay Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại mang tính hủy diệt này…Với
việc trở lại Khoa Toán của tôi, Nhung đã khiến tôi bất ngờ vô cùng:
Nhung tặng tôi toàn bộ số sách giáo trình của bốn năm học của một sinh
viên khoa Toán mà tôi sẽ phải dùng đến. Ngày tháng mua sách được ghi ở
trang đầu từ năm 1967 đến 1970. Thì ra trong khi tôi đang mất hút ở
chiến trường, Nhung đã mua sách theo chương trình và tự học xong toàn
bộ. Lúc đưa sách cho tôi, Nhung chỉ nói ngắn gọn: “Trong thời gian bạn ở
chiến trường , mình đã học thay bạn. Giờ bạn đã trở về, trả lại cho bạn
đó!”
Tôi không biết nói sao,
chỉ biết lao vào những Ma trận kỳ ảo, những Chuỗi số dài vô tận của toán
học… Song, một điều bất ngờ đến kinh hoàng, đến nỗi cho đến tận bây giờ
tôi vẫn chưa tin là nó đã xảy ra là: trong một lần cứu hai em bé bị
nước cuốn trôi ngay sát cầu Long Biên, Nhung đã bị cuốn vào một cái hút
nước. Phải mất nửa ngày, hai người thợ lặn mới tìm thấy Nhung !... Đó là
ngày l0-l0-1971!...
…Nhung nằm đó, bất
động…Tay Nhung đang cầm miếng ngọc bội mà tôi đã tặng Nhung ở Hồ Tây năm
xưa…Tôi vụt nhớ đến câu thơ có hai chữ “Thiên Thu” mà Nhung đã đọc cho
tôi nghe rất nhiều lần: “ Hỡi người lính kèn nhỏ tuổi – Hãy nằm đây an
giấc ngàn Thu”…Và tôi đã đọc lên cho Nhung nghe, một lần, hai lần, ba
lần, đọc hoài!...
Đỗ Ngọc Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét