Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Phê bình và Tiểu Luận... - Đ.N.Thạch

Phê bình & Tiểu luận...- Đỗ Ngọc Thạch

Thứ tư, ngày 31 tháng tám năm 2011

PB&TL của Đỗ Ngọc Thạch trên vanvn.net, trieuxuan.info...- Đ.N.T (mới - 2)

PB&TL của Đỗ Ngọc Thạch trên vanvn.net, trieuxuan.info...- Đ.N.T

Đăng ngày: 23:59 30-08-2011

PB&TL của ĐỖ NGỌC THẠCH trên vanvn.net, trieuxuan.info...

  • Nhà báo Đỗ Ngọc Thạch

ĐỖ NGỌC THẠCH (TP.HCM-1993)

Xem hình

Đỗ Ngọc Thạch (TP. HCM-2010)

  1. phê bình, tiểu luận của Đ.N.T trên vanvn.net, trieuxuan.info ...

    25 Tháng 2 2010 – Truyện ngắn - Đặc trưng thể loại Đỗ Ngọc Thạch (3/4/2009 10:17:20 AM) . ... Net (PB ) · 5 bài Tiểu luận, PB trên VanVn.Net (Phiên bản cũ) ...
  2. phê bình, tiểu luận của Đ.N.T trên vanvn.net, trieuxuan.info ...

    25 Tháng 2 2010 – Truyện ngắn - Đặc trưng thể loại Đỗ Ngọc Thạch (3/4 ...
  3. phê bình, tiểu luận của Đ.N.T trên vanvn.net, trieuxuan.info ...

    25 Tháng 2 2010 – Truyện ngắn - Đặc trưng thể loại Đỗ Ngọc Thạch (3/4 ...

Đọc nhiều nhất
Đỗ Ngọc Thạch
GS Đỗ Đức Hiểu và tác phẩm Đổi mới phê bình văn học
Đỗ Ngọc Thạch
Một cơ chế đặc thù của văn hóa


Đỗ Ngọc Thạch
Kịch nói và cuộc sống hôm nay
Đỗ Ngọc Thạch
Đọc Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng
Đỗ Quyên
Đỗ Ngọc Thạch và lối viết hiện thực huyền ảo Việt tính


Đọc nhiều nhất
Đỗ Ngọc Thạch
Đọc tác phẩm: Đến hiện đại từ truyền thống
Đỗ Ngọc Thạch
Những trang web Văn học - Cầu nối tuyệt vời của Nhà văn - Tác phẩm và Bạn đọc

    1. Vũ Bằng và nghệ thuật viết chân dung văn học

      Đỗ Ngọc Thạch. Thứ sáu, 27 Tháng 3 2009 21:09. Nhà văn, nhà báo Vũ Bằng sinh năm 1914, mất năm 1984, năm nay là 95 năm ngày sinh và 25 năm ngày mất của ông. ...
      vanchinh.net/index.php?... - Đã lưu trong bộ nhớ cache - Tương tự
  1. Đỗ Văn Sĩ
    29.9.2009
    Tương tác trên net
    Tương tác trên net
    - Đỗ Ngọc Thạch

    Thơ về vợ của Nguyễn Duy
    Đỗ Ngọc Thạch
    (3/6/2009 7:07:15 PM)
                                 
    Khi trong túi có mấy đồng ngọ nguậy
    Ta chạy rông như gì nhỉ - quên đời
     Lúc xơ xác bờm xơm từng sợi tóc
     Đói lả mò về
                           Cơm đâu
                                         Vợ ơi…


Vũ Bằng và nghệ thuật viết chân dung văn học
Đỗ Ngọc Thạch
(3/27/2009 8:50:45 PM) Nhà văn, nhà báo Vũ Bằng sinh năm 1914, mất năm 1984, năm nay là 95 năm ngày sinh và 25 năm ngày mất của ông. Vũ Bằng là một mẫu nhà văn – nhà báo khá điển hình và độc đáo của làng văn, làng báo Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ hai mươi.
Thắp một nén nhang tưởng nhớ đến ông, càng suy ngẫm về ông, về những tác phẩm của ông  để lại ta càng phát hiện ra thêm nhiều bài học bổ ích…
Bản sắc văn hoá của con người Việt Nam trong bản sắc văn hoá Việt Nam
Đỗ Ngọc Thạch
(2/25/2009 12:25:20 PM)
Khoảng hơn chục năm trở lại đây, từ giữa những năm 80, tức là đất nước chuyển sang thời kỳ đổi mới, việc nghiên cứu văn hóa dân  tộc được xúc tiến rầm rộ, có khá nhiều cuộc hội thảo bàn về chiến lược phát triển, về đặc sắc văn hóa dân tộc. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, những nội dung khác nhau về văn hóa dân tộc được xem như là một nội dung quan trọng, phong trào “tìm về cội nguồn dân tộc” sôi động từ nông thôn tới thành thị, vào những dịp ngày lễ, ngày tết, khắp nơi cờ xí rợp trời, xã hội cổ xưa tưởng như đã đi vào dĩ vãng bỗng sống lại trong nghi ngút khói nhang…

Truyện ngắn - Đặc trưng thể loại
Đỗ Ngọc Thạch
(3/4/2009 10:17:20 AM)
           “Thể loại  sống bằng hiện tại , nhưng luôn nhớ quá khứ của mình, khởi thủy của mình” (M.B.)
Home / Nghề văn
Truyện ngắn - Đặc trưng thể loại
Đỗ Ngọc Thạch ( 3/4/2009 10:17:20 AM )
Đặc trưng  của từng thể loại  và mối quan hệ giữa các thể loại trong tiến trình phát triển của văn học là những vấn đề cơ bản của lý luận văn học. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến thể loại truyện ngắn, một thể loại văn học được coi là  “xung kích” của đời sống văn học, một thể loại có tính chất “thuốc thử” đối với  hầu hết nhà văn trên con đường sáng tạo nghệ thuật đầy cam go…Do đây chưa phải là một chuyên luận “bài bản” nên những trích dẫn không đánh số chi tiết (tránh cho bài viết “cồng kềnh”, nặng nề) mà chỉ xin nêu ra một số sách tham khảo chính như : “Cá tính sáng tạo và sự phát triển của văn học” (M.B.Khrapchenco), “Những vấn đề thi pháp của Đoxtoiepxki” (M. Bakhơtin), “Những vấn đề lý luận trong kịch hiện thực” (M.Gorbunova), “Cấu tứ trong thơ trữ tình” (G.Bese), “Lao động nhà văn” (A. Xaytlin), “Bông hồng vàng” (K.Pauxtopxki), “Đaghextan của tôi” (R.Gamzatop), “Sổ tay truyện ngắn” (Vương trí Nhàn), “Những vấn đề lý luận và lich sử văn học” (Viện Văn học), v.v …
       * * *
   Khi nghiên cứu sự phát triển của những thể loại trong những thời kỳ lịch sử khác nhau, M.B. Khrapchenco đã phát triển luận điểm của V.Bielinxki “…nếu như có những tư tưởng của thời đại thì cũng có những hình thức của thời đại”, ông lưu ý rằng, khi quan sát sự bộc lộ mối liên hệ với thời đại, với hiện thực lịch sử của sự phát triển của những thể loại, chúng ta phải thấy rằng sự phát triển các thể loại trong những thời kỳ lịch sử nhất định nằm trong mối tương quan nhất định với sự phát triển những khuynh hướng nghệ thuật, và cũng phải chú ý đến sự không đồng đều độc đáo của quá trình phát triển nghệ thuật, nghĩa là trong khi một số thể loại này sống không lấy gì làm lâu thì những thể loại khác, tuy có sự biến đổi cơ bản, lại chứa đựng nội dung xung đột của những thời đại khác nhau.
     Truyện ngắn, một thể loại mà nếu nhìn  thuần túy hình thức bên ngoài thì dường như nó  không thay đổi, nhưng nếu nghĩ rằng  nó phải  chứa đựng  nội dung xung đột của những thời đại khác nhau thì ắt  nó sẽ có biến đổi gì đây ? Rõ ràng, cái biến đổi cơ bản vừa nói trên  đối với thể loại truyện ngắn, nó thuộc về cấu trúc nội tại của thể loại này. Điều này phù hợp với luận điểm khá thịnh hành hiện nay : về phương diện lịch sử, thể loại là một cấu trúc biến đổi. Vậy thì ta hãy xem cái biến đổi ấy nó tuân thủ nguyên tắc nào để nó đủ sức chứa đựng được những tư tưởng mới của thời đại mới.
     Theo tôi nghĩ, trong lịch sử phát triển của thể loại, bên cạnh việc xuất hiện những loại hình, thể loại mới, khái niệm đổi mới sáng tạo của nghệ thuật bao hàm sự đạt tới một cách hoàn mỹ của một loại hình, thể loại nào đó. Nói cách khác, mỗi loại hình, thể loại luôn vận động để tự làm giàu mình đồng thời tác động qua lại lẫn nhau để đạt tới sự hoàn mỹ cao hơn – trở thành những “khuôn vàng thước ngọc” của nghệ thuật.
     Mỗi loại hình, thể loại cần có tên gọi, khuôn mặt của nó. Với truyện ngắn, ý kiến sau của Ga-ra-nốp thật đáng chú ý : “ Đối với truyện ngắn hay, có một vấn đề đặc biệt quan trọng, đó là bảo vệ cho được tính xác định về mặt  thể loại. Truyện ngắn cần phải cô đọng đến  mức cao nhất. Vấn đề số một đối với nó là vấn đề dung lượng (xin đừng lẫn với sự ngắn gọn bên ngoài)”.
     Nhà văn có tài, có phẩm chất sáng tạo chính là người chấp nhận tự nguyện và thoải mái những nguyên tắc sắt đá của thể loại. Trong quá trình chấp nhận lề luật đó, chính là anh ta đã làm cho những nguyên tắc sắt đá đó trở nên hoàn mỹ. Thể loại càng đẹp, càng tinh xảo, tư tưởng càng sâu sắc, càng lớn lao.
    Khi cầm bút, vấn đề viết cái gì đây dần dần sẽ được chuyển thành vấn đề lựa chọn thể loại nào ? Sẽ không thể viết nổi  nếu không nắm vững nguyên tắc của thể loại và điều đó không chỉ là vấn đề nghề nghiệp đơn thuần mà còn là một yếu tố quan trọng để cùng với tư tưởng  tình cảm hình thành nên cảm hứng sáng tạo, hình thành nên “tia chớp” cảm hứng để nhà văn cất cánh bay vào bầu trời sáng tạo nghệ thuật.
    Chọn thể loại cho phù hợp với ý đồ tư tưởng là khâu đầu tiên đặc biệt quan trọng của quá trình sáng tạo. Với ý nghĩa này , bản thân thể loại – hình thức , đã thể hiện sự đòi hỏi phải phù hợp với chủ đề tư tưởng – nội dung. Luận điểm về mối quan hệ hữu cơ giữa hình thức và nội dung thể hiện rõ ngay ở khâu đầu tiên này. Ý tưởng này được nhà thơ Raxun Gamzatop nói bằng hình ảnh độc đáo và giản dị:  
          “Kẻ  ngu làm kinh ngạc bằng tiếng gào
            Người thông minh làm kinh ngạc bằng câu tục ngữ dẫn ra đúng chỗ.
            Mùa xuân đã đến – hãy hát bài ca
             Mùa đông đã đến – hãy kể chuyện cổ tích “
     Trong lịch sử phát triển lâu dài của nghệ thuật văn chương nhân loại, có rất nhiều ví dụ về những nhà cách tân lớn mà bằng tài năng độc đáo của mình đã đưa thể loại truyện ngắn đến những đỉnh cao rực rỡ của sự hoàn mỹ. Tính cách tân của các thiên tài là làm phong phú, đa dạng thể loại đồng thời tiến tới khẳng định những nguyên tắc cơ bản, những qui định ngặt nghèo và khắt khe của sáng tạo nghệ thuật ở thể loại truyện ngắn.
     K. Pauxtopxki -  nhà cách tân độc đáo, người thầy dạy nghề cỡ lớn đã nói về điều này:”Mỗi nhà văn, kể cả những người muốn viết truyện ngắn một cách hoàn toàn thoải mái, đều không khỏi có lúc phải nghĩ về những nguyên tắc sắt đá, những  “qui luật vàng” được viết trong các sách giáo khoa văn học. Những qui luật đó cố nhiên rất hay. Chúng buộc những ý tưởng còn lờ mờ trong đầu óc nhà văn phải cập bến những ý đồ chính xác và sau đó, nhịp nhàng đi tới những khâu cuối cùng  , tới  sự hoàn thiện của tác phẩm, cũng như con sông mang nước của mình tới  biển”.
     Thông thường, người ta chỉ chú ý đến tính chất tự sự (kể chuyện) của truyện  ngắn, tệ hơn là coi truyện ngắn như một thứ văn xuôi “nôm na mách qué”, hoặc thứ văn xuôi “bò sát ngọn cỏ” !...Đó là một quan niệm sai lầm. Truyện ngắn đích thực không bao giờ là những chuyện vặt vãnh mà mỗi chi tiết dù nhỏ bé cũng ẩn tàng hơi thở của thời đại, nỗi đau, niềm vui của nhân thế… Những cách tân, sáng tạo của các  nhà văn bậc thầy về truyện ngắn đã khẳng định rằng, truyện ngắn, về tạng chất của nó rất gần với thơ, thậm chí có thể nói một  cách không đến nỗi quá đáng rằng, truyện ngắn là một dạng cấu trúc đặc biệt của thơ. Với ý nghĩa ấy, truyện ngắn  có vị trí cao cả đặc biệt ở ngay cả trong “bầu trời Thi ca” mà lâu nay thơ ca độc tôn ! Về điều này, cũng K.Pauxtopxki có ý kiến tuyệt hay :”…Cái chính là ở chỗ khi văn xuôi đã đạt tới mức hoàn thiện toàn mỹ thì về bản chất nó đã thật sự là thơ!”. Và chính những truyện ngắn của K.Pauxtopxki là sự chứng minh rõ ràng ý tưởng đó : được cảm hứng trữ tình sâu lắng dẫn dắt, những câu truyện rất giản dị mà Pauxtopxki kể ra đã mất đi cái chất nôm na ngày thường của nó mà lấp lánh cái cấu trúc kỳ ảo của những tứ thơ thể hiện những nỗi niềm ưu tư, trắc ẩn về số phận con người, thời đại…
     Cần lưu ý rằng, cái nghĩa Thơ  được nói đến ở đây phải được hiểu là chất trữ tình sâu lắng của những trạng huống, của những tâm trạng nhân vật trong truyện ngắn (chứ không phải là những sự uốn éo  cầu kỳ trong câu văn, sự lòe loẹt trong tả cảnh…), là sự cao đẹp của tư tưởng thẩm mỹ khả dĩ có sức mạnh chắp cánh mà nâng cao tâm hồn người đọc thoát khỏi những sự níu kéo của cái “trần tục” ở đời thường đặng vươn tới những ý tưởng đầy nhân văn và sáng tạo. Với ý nghĩa ấy, chất thơ  của truyện ngắn chính là cái tâm trong sáng mà đầy nặng sự ưu thời mẫn thế của nhà văn.
     Như vậy, khi đạt tới đỉnh cao sáng tạo, thơ và truyện ngắn đã gặp nhau hòa thành đám mây ngũ sắc kỳ diệu ! Đây chính là đầu mối để ta lần tìm về đặc trưng loại biệt của thể loại truyện ngắn. Bởi vì, chỉ có đứng ở nơi hội tụ của sáng tạo nghệ thuật này, ta mới nhìn rõ những nguyên tắc sắt đá, những qui luật vàng của thể loại truyện ngắn !
    Ta hãy  trở lại  câu hỏi  “Truyện ngắn là gì ?”.  Như trên vừa nói thì có phải chăng truyện ngắn là thơ, một dạng thơ đặc biệt -  thơ văn xuôi ? Đó cũng là một ý, song chưa vội, hãy trở lại với cái tên gọi của nó : Truyện ngắn !
     Tên gọi truyện ngắn đã thể hiện khá rõ diện mạo của nó : truyện ngắn thì phải là  truyện… ngắn  !  Không cần phải dùng lối chiết tự hoặc tìm tra cái ngữ nghĩa xa xưa của thuật ngữ “truyện ngắn” như nhiều người  đã làm, mà ta hãy cứ nhìn vào phương thức tồn tại và cái hình hài ngắn gọn đến ngạc nhiên của những  truyện ngắn kiểu mẫu của các bậc thầy, sẽ có ngay được ý niệm cơ bản khá chính xác về truyện ngắn : đó là một kỳ quan nghệ thuật bé nhỏ nhưng có sức chấn động phi thường !
      Một số người dựa vào chính cách tồn tại của truyện ngắn để giải thích những đặc điểm của thể loại . Đây là một hướng tiếp cận tốt. Bởi vì từ khi ra đời cho đến nay (truyện ngắn hình thành gắn liền với sự ra đời của báo chí), truyện ngắn ngày càng khẳng định rõ chức năng  của  nó  ở cả hai phương diện báo chí  và văn chương . Môi trường sống của truyện ngắn là báo chí, nhưng tính chất của nó  là một tác phẩm văn chương . Báo chí qui định cho truyện ngắn  một hình thức – khuôn khổ ngắn gọn . Tính chất văn chương đòi hỏi truyện ngắn phải đạt tới một tác phẩm nghệ thuật có cấu trúc hoàn chỉnh – một chỉnh thể thẩm mỹ. Những truyện ngắn nào còn nặng về tính chất ghi chép, phóng sự và sức khái quát yếu  là do chưa thoát ra khỏi vòng cương tỏa của cái môi trường báo chí. Cũng là cái hạt mầm được gieo trên mảnh đất báo chí” ấy , nhưng truyện ngắn phải phát triển thành một loài cây đặc biệt, khác hẳn  với những  “vườn cây báo chí”, nó phải vươn tới tầm cao của sự sáng tạo nghệ thuật để tạo nên một thế giới khác : thế giới nghệ thuật văn chương .
      Truyện ngắn của chúng ta ít tính chất văn chương, nặng tính chất thời sự báo chí vì người viết bị gò ép quá nhiều về tính chất  “có định hướng” của tờ báo, vào những chủ đề, đề tài mà tờ báo đó phải  “bám sát”. Song, chủ yếu là do tài năng của người viết, chưa từ cái “khung cửa nhỏ” của đề tài mà nhìn bao quát được cả đại dương – mở rộng khả năng ôm trùm hiện thực, khả năng khái quát của thể loại truyện ngắn.Việc so sánh truyện ngắn với tiểu thuyết dưới đây sẽ làm rõ ý này .
     Như trên đã nói, vấn đề đặc biệt quan trọng là bảo vệ cho được tính xác định về mặt thể loại của truyện ngắn . Và tính xác định đó chính là sự đòi hỏi truyện ngắn phải cô động đến mức cao nhất. Điều này cũng được X. Antônốp đặc biệt nhấn mạnh : “ Trước mắt nhà văn viết truyện ngắn  là vấn đề rất phức tạp. Mọi câu chuyện càng phức tạp hơn, bởi lẽ truyện ngắn phải …ngắn !...Chính việc truyện ngắn phải ngắn khiến nó tự phân biệt một cách dứt khoát và rành rọt bên cạnh  truyện vừa và tiểu thuyết”. 
     Không ai máy móc qui định truyện ngắn phải bao nhiêu chữ, nhưng khuôn khổ báo chí đã hình thành nên một  diện mạo tương đối định hình đối với truyện ngắn : từ ba đến năm ngàn chữ. Điều cần chú ý ở đây là: cái  vỏ hình thức bên ngoài khá định hình của thể loại truyện ngắn đã buộc nó phải tạo nên sự biến đổi của  cấu trúc nội tại, đó là sự vận động phát triển đi từ cái cá biệt đến cái chung, từ cụ thể hóa đến khái quát hóa, tức là quá trình điển hình hóa của nghệ thuật văn chương. Đó chính là sự cách tân, đổi mới, sáng tạo của thể loại truyện ngắn. Sự khác biệt của truyện ngắn đối với truyện dài, tiểu thuyết không phải chỉ ở độ dài ngắn. Có người chú  ý đến phẩm chất đặc biệt của truyện ngắn do môi trường báo chí đòi hỏi, đó là yếu tố mới lạ. Song, cần lưu ý rằng, yếu tố mới lạ đó không phải là tính thời sự “sát sạt”, càng không phải là “chuyện lạ đó đây” của môi trường báo chí. Yếu tố mới lạ của truyện ngắn là phải tạo nên được sự cuốn hút đối với người đọc vào những sự kiện đang diễn ra một cách đầy biến động của cả đời thường và những chuyện lớn lao của thời đại. Điều cần nhấn mạnh là, yếu tố mới lạ đó là sự xâu chuỗi cái đời thường và những cái lớn lao thành một cấu trúc nghệ thuật hoàn chỉnh đặc biệt ngắn gọn, cô đọng của truyện ngắn khiến cho cái cụ thể và cái trừu tượng, cái cá biệt và cái điển hình ở truyện ngắn khác hẳn tiểu thuyết: nó hòa vào nhau và dường như là một để tạo nên sức cuốn hút mạnh mẽ ở người đọc – đọc liền một  mạch. Chính ở cách đọc truyện  ngắn này, một lần nữa cho ta thấy cái phẩm chất gắn bó với thơ của nó: mạch cảm hứng không đứt đoạn và truyện ngắn nào hay là những truyện ngắn cấu trúc  theo một cái tứ độc đáo như của tứ thơ vậy !...
     X.Antonop đã nói về điều này như sau: ”Bởi truyện ngắn chỉ đọc liền trong ít phút nên ở đây rất cần tới sự nguyên vẹn của cấu trúc, sự thống nhất của phong cách. Một vài câu không đâu, thậm chí vài trang tiểu thuyết có thể bỏ qua, nhưng ở truyện ngắn, người ta không được phép. Cần phải nhớ rằng, một trong những đặc điểm cốt yếu của truyện ngắn là nhạy bén trước những gì thay đổi của đời sống…Một trong những lý do để nhiều thế kỷ qua, truyện ngắn trở thành một trong những thể loại có ý nghĩa phổ cập nhất: đó là sự kết hợp giữa yếu tố năng động, khả năng nhạy bén với một cái nhìn rất mới đối với cuộc sống”
     Ngắn ở truyện ngắn đồng nghĩa với cô đọng, tinh chất – nhìn vào đó có thể thấy cuộc  sống hiện ra với đủ sắc màu của nó. Sự thách đố ở đây là ai viết được ngắn gọn nhất ! Lep Tonxtoi nói:”Tôi không có thời gian để viết ngắn!”. Còn A. Tsekhop nói:”Để có một truyện ngắn tốt, trong truyện đó, không có cái gì được thừa, cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả đâu vào đấy, không có gì được thừa, truyện ngắn cũng vậy. Nghệ thuật viết, nói cho đúng ra, không phải ở chỗ viết như thế nào, mà là nghệ thuật vứt bỏ đi những gì dở kém như thế nào”…
      Và A.Tsekhop đã rất trung thành với những nguyên tắc đó của nghệ thuật viết truyện ngắn. Ông cố gắng viết thật ngắn, nhưng truyện của ông nồng ấm hơi thở đời sống, bao quát những vấn đề cơ bản của xã hội và vang lên âm hưởng sử thi quyến rũ. Sự sáng tạo của A.Tsekhop khiến ta ngạc nghiên chính là kết cấu chặt chẽ, ngắn gọn và có vẻ đẹp thanh tú, giản dị đến tuyệt vời. Đó là sự ngắn gọn, giản dị của thiên tài. Tomat Man  nói: ”Sự ngắn gọn của Tsekhop là sự ngắn gọn tráng lệ”. Còn Trifnov nói:”Truyện ngắn của Tsekhop (những truyện ngắn hay nhất) chính là những tiểu thuyết được tài năng ghê gớm của ông cô gọn lại”. Và , từ những truyện ngắn  mẫu mực của Tsekhop, Trifnov đã đi đến  khẳng định đặc trưng của thể loại truyện ngắn: Về khả năng bao quát cuộc sống, truyện ngắn và tiểu thuyết bình đẳng với nhau… Một anh hùng ca dày dặn và một truyện ngắn bốn, năm trang có thể xếp vào cùng một diễn đàn”. Ý kiến này dường như có vẻ cao hứng và cường điệu. Song, với bàn tay sáng tạo kỳ diệu của thiên tài, sức mạnh của thể loại là không có giới hạn !
   Đến đây, có thể nói, truyện ngắn vừa là dạng thức đặc biệt của THƠ, vừa là TIỂU THUYẾT được cô gọn lại – dạng thức độc đáo của tiểu thuyết.Với ý nghĩa này, nếu nói truyện ngắn là thể loại văn học khó nhất là hoàn toàn có cơ sở. Ở truyện ngắn, mỗi câu chữ, mỗi dấu chấm phảy đều phải được chọn lọc tới mức tinh xảo, hoàn mỹ. Ngôn ngữ của truyện ngắn  phải là thứ ngôn ngữ kim cương tuân theo những  “Quy luật vàng” khắc nghiệt ! Cho nên ta sẽ dễ dàng tìm thấy không ít những ý kiến về đặc trưng của thể loại truyện ngắn gần với  quan niệm trên. Chẳng hạn như: ”Trong các thể loại văn chương, truyện ngắn đóng vai trò hổ báo trong đại gia đình các loài vật. Ở loài thú dữ này, không được có chút mỡ thừa dính vào mọi cơ bắp, nếu không chúng không thể săn mồi được. Ngắn gọn là qui luật của việc cấu tạo truyện ngắn. Nhờ có khả năng phản ánh  hành động một cách ngắn gọn, truyện  ngắn có khi còn có thể đạt tới trình độ anh hùng ca và đó là cả một bí mật của nó” (Hoan Bốtsơ), “Truyện ngắn là một thứ giọt nước mà không có nó không thể có đại dương . Theo tôi hiểu toàn bộ truyện ngắn là một tấm thảm lớn lao về cả thời đại. Với những mảnh tưởng như rất nhỏ bé, nó góp phần tạo nên cả tấm chân dung hoàn chỉnh. Truyện ngắn giống như tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô đọng, các phương tiện phải được tính toán một cách tinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là một công việc vô cùng tinh tế. Xoay xỏa trên một mảnh đất chật hẹp, chính đó là chỗ làm cho truyện ngắn phân biệt với các thể loại khác” (Ts.  Aitmatốp), v.v…
      A. Tônxtôi  nhận định : truyện ngắn là một trong những thể tài văn học khó nhất. Về nội dung cũng như về tư tưởng , nó không khác gì tiểu thuyết…chỉ có điều do ngắn nên khó hơn…Truyện ngắn đòi hỏi một công phu lao động lớn. Đây là chỗ đánh dấu trình độ nghệ thuật một nền văn học”, để thấy rằng vấn đề đã trở nên trầm trọng, chứ không phải “chuyện như đùa”  nữa . Từ ngày có cuốn  “Những người thích đùa”  của Azít  Nêxin, dường như làng văn của chúng ta thiếu đi tính thận trọng, nghiêm túc cần thiết . Người sáng tác viết như đùa nhà phê bình cũng  viết như đùa mà quên đi rằng “cơm áo không đùa  với khách văn”  !  Muốn đùa phải cao tay lắm ! …
    * * *
    Nhà thơ Đức Bese có nói rất hay rằng  : “Khi nào bầu trời thơ  ca rạng rỡ nhất ? Sau cơn giông , sau xung đột” . Câu này được viết trong chuyên luận “Cấu tứ trong thơ trữ tình” .Như thế có thể nói rằng, xung đột không chỉ là đặc trưng loại biệt của KỊCH mà cả THƠ và VĂN XUÔI đều có dự phần. Cũng như vậy, chất trữ tình bay bổng không chỉ là thuộc tính đặc trưng của THƠ mà cả KỊCH và VĂN XUÔI đều không thể thiếu. Sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các  thể loại văn học không chỉ làm cho thể loại trở nên phong phú, đa dạng mà còn ngày càng khẳng định những đặc trưng có tính loại biệt của các thể loại. “Thể loại sống bằng hiện tại, nhưng luôn nhớ quá khứ của mình, khởi thủy của mình” (M.Bakhơtin) – liệu còn cách nói nào hay hơn nữa ?
Hà nội, 1985 – TP.HCM, 2009
Đỗ Ngọc Thạch
Đã viết lại bài này, xem: TRUYỆN NGẮN - ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
Đã viết lại bài này, xem: TRUYỆN NGẮN - ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
Biển Côn Đảo trong xanh đến quyến rũ

Lý luận phê bình văn học
15.04.2009
Đỗ Ngọc Thạch
Một cơ chế đặc thù của văn hóa
   Tất cả những biểu hiện của hoạt động thẩm mỹ của con người mà chúng ta quen nói nôm na là “đời sống văn hóa- văn nghệ”  được bộ môn lý luận văn hóa  xác định trong một cấu trúc tổng thể theo một hệ thống với khái niệm văn hóa nghệ thuật – là một hệ thống, một thể thống nhất khép kín. Trong  hệ thống văn hóa nghệ thuật đó, có nhiều hệ thống phụ, hệ thống con, thể hiện cơ chế hoạt động của những lĩnh vực khác nhau của đời sống thẩm mỹ. Một trong những hệ thống phụ đó của văn hóa nghệ thuật là bộ môn phê bình nghệ thuật.
 Các hệ thống phụ trong cấu trúc của văn hóa nghệ thuật đều vận hành theo những quy luật đặc thù, có cơ chế hoạt  động riêng nhưng đều có mối quan hệ qua lại hữu cơ với nhau. Nếu chỉ nhìn vào qui luật đặc thù thì dễ dẫn đến những quan niệm cực đoan, phiến diện. Nếu bị những biểu hiện của mối quan hệ qua lại chồng chéo che lấp thì sẽ không nhìn rõ đặc trưng loại biệt của từng đối tượng quan sát. Vì thế, dưới đây chúng ta sẽ quan sát cơ chế hoạt động của một quá trình hoạt động nghệ thuật, trong đó sẽ làm nổi rõ bộ môn phê bình nảy sinh từ đâu, nó có chức năng gì, tác động như thế nào vào quá trình này?
    1.   Hình thái đầu tiên, công đoạn đầu tiên của một quá trình hoạt đông nghệ thuật là sản xuất nghệ thuật (theo chữ dùng của C.Mac). Trong cơ chế sản xuất nghệ thuật hiện đại , bên cạnh “nhân vật chính” là nhà sáng tác còn có một “công cụ sản xuất” rất quan trọng là nhà biên tập. Nhiệm vụ lớn nhất của họ là thẩm định, đánh giá trước nhất tác phẩm nghệ thuật, giúp nhà sáng tác hoàn chỉnh tác phẩm  trước khi nó được ra mắt công chúng với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Trước đây, người ta ít chú ý đến bàn tay của nhà biên tập, dấu ấn lao động nghệ thuật của họ trong việc cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật. Phải nói rằng quá trình làm việc giữa nhà biên tập và nhà sáng tác diễn ra khá công phu và  đó chính là một biểu hiện của hoạt động phê bình nghệ thuật. Hoạt động phê bình ở “khâu yếu” này như thế nào, đến nay vẫn còn là “chuyện hậu trường”,chưa được chú ý nghiên cứu. Tuy vậy, cũng có thể nhận xét sơ bộ rằng, hoạt động phê bình đã có nhu cầu nảy sinh, nhu cầu tồn tại ngay từ khi tác phẩm nghệ thuật chuẩn bị ra đời, thậm chí nó còn thai nghén trong ý đồ sáng tác của nhà sáng tác. ở khía cạnh khác có thể nói, đây chính  là cơ sở nảy sinh của kiểu phê bình tình cảm -  cá tính sáng tạo, chủ yếu dựa vào công việc bếp núc của nhà sáng tác mà nhà phê bình (hình thành từ trong đội ngũ nhà biên tập) nắm bắt tường tận. Những nhà phê bình này thiên về lý giải, phân tích tác phẩm trong quá trình “mang nặng đẻ đau” của nhà sáng tác, chú ý nhiều đến cuộc đời của nhà sáng tác và cố tìm mối quan hệ giữa tác phẩm và chính cuộc đời của nhà sáng tác. Kiểu phê bình này thường là tạo ra được những chân dung sinh động về nhà sáng tác hơn là sự “mổ xẻ” lạnh lùng  và khách quan tác phẩm của nhà sáng tác.
   2. Tác phẩm nghệ thuật ra đời, nó tồn tại trong đời sống thẩm mỹ với tư cách là một vật thể mang giá trị nghệ thuật. Giá trị này được quyết định bởi  nội dung tinh thần của nó và   phẩm chất của hình thức mang giá trị đó. Đồng thời nó cũng được qui định bởi tính chất của những nhu cầu xã hội và bởi  mức độ đáp ứng của tác phẩm đối với những nhu cầu ấy. Nói cách khác, giá trị nghệ thuật này tùy thuộc vào lý tưởng thẩm mỹ của thời đại (hệ tư tưởng chính thống của hoàn cảnh lịch sử - xã hội mà tác phẩm nghệ thuật ra đời). Vì thế, nó mang tính cụ thể - lịch sử và đương nhiên biến đổi theo biến động lịch sử - xã hội. Thước đo giá trị của tác phẩm nghệ thuật này nằm trong lý tưởng thẩm mỹ của thời đại. Thước đo này là “công cụ thẩm mỹ” đặc biệt nhằm đánh giá giá trị tác phẩm nghệ thuật. Như vậy là, từ trong bản thân tính chất của tác phẩm nghệ thuật đã nảy sinh nhu cầu tất yếu đánh giá giá trị tác phẩm nghệ thuật: đó là hoạt động  phê bình nghệ thuật. Như thế, nhà phê bình nghệ thuật chính là “công cụ thẩm mỹ” đặc biệt để một lần nữa xác định giá trị tác phẩm nghệ thuật khi nó tồn tại trong đời sống thẩm mỹ với tư cách là một vật thể mang giá trị nghệ thuật. Giá trị tự thân của tác phẩm nghệ thuật và sự đánh giá của nhà phê bình có trùng khớp hay không, đó là một công việc lớn cùa phê bình nghệ thuật.
Sự đánh giá này của hoạt động phê bình nghệ thuât mang tính chất tổng  quát và nó thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của thời đại, nhà phê bình nhân danh người phát ngôn cho tư tưởng  thẩm mỹ của thời đại. Vì thế người ta thường nói đó là sự đánh giá có tính chất triết học, hoặc triết mỹ. Đây chính là cơ sở nảy sinh kiểu phê bình triết hoc, có từ lâu với cách gọi “Phê bình triết học truyền thống” (hoặc còn gọi phê bình là “mỹ học vận động”) do V.G.Biêlinxki sáng lập ở Nga. Kiểu phê bình này thường nhìn tác phẩm dưới con mắt triết mỹ,chú ý nhiều tới việc  tìm ra sự phù hợp giữa tác phẩm và  thời đại với sự tồn tại của giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mỹ (thực ra không thể tách bạch ra như thế!). Và như trên đã nói, giá trị này tùy thuộc vào lý tưởng thẩm mỹ của thời đại, cho nên nó chỉ chấp nhận những tác phẩm nào “hợp gu”, hợp “khẩu vị” với nó và đương nhiên, nó gạt ra ngoài những tác phẩm nào vượt quá “khuôn phép” mà nó – cái lý tưởng thẩm mỹ của thời đại – ngầm qui ước! Vì thế, khi thời đại có biến đổi, các tác phẩm có sự “đảo lộn” giá trị vì có sự “đảo lộn các thang giá trị”!... 
     Như C. Mác nói  “Tác phẩm nghệ thuật  - và mọi sản phẩm khác cũng thế - đều tạo ra một thứ công chúng sính nghệ thuật  và có khả năng thưởng thức cái đẹp”. (C. Mác: Về văn học và nghệ thuật -  Nxb Sự thật. H.1997 ,tr.96). Công chúng nghệ thuật là nhóm người có trình độ cảm thụ những tác phẩm nghệ thuật. Việc hình thành công chúng nghệ thuật, từ tự phát đến tự giác, từ giáo dục nghệ thuật đến giáo dục thẩm mỹ. ở một nền văn  hóa nghệ thuật phát triển cao, việc giáo dục nghệ thuật cũng như giáo dục thẩm mỹ (giáo dục nghệ thuật là một bộ phận hợp thành của hệ thống giáo dục thẩm mỹ) được chú trọng thì công chúng nghệ thuật càng phát triển, nâng cao. Công chúng ấy có nhạy cảm về nghệ thuật, am hiểu nghệ thuật, tức là có kiến thức về nghệ thuật mới có khả năng thưởng thức nghệ thuật, họ tiếp nhận được giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Mà giá trị của tác phẩm nghệ thuật luôn luôn biến đổi và đa nghĩa, lại được “mã hóa” bằng cấu trúc nghệ thuật phức tạp, ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù, v.v… Việc tiếp nhận giá trị của tác phẩm nghệ thuật đối với công chúng không dễ dàng gì. Tác phẩm nghệ thuật như là có “lớp vỏ” đặc biệt bao bọc . Vì thế,có thể nói, chính nhu cầu cảm thụ nghệ thuật của công chúng đã làm nảy sinh nhu cầu giáo dục nghệ thuật một cách chủ động cho công chúng, nhu cầu  “giải mã” tác phẩm để cho công chúng tiếp nhận hết giá trị của tác phẩm. Điều này nảy sinh tất yếu bộ môn phê bình nghệ thuật: gồm những nhà phê bình có trình độ, kiến thức nghệ thuật cao làm “phiên dịch”, “môi giới” giữa  công chúng với tác phẩm. Đây cũng chính là cơ sở của kiểu phê bình chủ yếu dựa vào văn bản cấu trúc của tác phẩm nghệ thuật. Kiểu phê bình này tập trung  vào việc phát hiện những cái “ẩn tàng” , “ẩn ngôn” , “ý tại ngôn ngoại” trong những cấu trúc “ đa tầng”, “đa nghĩa”, “ đa thanh” của tác phẩm nghệ thuật.
 3. Mặt khác, xét ở giác độ tâm lý tiếp nhận, hoạt động cảm thụ của công chúng đồng thời xảy ra với hoạt động đánh giá giá trị tác phẩm. Nói cách khác, đánh giá giá  trị tác phẩm nghệ thuật là một nhu cầu tất yếu của cảm thụ nghệ thuật. Nhu cầu đánh giá này không chỉ dừng lại ở sự phản ứng trực tiếp (bản năng của trạng thái xúc cảm thẩm mỹ) của công chúng nghệ thuật mà lan truyền, tích tụ thành  những “làn sóng dư luận công chúng”. Làn sóng này tồn tại và phát triển trong đời sống thẩm mỹ, đến độ nào đó sẽ nảy sinh thành nhu cầu phát ngôn thành những quan điểm thẩm mỹ. Điều này nảy sinh  tất yếu bộ môn phê bình nghệ thuật mà nhà phê bình là những đại biểu ưu  tú nhất của công chúng nghệ thuật . Việc chọn lọc những người tiếp nhận nghệ thuật có tài năng nhất  (theo cách nói của Xtanixlapxki) - những người vừa có một cảm quan nghệ thuật phát triển, tinh tế, được tôi luyện hẳn hoi lại vừa có khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ các ấn tượng và thể nghiệm nghệ thuật của mình. Những người này sẽ trở thành những nhà phê bình chuyên nghiệp . Chính vì thoát thai từ bộ phận ưu tú nhất của công chúng , những nhà phê bình này bao giờ cũng coi trọng hiệu quả của sự tác động thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật vào công chúng, coi trọng mối quan hệ giữa tác phẩm và công chúng, đương nhiên không thể không có dấu ấn cá nhân của nhà phê bình. Đây chính là cơ sở của kiểu phê bình xã hội học: tình trạng tiếp nhận tác phẩm của công chúng thu hút sự chú ý của nhà phê bình. “Công chúng là vị quan tòa thông minh nhất” – câu nói nổi tiếng này là chỗ dựa vững chắc cho kiểu  phê bình xã hội học này. Lâu nay, người ta thường dè bỉu kiểu phê bình là “xã hội học dung tục” bởi bộ môn xã hội học nghệ thuật chưa phát triển, nhà phê bình chưa thực sự là đại diện của bộ phận công chúng ưu tú… 
*

        Đến đây, ta có thể hình dung được rằng: trong cơ chế vận hành của một quá trình hoạt động nghệ thuật gồm 3 bộ phận: sáng tạo nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật và cảm thụ nghệ thuật – ba hệ thống phụ của cấu trúc một quá trình hoạt động nghệ thuật – đều có những cơ sở nảy sinh, những nhu cầu tất yếu của sự có mặt của bộ môn phê bình nghệ thuật. Bộ môn phê bình nghệ thuật nảy sinh từ trong quá trình vận hành của ba hệ thống phụ đó và ngay lập tức quay  trở lại tác động vào quá trình vận hành  ấy. Như vậy, có thể nói: Phê bình nghệ thuật là hệ thống phụ thứ tư của hệ thống văn hóa nghệ thuật – một thể thống nhất khép kín.
    Điều cần nhấn mạnh ở đây là: phê bình nghệ thuật là một cơ chế đặc thù của văn hóa, nó là một bộ phận thiết yếu thuộc hệ thống văn hóa nghệ thuật. Nó có chức năng tạo nên cái “bình thông nhau”, cái cầu nối giữa cảm thụ nghệ thuật và sản xuất nghệ thuật, nó giải quyết nhiệm vụ xác định giá trị của tác phẩm nghệ thuật và do đó nó điều chỉnh định hướng tư tưởng và thẩm mỹ của sản xuất nghệ thuật. Đồng thời nó có khả năng tác động trở lại vào bản thân việc cảm thụ nghệ thuật, vào ý thức thẩm mỹ và cảm quan nghệ thuật của công chúng. Điều này qui định tính biện chứng của quan hệ qua lại giữa nhà phê bình và công chúng nghệ thuật.
   Chức  năng vừa nêu của phê bình nghệ thuật, về nguyên tắc nó không thể lẫn lộn với các bộ môn khoa học chuyên nghiên cứu về nghệ thuật như mỹ học, lý luận nghệ thuật, xã hội học nghệ thuật, v.v…. Các bộ môn khoa học về nghệ thuật này không nảy sinh từ nhu cầu nội tại tất yếu của một quá trình hoạt động nghệ thuật mà chúng chỉ quan sát, nhìn vào nền văn hóa này từ bên ngoài, từ thế giới của các khoa học. Do đó, toàn bộ nền văn hóa nghệ thuật, trong đó có cả phê bình nghệ thuật, đều nằm ở trong tầm bao quát của các bộ môn khoa học về nghệ thuật vừa nêu với cái nhìn khách quan lạnh lùng của tư duy khoa học. Vì mối quan hệ giữa phê bình nghệ thuật và các khoa học nghiên cứu về nghệ thuật có nhiều mối quan hệ mật thiết cho nên lâu nay người ta vẫn xếp phê bình nghệ thuật   vào khu vực các bộ môn khoa học về nghệ thuật như lý luận nghệ thuật, nghiên cứu nghệ thuật, lịch sử nghệ thuật, v.v… Thậm chí người ta đã đặt câu hỏi: “Phê bình là khoa học hay nghệ thuật?”, song sự trả lời tính nước đôi: Phê bình là bộ môn có hai quốc tịch, vừa là khoa học vừa là nghệ thuật !...đã khiến cho câu chuyện chưa thể có hồi kết !...
*
    Qua việc trình bày cơ sở nảy sinh và chức năng của bộ môn phê bình nghệ thuật nói trên, chúng ta thấy người làm phê bình nghệ thuật phải đồng thời đáp ứng được tất cả những yêu cầu đã nêu với những phẩm chất , trình độ,kiến thức, cảm thụ nghệ thuật, v.v… không thể ở mức bình thường!... Chính vì vậy mà Lưu Hiệp, nhà phê bình trác việt của Trung hoa cổ đại, đã nói về phê bình nghệ thuật rằng: “Tri  âm  thực là khó thay. Cái âm thực là khó biết, người biết thực là khó gặp. Gặp được người tri âm ngàn năm mới có một lần” (Văn tâm điêu long). /.
ĐNT
Tác giả gửi www.trieuxuan.info
Số lần xem: 5740
Home / Văn học với đời sống
Thơ về vợ của Nguyễn Duy
Đỗ Ngọc Thạch ( 3/6/2009 7:07:15 PM )
Trong tập thơ VỀ (tập hợp những bài viết từ l990 đến 1994) xuất bản cuối năm l994, nhà thơ Nguyễn Duy đã thể hiện rất rõ quan điểm mỹ học “Về với cội nguồn “   của thơ Nguyễn Duy:
 
Rơm rạ ơi ta trở về đây
Xin cúi lạy vong linh làng mạc
Bà và mẹ hóa cánh cò cánh vạc
Ông và cha man mác kiếp trâu cày
 
Rơm rạ ơi ta trở về đây
Ngôi chùa cũ mái đình xưa khuất bóng
Cỏ áy vàng bãi tha ma vắng
Lòng ngổn ngang gò đống  tổ tiên nhà
( Về đồng )
  
Những câu thơ nặng trĩu hồn quê, lay động tận trong sâu thẳm tâm linh và như từ lúc nào đưa người đọc trở về với bản ngã, với những gì con người nhất. Một lần tôi hỏi Nguyễn Duy, tại sao một con người có máu lang bạt kỳ hồ rất mạnh như anh lại ra hẳn một tập thơ VỀ, anh nói rất rõ:”Đường về trên đồ thị thời gian của thơ tôi như một vòng luân hồi. Tôi đã thử theo nhiều nẻo đường thơ mong đi tìm cho mình một giọng điệu lạ, lòng vòng mãi, lại lần mò về chính cái điểm khởi đầu cuộc hành trình của mình, đó là thơ sáu tám. Kế đó là đường về trên đồ thị không gian thơ tôi, lang bạt hết miền đất này sang vùng trời nọ, rồi lại trở về với vũ trụ chính mình nơi có tất cả những gì gần gũi, thân thuộc, máu thịt nhất của mình. Thêm nữa là sự trở về trong tâm linh, làm thức dậy ký ức cùng những giá trị tinh thần đang rũ rượi ngủ mê hoặc đang chết dần trong lòng mình. Thêm nữa là… về già, về vườn, về nhà với vợ…”.
   
Và thế là chúng ta có tập thơ VỢ ƠI…Tập thơ VỢ ƠI…(tập hợp 18 bài viết từ 1971 đến 1994 do NXB Phụ nữ xuất bản cuối năm1995) là sự về với vợ trăm phần trăm của thơ Nguyễn Duy. Những bài thơ này đã in rải rác trong các tập thơ trước đó của Nguyễn Duy, lúc đó, đặt bên cạnh những bài thơ có tinh thời cuộc bức xúc, nóng bỏng khác, những bài thơ về với vợ có vị trí khiêm nhường, tĩnh lặng, giản dị… Nhưng khi được tập hợp lại thành một chủ đề về với vợ thì tập thơ “VỢ ƠI…” khiến người đọc giật mình về độ lớn cũng như chiều sâu của hình tượng văn học NGƯỜI VỢ trong thơ Nguyễn Duy. Xin dẫn lại nguyên văn bài thơ “Vợ ơi…” và tôi tin rằng bất kỳ bậc mày râu nào cũng sẽ thấy mình bé nhỏ trước người vợ bình dị mà vô cùng lớn lao khi trở về với vợ :
 
    Khi trong túi có mấy đồng ngọ nguậy
    Ta chạy rông như gì nhỉ - quên đời
    Lúc xơ xác bờm xơm từng sợi tóc
    Đói lả mò về
                       Cơm đâu
                                     Vợ ơi…
    Và tao tác bạn bè cơn hoạn nạn
    Đòn du côn tóe máu tâm hồn
 
    Và tung tóe cả bướm vàng bướm trắng
   
    Móc họng mửa ra cầu vồng bảy sắc
              Vợ dìu ta
                    Từng bậc
                          Thang mòn
Đêm huyền ảo một kinh kỳ se lạnh
Một mình ta cô quạnh giữa muôn người
Mặt sông lạ gợn nếp nhăn đuôi mắt
Bủn rủn buồn
                    Ta thầm kêu
                                     Vợ ơi…
        (Praha,7-1990 – Hà Nội,12-1990)
   “Về với vợ” là một nẻo về có vị trí đặc biệt quan trọng trong tâm linh thơ Nguyễn Duy được viết bằng những câu thơ ấn tượng mạnh. Nếu như ở tập thơ VỀ vừa nói ở trên con có gì đó trừu tượng, mông lung, huyền ảo thì ở đây vợ là Cõi về cụ thể:
    Mải nưng nứng mộng siêu nhân
    Lên cơn giá vũ đằng vân giang hồ
 
    Cuộc chơi hành hiệp lơ ngơ
    Vắt mình ra mấy giọt thơ nhạt nhèo
 
    Dần mòn con chữ tong teo
    Liêu xiêu lều quán lèo tèo ven đê
 
    Cánh buồm mây tướp chiều quê
    Ruỗng tênh hênh bịch rơi về cõi em
                                 ( Cõi về )
    Ta mơ màng ta uốn éo ta lả lơi
    Để mặc kệ mái nhà xưa dột nát
    Mặc kệ áo quần thằng cu nhếch nhác
    Mặc kệ bàn tay mẹ nó xanh xao
   
    Ta rất gần bể rộng với trời cao
    Để xa cách những gì thân thuộc nhất
    Nồi gạo hết lúc nào ta chả biết
    Thăm thẳm nỗi lo trong mắt vợ u sầu
 
    Viên thuốc nào dành để lúc con đau
    Vợ nằm đó xoay xở mần răng nhỉ
    Cơn hoạn nạn bỗng làm ta tĩnh trí
    Ngọn gió tha hương lạnh toát gia gà…
                                  ( Bán vàng )
Trong cuộc đời Nguyễn Duy, cái nạn lớn nhất là vợ ốm và có lẽ qua cái đại hạn này, nhà thơ mới hiểu hết vị trí cũng như giá trị của người vợ trong cuộc đời thi nhân:
    Vừa một xuân lại một xuân
    Vợ ơi đại hạn đã gần một năm
   
    Một nhà là sáu mồm ăn
    Một thi nhân hóa phăm phăm ngựa thồ
 
    Cái lưng em sụm bất ngờ
    Tứ chi anh lõng thõng quơ rụng rời
   Thông thường thượng giới rong chơi
    Trần gian choang choác sự đời tùy em
 
     Nghìn tay nghìn việc không tên
    Mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng
    Thình lình em ngã bệnh ngang
    Phang anh xát bát xang bang sao đành
 
     Cha con chúa Chổm loanh quanh
     Anh như nguyên thủ tanh bành quốc gia
     Việc thiên việc địa việc nhà
     Một mình anh vãi cả ba linh hồn…
                        ( Vợ ốm )
 
Nguyễn Duy thường có những câu thơ mạnh cả về ngữ nghĩa và âm thanh và thường là thiên về cách nói cay độc, nhiều khi thái quá. Nhưng khi về với vợ, nhũng câu thơ của anh như được chuốt ra từ bàn tay diệu kỳ của người vợ thành những vần thơ lung linh – đó là những vần thơ “thi trung hữu họa” về chân dung người vợ :
    Mùa xuân trở dạ dịu dàng
    Hoa khe khẽ hé nhẹ nhàng hương bay
 
    Nhẹ nhàng lộc cựa nách cây
    Dịu dàng vương dải tím mây ngang chiều
 
    Nhẹ nhàng tiếng bóng xiêu xiêu
    Em ngồi chải tóc muối tiêu dịu dàng
 
 
    Má hồng về xứ hồng hoang
    Tóc rơi mỗi sợi nghe ngàn lau rơi
 
    Dịu dàng vang tiếng mắt cười
    Bỏ qua sấm chớp một thời xa xăm
 
    Bỏ qua tội tháng nợ năm
    Tự nhiên giọt nước mắt lăn nhẹ nhàng…
                               ( Dịu và nhẹ )
 
Mỗi độ xuân về Tết đến  Nguyễn Duy đều có thơ cho vợ và phải nói đó là những cảm hứng thi ca đẹp nhất của hồn thơ Nguyễn Duy và cũng là những bài thơ được đông đảo bạn đọc đồng cảm nhất, bởi khi nhà thơ về với vợ là về với tình yêu vợ chồng bình dị mà vô hạn – đó mới chính là THƠ TÌNH trọn vẹn nhất, cao đẹp nhất:
   
ứa nước mắt mà yêu nhau trọn vẹn
khấp khểnh đường dài thập thễnh bon chen
lắm lúc chữ nghĩa vô nghĩa tuốt
bàn tay bé con phủi bụi ưu phiền
 
trời cho sống ta cũng già em ạ
con thương cha không bằng bà thương ông
tình như rượu chôn lâu đằm lịm lại
cuối đời đem ra nhấm mới mềm lòng
 
Đ.N.T.

Bài Thơ về vợ của Nguyễn Duy - Đã đăng báo Phụ Nữ Việt Nam, số Xuân ...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét