Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Hai truyện ngắn về anh lính Binh Nhì của Đỗ Ngọc Thạch

Hai truyện ngắn về Binh Nhì của Đỗ Ngọc Thạch: 

Cô gái Sơn Tây và anh lính Binh Nhì; Lời thề thứ hai. 



LỜI THỀ THỨ HAI

Truyện ngắn ĐỖ NGỌC THẠCH


Trong mười lời thề danh dự của người chiến sĩ QĐND VN thì Lời thề thứ hai là ngắn nhất , chỉ có 27 chữ nhưng được vận dụng thực hiện thường xuyên nhất và nhiều khi quyết định đến sinh mạng của người chiến sĩ. Vì thế tôi xin được dẫn nguyên văn lại đây:
“Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên; khi nhận bất cứ nhiệm vụ gì đều tận tâm, tận lực thi hành nhanh chóng và chính xác” .
Với Lời thề thứ hai này, chúng ta thường nghe nói đến câu “Quân lệnh như sơn” , ý muốn nói mệnh lệnh trong Quân đội nặng và lớn như Núi, vì thế không thể xem nhẹ, xem thường. Hoặc khi nói về người lính, ta thường nghe câu “Chỉ đâu đánh đấy”, ý muốn nói, người lính nhất cử nhất động đều phải làm theo mệnh lệnh cấp trên! Và sáng nào cũng như sáng nào, khi tập hợp điểm danh Trung đội, chúng tôi phải thay nhau đọc lại 10 lời thề, và riêng Lời thề thứ hai thì phải đọc lại tới lần thứ hai, mặc dù không hề đọc sai. Về cái chuyện đọc thuộc lòng 10 Lời thề trước hàng quân này, tôi và mấy người lính tân binh cùng nhập ngũ luôn bị gọi đứng ra đọc. Lúc đầu thì thấy bình thường nhưng tới lần thứ một trăm, rồi một ngàn thì thấy đầu óc mình có “vấn đề”, tức khi đọc thì không còn thấy “xúc động” như vài lần đầu mà cứ đọc như một cái máy, và rồi cũng làm theo những mệnh lệnh như máy!...
Như vậy, người lính khi ở trong quân ngũ không thể “Hãy là chính mình”! Nhưng là một cá thể, anh ta luôn có nhu cầu “Hãy là chính mình”! Vì thế ở đây đã xảy ra “ngàn lẻ một” bi hài kịch của mối quan hệ giữa “Cái Tôi” và “Cái Ta” của Người lính!...
Khi mới nhập ngũ, trừ những người học ở Học viện quân sự, thì ai cũng đều đeo quân hàm Binh Nhì, đó là một miếng tiết màu đỏ, ở giữa có gắn một ngôi sao (ở một số Binh chủng thì miếng tiết có màu khác, chẳng hạn như Không quân màu xanh da trời, Biên phòng màu xanh lá, Hải quân màu đen). Đó là cái quân hàm thấp nhất của quân đội và với người lính thì nó là thời kỳ đẹp nhất bởi nó là tuổi trẻ hồn nhiên, trong sáng, vô tư nhất! Nếu muốn so sánh thì có thể so sánh với học sinh Mầm Non – như trang giấy trắng!... Vì người lính Binh Nhì như trang giấy trắng nên rất nhiều người cấp trên muốn “viết” lên trang giấy trắng đó, và họ đã viết những gì, viết như thế nào?
Khi mới nhập ngũ, tôi đeo lon Binh Nhì, tất nhiên! Và, như là một “Lẽ tự nhiên”, tôi rất vô tư, hồn nhiên đối với chuyện cấp bậc, quân hàm. Và cả đám lính Binh Nhì chúng tôi – những sinh viên Năm thứ nhất của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, đều không hề cảm thấy bé nhỏ, thấp hèn khi đeo cái quân hàm Binh Nhì, mà sau này tôi mới biết, ở trong quân đội, không ai muốn đeo cái quân hàm Binh Nhì, khi đi ra khỏi đơn vị, thường là tháo quân hàm Binh Nhì ra đút vào túi áo! Thực ra, chúng tôi không hề “xấu hổ” khi đeo quân hàm Binh Nhì vì được biết rằng, việc chúng tôi đeo quân hàm Binh Nhì chỉ là tạm thời, sau đó sẽ gọi đi học Kỹ thuật Quân sự ở nước ngoài, chính vì thế mới tới trường Đại học để tuyển quân, và chúng tôi là đợt tuyển quân đầu tiên của chủ trương này. Vì thế khi nghe các cô gái đọc câu ca rất phổ biến lúc đó “Ai ơi, chớ lấy Binh Nhì / Năm đồng một tháng lấy gì nuôi con?” , chúng tôi không thấy “Tự ái” mà lại thấy thích vì đã được đi vào ca dao của dân gian, do tính chất truyền khẩu của thể loại văn học dân gian này mà muôn đời sau ai cũng phải nhớ đến những người lính Binh Nhì chúng tôi!
Sau một tháng huấn luyện tân binh, đám lính sinh viên - Binh nhì chúng được được chia ra thành từng tốp năm, ba người rồi điều tới tất cả các Đại đội Ra-đa của Binh chủng Ra-đa trên phạm vi toàn quốc! Nghĩ đến câu “Chia để trị” trong một bài học lịch sử, tôi cứ nghĩ không biết người ta có áp dụng “chính sách” đó với chúng tôi không? Tôi được điều về Đại đội 41, thuộc Trung đoàn 291. Đó là những con số đầu tiên ràng buộc lên “Định mệnh” của tôi!...
Đối với người lính Binh Nhì, Tiểu đội Trưởng là “Thủ trưởng trực tiếp”, tức người ra lệnh trực tiếp hàng ngày, trên là Trung đội Trưởng, trên nữa là Đại đội Trưởng,v.v…nếu cần cũng có thể ra lệnh trực tiếp. Nhưng theo như qui định phổ biến thì lệnh thường được phát ra từ người trên một cấp, tức Trung đoàn ra lệnh cho Đại đội, Đại đội ra lênh cho Trung đội , Trung đội ra lệnh cho Tiểu đội và cuối cùng là Tiểu đội ra lệnh cho …đội viên – tức người lính Binh Nhì. Nhân đây cũng nói thêm về một cấp bậc quân hàm cũng được gọi là lính nữa là quân hàm Binh Nhất. Sau 6 tháng, Binh Nhì sẽ được lên Binh Nhất, tức Năm đồng lên thành sáu đồng, một sao thành hai sao. Trên Binh Nhất gọi là Hạ sĩ quan, tức quan cấp dưới, quan nhỏ nhất trong hàng quan, gồm có ba cấp bậc quân hàm là Hạ sĩ, Trung sĩ và Thượng sĩ. Chức vụ Tiểu Đội trưởng của chúng tôi thường là Trung sĩ hoặc Thượng sĩ, còn Hạ Sĩ thường là Tiểu đội phó!
Tiểu đội Trưởng đầu tiên của tôi là Trung sĩ Mai, nhập ngũ năm 1965, tức trước tôi một năm. Trung sĩ Mai có tướng mạo nông dân một cục: khuôn mặt to, mũi cung to, còn gọi là mũi sư tử, mắt hơi híp và luôn cười tít mắt. Trung sĩ Mai đang học dở lớp 9 thì nhập ngũ, dân “Cầu Tõm” chính hiệu (tức quê ở Hà Nam – đồng hương với nhà thơ trào phúng họ Tú). Vì không phải là người “thân cận” với Trung đội trưởng nên Trung sĩ Mai sống khá thoải mái tới mức phóng túng. Và đặc biệt rất thích “Bay thấp” – từ để chỉ chuyện đi “tán gái” ở nơi đóng quân! Mỗi khi Tiểu đội khác trực ban chiến đấu (tức mở máy phát sóng Ra-đa…), thì Trung sĩ Mai lại đi vòng quanh “doanh trại” (thực ra chỉ là một cái lều bạt, dựng lên trên mặt đê bốn bề lộng gió) một hồi rồi đứng giữa sân hô to: “Tiểu đội một hàng ngang tập hợp!”. Sau đó, Trung sĩ Mai ra lệnh cho Tiểu đội phó phụ trách Tiểu đội huấn luyện chuyên môn tại trại và riêng tôi thì đi theo làm nhiệm vụ “đặc biệt”! Lần đầu tiên, tôi tưởng là “Nhiệm vụ đặc biệt” thật nên thích lắm, đi được vài bước đã hỏi: “Nhiệm vụ đặc biệt gì vậy?” Trung sĩ Mai cười tít mắt: “Nói thế để “ngụy trang” mà thôi! Thực ra là chúng ta được đi chơi!”. Tôi ngạc nhiên hết sức: “Sao lại đi chơi trong lúc…” – tôi chưa kịp nói hết câu thì biết mình “nói hớ” và chỉ còn thắc mắc là tại sao Trung sĩ Mai lại chọn tôi? Như là “đi guốc trong bụng” tôi, Trung sĩ Mai nói: “Lệnh mật của Trung đội và Đại đội là phải “cải tạo” đám “Lính sinh viên” các cậu thật mạnh tay, tức bắt lao động chân tay thật nhiều và quản thúc thật chặt! Nhưng tớ lại nghĩ khác, các cậu là “nhân tài đất nước” nên cần phải biết cách “chăm sóc tài năng” chứ không nên đì, hành hạ cho bõ ghét như thế!...”. Nghe Trung sĩ Mai nói, tôi mới dần vỡ lẽ ra tại sao những nhiệm vụ quan trọng chúng tôi không được “chạm tay” vào, tại sao việc “phát triển Đảng” lại không nhắm vào chúng tôi và tại sao lại gọi đám “lính Sinh viên” chúng tôi là “học sinh tiểu tư sản” để phân biệt với những người lính Nông dân ra đi từ đồng ruộng và trình độ văn hóa thường rất thấp, phổ biến là cấp hai Trung học Phổ thông…Lúc đó, một phần do tôi còn quá ấu trĩ chính trị, phần khác bản tính lại rất vô tư, rất ham vui nên không suy nghĩ nhiều về chuyện “phân biệt giai cấp” này! Vì thế, tôi chỉ hỏi Trung sĩ Mai câu cuối cùng: “Nhưng tại sao Tiểu Đội trưởng (TĐT) lại chọn tôi?”. Trung sĩ Mai nói ngay: “Vì tớ cảm thấy thích cậu, thế thôi! Đi với tớ, cậu sẽ khôn lên rất nhiều và chủ yếu là được ăn “bánh bao”, ăn “đào Tiên” thoải mái! Tớ tài cán thì không có gì đặc biệt, trình độ văn hóa lại mới lớp 8 trường Huyện, nhưng có “năng khiếu” tán gái nhất làng, nhất Huyện luôn! Cậu chỉ việc quan sát cho thật kỹ rồi linh hoạt làm theo, không chừng còn vượt xa sư phụ!”…
Phần “Lý thuyết” của Trung sĩ Mai vừa kết thúc thì chúng tôi đã tới xóm làng, cách con đê nơi chúng tôi đóng “Đại bản doanh” hơn nửa cây số, lúc đó mới hơn ba gờ chiều, lối ngõ vắng teo, gió hiu hiu thổi... Trung sĩ Mai đang lẩm nhẩm “Rẽ phải, rẽ trái hay đi thẳng” thì có hai thôn nữ đột ngột xuất hiện như Tiên nữ giáng trần, chỉ cách chúng tôi khoảng năm mét! Mai như là không có cảm giác “bất ngờ” giống tôi mà như viên đạn đã lên nòng chỉ việc phóng đi tới sát hai cô gái, sát tới mức mà đã đụng vào hai cô gái! Tôi không kịp nhìn hai bàn tay của Mai đã “thao tác” như thế nào mà đã thấy hai người líu ríu rồi cười rúc rích, rồi cùng biến mất sau hàng cây dâm bụt chỉ có hai bông màu đỏ đang đung đưa!...Tôi chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì cô thôn nữ thứ hai tiến sát lại tôi, vừa cười vừa nói: “Anh là Tân binh à? Số lính sinh viên tháng trước còn tập đi một, hai ở đây rất đông, đúng không?”. Tôi gật đầu mà không biết nói gì vì đang mải nhìn cái mồm cô ta thật là có duyên, cặp môi mọng đỏ tự nhiên, ươn ướt và lấp lánh khi ánh mặt trời chiếu vào! Tôi vừa chuyển cái nhìn xuống bộ ngực căng tròn, cái nút áo ngực bằng khuy bấm đã bị bật ra, khiến cho hai quả đào tiên lấp ló thật kỳ ảo!...Cô gái lại vừa cười vừa nói: “Anh là đệ tử của Trung sĩ mai sao mà nhát thế? Hai quả đào tiên này em mời anh đó, không nhanh tay là hỏng ăn đó!”. Nghe đến đó thì tôi mới giật mình và hình dung ra phần nào bộ dạng “Thắng Ngố” của mình lúc đó, và lập tức, cô gái đứng thẳng người, hô lên bằng một giọng mạnh mẽ, có sức thôi thúc, cuốn hút kỳ lạ: “Nghiêm!...Binh Nhì Thạch nghe lệnh: tiến thẳng tới mục tiêu là hai quả đào tiên mà tây Vương Mẫu đã ban tặng!”. Như là quán tính của người lính sau khi nghe lệnh là thực hiện lệnh ngay, tôi tiến lại cầm lấy tay cô gái mà nói: “Đào Tiên đã bén tay phàm / Thì ăn cho biết Thiên đàng ở đâu!” . Cô gái thấy vậy thì cười khanh khách rồi kéo đầu tôi một cái khiến cả khuôn mặt của tôi bị ép chặt bởi hai quả “đào Tiên”!...
Hai ngày liền sau đó, trung sĩ Mai lại dẫn tôi đi “dự tiệc Bàn đào” và tôi không còn phải ngỡ ngàng như lạc vào động Tiên nữa bởi “Con ong đã tỏ đường đi lối về” !...Nhưng đến ngày thú tư thì trung sĩ Mai nói: “Hôm nay không đi tiệc Bàn đào mà đi “ăn bánh bao”! Nhưng phải chú ý kẻo nghẹn!...”.
Kế hoạch “ăn bánh bao” chuẩn bị đến giờ G thì Trung sĩ Mai tìm tôi nói: “Cuộc vui nào cũng có lúc tàn, nhưng không ngờ cuộc vui này lại tàn sớm thế!”. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Thế là sao?”. Trung sĩ Mai nói giọng nửa buồn nửa vui: “Cái duyên hội ngộ của anh em ta đã hết! Tớ vừa được Đại đội báo là ngày mai phải lên Trung đoàn bộ nhận lệnh ngay! Có lẽ là đi thành lập thêm một Đại đội mới, như thế tất được thăng chức, Trung đội trưởng chẳng hạn!”. “Chúc mừng anh!...- tôi nói thành tâm – Nếu tốt số, anh có thể lên tới Đại đội trưởng!”. Mai cười lớn: “Đại đội trưởng thôi sao? Rồi cậu xem, tớ sẽ lên tới Đại tá! Thiếu tướng thì tớ không thích vì ít sao quá, Đại tá có những bốn sao, hai gạch, chật cứng cả cổ, ấm cổ suốt đời!” (Quả nhiên, hai mươi năm sau, ngẫu nhiên gặp lại TĐT Mai ngày nào ở Sài Gòn, Mai đang đeo quân hàm Đại tá, nhưng không ở Bộ đội Ra-đa mà ở một Tỉnh đội). Sau đó tôi có nghe nói Trung sĩ Mai được điều về một đơn vị mới đang đóng quân ở tuốt “trên miền Tây Bắc”, làm Trung đội Trưởng chỉ ba tháng thì đã lên chức Đại đội phó, rồi Đại đội trưởng!...
Khi Trung sĩ Mai đi khỏi, Tiểu đội Phó lúc đó cũng tên là Phó, cho nên như là số mệnh, không được lên thay chức TĐT vừa khuyết mà người TĐT từ nơi khác điều về, là Trung sĩ Khang. Trung sĩ Khang nhập ngũ còn trước Trung sĩ Mai một năm, đã thành “Trung sĩ i-nốc”. Trung sĩ Khang người xứ Nghệ, ở huyện Thanh Chương, là con một ông Tướng nào đó, nhưng lười chuyện học hành mà lại chăm chuyện “chơi bời” cho nên đang học ở trường sĩ quan thì bỏ dở, chuyển qua lại rất nhiều đơn vị và làm “Tiểu đội Trưởng chuyên nghiệp”! Tôi thấy lạ bèn hỏi: “Tại sao anh không lên Trung đội, Đại đội, rồi Trung đoàn mà cứ giữ mãi cái chức Tiểu đội trưởng như vậy?”. Trung sĩ Khang cười nói: “Làm cho đến Tướng thì cũng làm gì có quân, tức tướng “Không quân”! Người nắm quân lính trong bàn tay chính là Tiểu đội đội trưởng chứ không phải ai khác! Vì thế, tớ chỉ thích làm Tiểu đội trưởng để có chục anh lính tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên mà sai khiến, thế là đủ! Đừng có tham chỉ huy cả Trung đoàn, Sư đoàn rồi Binh đoàn gì đó, thực ra đó không phải là lính của anh!”.
Tiểu đội tôi lúc đó có mười người, cộng với TĐT Khang và TĐP Phó là đúng mười hai con giáp. Buổi nhận chức đầu tiên, Khang kéo tất cả tiểu đội ra tận Như Quỳnh, vào một cái quán phở gọi chủ quán ra nói nhỏ gì đó rồi tuyên bố: “Từ hôm nay, chúng ta, 12 con Giáp nguyện sống với nhau như huynh đệ nhưng là một người lính trung thành! Bắt đầu từ Sửu (tức TĐP Phó cho đến Hợi (tức tôi, mỗi người sẽ mang tên một con Giáp), mỗi người hãy đọc một lượt Lời thề thứ hai rồi uống cạn ly rượu thề này!”. Xong, nhà quán bưng ra đầy nhóc bàn ăn được ghép lại từ hai bàn, có cả gà luộc, gà rán, thịt bò xào,v.v….có nằm mơ những anh lính binh nhì chúng tôi cũng không dám nghĩ tới! Mọi người ăn uống rào rào, riêng tôi vẫn theo thói quen là trong tất cả các bữa tiệc, phải ăn rất chậm để quan sát mọi người, bởi lúc được ăn uống no say, con người ta bộc lộ rõ nhất bản tính của mình! Tôi nghĩ chắc là Khang muốn nhân bữa ăn này để thu phục nhân tâm và nắm vững binh tình? Quả nhiên, Khang đang nói to, nói nhiều nhưng thực ra là đang “nghiên cứu” đám lính binh nhì của mình! Khi ánh mắt Khang đụng cái nhìn “a-ma-tơ” của tôi, Khang dơ ngón tay làm bộ chỉ trỏ vào tôi rồi cụng ly cạn chén với tôi! Uống xong, Khang mới vỗ vai tôi, nói: “Tớ thích cậu nhất đấy, tớ sẽ chọn cậu làm đệ tử chân truyền!”. Khang nói vậy có nghĩa là từ sau hôm đó, Khang đi đâu, làm gì cũng có tôi bên cạnh! Tôi thầm nghĩ, đúng là cái số mình có sao Tả Phù, Hữu Bật luôn chiếu sáng!...
Nếu như TĐT Mai thể hiện rất rõ phong cách Thuần Nông thì TĐT Khang là rất rõ phong cách Đế Vương ! Thực ra cả hai phong cách này chỉ khác nhau ở “cái vỏ ngôn ngữ” tức khẩu khí lúc ăn nói, còn cái đích mà nó muốn hướng tới và cung cách thực hiện thì không khác gì nhau. Tức lúc ăn nhậu và lúc “hưởng lạc thú” thì cả hai đều giống nhau. Tuy nhiên, “Phong cách Đế Vương” của TĐT Khang có vẻ hoa mỹ và được mọi người “nể mặt” hơn!
Các “thủ pháp” tán gái của Trung sĩ Khang cũng không khác gì của Trung sĩ Mai, tuy có khác đôi chút về “phong cách”. Nếu như Trung sĩ Mai chủ yếu là làm cho đối phương “tâm phục khẩu phục” rồi khiến đối phương “đồng thuận, tình nguyện” vào cuộc truy hoan, thì Trung sĩ Khang như là ép buộc đối phương phải tuân theo! Mỗi lần nhớ đến Trung sĩ Mai, tôi lại nói với Trung sĩ Khang: “Đôi bên phải cùng chí hướng thì mới cộng hưởng được chứ. Khoái cảm là kết quả của sự cộng hưởng!”. TS Khang cười nói: “Không sai, nhưng đó chỉ là một cách chứ không phải tất cả! Rồi cậu sẽ được biết có tới ngàn lẻ một cách sướng, chẳng cách nào giống cách nào!”. Và quả nhiên sau đó, TS Khang đã cho tôi được “mục sở thị” những quái chiêu của mình. Lúc này, Khang mới giải thích rõ ràng: “Cậu có biết tại sao cậu lại được chọn đi với tớ không phải với tư cách thằng hầu, thằng lính sai vặt mà là với tư cách bạn chơi, với tư cách khán giả. Cậu thử nghĩ xem ai lại chơi cờ một mình, hoặc người nghệ sĩ khi trình diễn thì phải có khán giả chứ!”. Tôi lại hỏi lại câu hỏi đã hỏi nhiều lần: “Nhưng tại sao anh lại chọn tôi? Tôi không khỏe mạnh, nhanh nhẹn để có thể làm vệ sĩ cho anh, lại cũng không đa mưu túc kế để có thể làm quân sư cho anh?”. TS Khang cười như vớ được vàng: “Chính câu hỏi đó khiến tôi nghĩ đã không lầm khi chọn cậu. Cái típ người khiêm tốn, giản dị như cậu khi gặp tình huống nguy cấp mới phát lộ năng lực mạnh mẽ, sẽ rất được việc chứ không bỏ chạy trước tiên như những kẻ thường ba hoa, khoác lác quen đánh võ mồm!”. Ba ngày sau thì lời nhận xét đó của TS Khang đã được thể hiện khá rõ.
Hôm đó, đúng vào ngày 22-12, tức ngày đại lễ của quân đội nói chung. Cả đại đội được lệnh vui chơi cả ngày, bữa ăn trưa sẽ là đại tiệc, các Trung đội sẽ đến nhà bếp Đại đội nhận đồ ăn về liên hoan. Buổi sáng, tại sân Chỉ huy sở Đại đội, có tổ chức đấu cờ Tướng và vài trò chơi lặt vặt như ném vòng vào cổ chai, thả bóng bàn vào chậu, v.v… Mọi người đều tham gia vui vẻ. TS Khang kéo tôi vào làng, nói: “Đó là những trò giải trí tầm thường, tớ sẽ dẫn cậu đến một chỗ rất vui!”. Tôi băn khoăn nói: “Chúng ta đi “đánh lẻ” thế này lỡ bị phát hiện thì sao?”. Khang cười nói: “Sao hôm nay cậu nhát thế? Đã bảo là cả Trung đội và Đại đội đều không dám làm gì tớ đâu! Hôm nay tớ tiết lộ cho cậu biết bí mật này nhé: Đại đội trưởng vốn là lính cũ của ông bố tớ từ thời chống Pháp, gửi tớ xuống đây nhờ chăm sóc đấy!”. Thì ra điều tôi phỏng đoán là đúng!...
Chúng tôi vào một căn nhà ở cuối làng. Căn nhà nhỏ nhưng khá sạch đẹp, xung quanh là vườn cam quýt trĩu quả. Cái cổng bằng tre chỉ khép hờ, TS Khang mở cổng bước vào như đã quen thuộc nơi này. Chúng tôi vừa đi được bốn năm bước thì có một cô gái quần áo xộc xệch từ trong nha lao vút ra, vừa nhìn thấy chúng tôi thì nói nhanh, giọng hổn hển: “Cứu em với! Có hai thằng mất dạy nó định cưỡng hiếp mẹ con em!”. TS Khang đỡ cô gái, còn tôi thì không hiểu sao lại thản nhiên đi tới trước cửa và nói lớn: “Toàn tiểu đội bao vây căn nhà chờ lệnh!...Hai thằng kia, từng thằng bước ra, hai tay vòng sau gáy! Tao đếm đến ba! Một…” Tôi chưa kịp đếm đến hai thì hai thằng thanh niên vọt ra cửa, chạy về phía vườn cam bên trái rồi chui qua hàng rào biến mất. Tôi đuổi theo như quán tính thì thấy có quả lựu đạn rơi ra từ túi quần một thằng. Tôi lại gần nhìn kỹ thì thấy giống y như đồ chơi bằng nhựa của trẻ con. Tôi nhặt lên quay lại nhà thì thấy TS Khang đang động viên vỗ về cô gái, còn ở trong buồng vẳng ra tiếng khóc tấm tức của người mẹ! Thì ra nhà này chỉ có hai mẹ con, người mẹ hơn ba mươi tuổi, cô con gái mới mười sáu tuổi… Theo như Khang nói lại sau đó thì hai thằng kia mang lựu đạn vào uy hiếp hai mẹ con, tuy sợ nhưng khi sắp bị làm nhục thì cả hai mẹ con cùng chống cự quyết liệt, cô gái khỏe manh nên vọt thoát ra ngoài, người mẹ bị hai thằng giữ chặt, sắp “Hành động” thì chúng tôi tới!...
Chúng tôi trở về Trung đội thì vừa tới bữa ăn, mọi người đã ngồi quây quần ở gian đầu, được trải một tấm vải bạt lớn, thức ăn ngổn ngang ở giữa, có tới bốn năm món. Đây là chỗ Trung đội trưởng thường ngồi làm việc, có hai cửa thông ra ngoài, một để đi ra, một để đi vào, ở đầu hồi. Ngồi ở đây, Trung đội trưởng có thể nhìn bao quát cả trung đội của mình trong cái nhà bạt dài thòng này, và ai đi ra, đi vào đều qua sự giám sát của Trung đội trưởng.
TS Khang nói: “No say đi cho quên chuyện buồn!” rồi nhào vào “chiến đấu” ngay!...Bữa tiệc được nửa “chặng đường”, tất cả đã “ngà ngà” thì có bốn thằng thanh niên bịt mặt như trong phim, bước vào nhà bạt của Trung đội. Hai thằng chặn ở hai cửa, hai thằng bước vào, đứng hai bên những người ngồi ăn trên tấm vải bạt trải dưới đất! Một thằng nói, giọng như quỷ sứ: “Tất cả ngồi im không nhúc nhích thì sẽ sống! Nếu chống cự, tao chỉ thả tay ra là quả lựu đạn sẽ nổ tan xác tất cả!”. Trung đội trưởng nói ngay, bình tĩnh như đóng phim: “Vậy chúng mày muốn gì? Muốn ăn thịt gà thì lấy đi!”. Thằng kia nói ngay: “Chúng tao muốn lấy bốn khẩu súng AK trên giá súng kia kìa!”. Trung đội trưởng lại nói: “Không được! Đó là vũ khí quân dụng, không thể đưa cho người thường sử dụng!”. Thằng kia lập tức quát to: “Không nhiều lời! Đưa bốn khẩu súng AK kia ra đây ngay (giá súng có hơn chục khẩu vừa CKC, vừa AK đặt ở quãng giữa nhà bạt, sát vách), hay là muốn tan xác!”. Vừa nói, thằng kia vừa tiến lại phía Trung đội trưởng, đặt tay có cầm quả lựu đạn lên đầu Trung đội trưởng. Mặt Trung đội trưởng thoáng biến sắc. Hầu như tất cả đều ngồi bất động nhìn Trung đội chờ lệnh phát ra từ Trung đội trưởng – người có chức vụ và quân hàm cao nhất ở đây lúc đó.
Và không phải đợi lâu, chỉ sau một phút, Trung đội trưởng nói: “Binh Nhì Thạch!.. Tới giá súng lấy bốn khẩu AK giao cho họ!”. Tôi nhìn Trung đội trưởng lưỡng lự và nhìn Tiểu đội trưởng của mình là Trung sĩ Khang như muốn hỏi: “Có nghe theo lệnh này không?”, bởi theo nguyên tắc thì khi có mặt Tiểu đội trưởng, tất cả mọi mệnh lệnh từ trên truyền xuống người lính thì đều phải qua Tiểu đội trưởng! TS Khang nhìn tôi rồi nhắm mắt lại, đó là ám hiệu bảo tôi tùy cơ ứng biến, tức tự mình ra lệnh cho mình! Thấy tôi lưỡng lự, chưa chấp hành ngay mệnh lệnh, thằng bịt mặt đang uy hiếp Trung đội trưởng nói: “Thằng kia, làm theo lệnh của trung đội trưởng của mày đi chứ!”. Lúc đó, tôi đang ngồi gần như đối diện với Trung đội trưởng, tức ngay sát thằng bịt mặt thứ hai. Lúc tôi nói “Rõ! Xin tuân lệnh” và vụt đứng lên, ngay sát thằng bịt mặt thứ hai thì bỗng ngửi thấy mùi gì quen quen? Khi tôi sắp tới giá súng thì chợt nhớ lại lúc nãy, khi ở nhà hai mẹ con người con gái bị cưỡng bức, lúc đuổi theo một thằng làm rơi quả lựu đạn đồ chơi, tôi cũng thấy có mùi như vậy! Tôi khẳng định ngay cái mùi tôi vừa nhận ra chính là mùi của thẳng bịt mặt thứ hai và điều quan trọng hơn là: bọn này dùng lựu đạn giả! Tôi phác nhanh hành động: lại giá súng lấy khẩu AK rồi lên đạn dọa bắn, đuổi chúng ra ngoài! Nói là làm, khi tôi kéo “quy-lát” lên đạn “soạch, soạch” và nói ngắn gọn: “Cút ngay không tao bắn vỡ sọ!” thì cả bốn thằng cùng quẳng bốn quả lựu đạn xuống đất rồi ù té chạy! Tôi đuổi theo ra ngoài, bốn thằng đang chạy ríu vào nhau, chỉ cách tôi hai chục mét! Không cần nghĩ lâu, tôi nhằm vào tám cái chân và kéo cò, một tràng âm thanh ù tai vang lên, lập tức cả bốn thằng đổ rạp xuống đất!...
Tôi quay vào nhà bạt, thấy trung đội trưởng đang cầm hai quả lựu đạn giả xoay đi xoay lại, ngắm nghía rất kỹ! Còn Trung sỹ Khang thì cầm ly rượu tới đưa tôi và nói: “Khá lắm! Thế mới gọi là đệ tử thân tín của Trung sĩ Khang! Cậu mà nghe lệnh Trung đội có mà hố to! Nhớ nhé!...”. Tôi không nói gì, đầu óc như mây bay lãng đãng…Bỗng Trung sỹ Khang nói quát: “Binh Nhì Thạch! Đọc lại Lời thề thứ hai rồi uống cạn ly rượu!”. Tôi đứng nghiêm và đọc ngay Lời thề thứ hai rồi uống cạn ly rượu. Thực hiện hai mệnh lệnh một lúc quả là khó nhưng đó là mệnh lệnh dễ chịu nhất của đời lính Binh Nhì của tôi!...
Và đó cũng là mệnh lệnh cuối cùng của Tiểu đội trưởng – Trung sĩ Khang ra lệnh cho tôi, bởi ngay ngày hôm sau tôi được điều đi đơn vị khác!...

Sài Gòn, 10-12-2009
Đỗ Ngọc Thạch 
nguồn: newvietart.com


CÔ GÁI SƠN TÂY VÀ ANH LÍNH BINH NHÌ

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
Sơn Tây từ xa xưa đã là phên giậu của kinh đô Thăng Long . “Vùng đất Sơn Tây nẩy một ông / Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hung /Sông Đà núi Tản ai hun đúc ?/ Bút thánh câu thần sớm vãi vung…” – ông này là ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, thi sĩ quái kiệt của hai thế kỷ, là một trong số ít những ngôi sao sáng chói nhất trên bầu trời văn chương Việt Nam ở thế kỷ 20. Trong những năm cuối của thập niên 1960, tôi đã có cơ duyên được sống và chiến đấu (trong binh chủng Ra-đa) trên quê hương Bất Bạt của thi sĩ Tản Đà, và cũng ở cả những huyện khác của Sơn Tây như Quốc Oai, Tùng Thiện, Phúc Thọ…Đó là thời kỳ chúng ta đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, đơn vị Ra-đa của chúng tôi làm nhiệm vụ dẫn đường cho không quân ta ở sân bay Hòa Lạc …
Truyện ngắn này không phải nói về cuộc chiến đấu ác liệt ngày đó, mà nói về một cô gái Sơn Tây – một ký ức vẫn còn nguyên hình nguyên khối trong những năm tháng tuổi thanh niên của tôi – một ký ức đã thôi thúc, ép buộc tôi phải viết bằng được cái truyện ngắn này, dù thời gian đã qua đi gần 40 năm…
Lúc mới nhập ngũ, tôi ở một đơn vị Ra-đa đóng quân trên quê hương Hưng Yên nổi tiếng với đặc sản nhãn lồng và những cô thôn nữ đa tình xinh đẹp. Nói đa tình vì các cô thôn nữ ở đây rất thích có người yêu là lính. Mặc dù cái câu ca “Ai ơi chớ lấy binh nhì / Năm đồng một tháng lấy gì nuôi con” được truyền lan rất rộng, nhưng cánh lính binh nhì chúng tôi kiếm người yêu không khó khăn gì. Nhát gái như tôi mà chỉ sau một tuần, tôi đã có người yêu khá xinh, và nếu như lúc đó, tôi muốn có vợ thì bố mẹ cô gái sẽ cho cưới ngay ! Nhưng, lúc đó tôi không hề biết chuyện vợ chồng là như thế nào, gọi là yêu nhưng thực ra chỉ mới là giai đoạn đầu, tức là thích, mến mà thôi. Đó là thời mà tình yêu của tuổi trẻ chúng tôi thật vô tư, trong sáng (Sau này, khi đã giải ngũ, tôi có quay trở về nơi đây tìm lại cô gái đã cho tôi mối tình vụng dại ấy thì được biết cô thôn nữ bé nhỏ ngày nào đã trở thành một cán bộ lãnh đạo cấp huyện và đã có chồng con đề huề !). Nhắc lại cô thôn nữ Hưng Yên một chút vì có liên quan đến cô gái Sơn Tây, nhân vật của truyện ngắn này.Do yêu cầu chiến đấu, một đơn vị Ra-đa mới được thành lập để dẫn đường cho không quân ở sân bay Hòa Lạc thuộc vùng đất Sơn Tây. Tôi được điều tới đơn vị mới đó. Trước khi tôi đi Sơn Tây, mấy cô thôn nữ Hưng Yên nói :
- Sơn Tây là vùng đồi trọc nắng cháy khét, chó ăn đá gà ăn sỏi ! Anh lên đó thì làm gì có nhãn lồng ngọt lịm nữa ! Hay là anh xin ở lại đi !
- Xin sao được ! – Tôi nói ngay – Quân lệnh như sơn !...
- Mà anh đã biết gì về con gái Sơn Tây chưa ? – Một cô vừa cười vừa nói – “Con gái Sơn Tây – Yếm thủng đầu chầy – Răng đen hạt mít, má hồng chôn niêu” !
- Sao cô lại nói xấu người ta như vậy ? – Mặc dù tôi rất ngạc nhiên vì đây là lần đầu tôi nghe đọc câu đó, tôi vẫn không tin lại có chuyện như vậy và cãi - Ở đâu cũng có người đẹp và người xấu ! Người đàn bà xấu nhất Việt Nam là cô nàng Thị Nở ở đất Nam Định mà nhà văn Nam Cao đã mô tả !
Cuộc tranh luận bị chấm dứt vì có lệnh lên đường ngay ! Cùng đi với tôi là anh bạn binh nhì Thế Hùng (người Tuyên Quang – nay đã mất liên lạc). Cô người yêu của Thế Hùng thật là đa cảm, khóc như mưa rào ! Còn cô người yêu của tôi, chẳng nói được gì, đến phút chót mới dúi vào tay tôi một cái khăn thêu nhỏ thêu hình hai con chim đang bay ríu vào nhau trong một trái tim !...
Trên đường đi Sơn Tây, thỉnh thoảng, Hùng lại đọc câu thơ :

                 “Rứa là hết, chiều nay ta đi mãi
                 Còn mong chi ngày gặp lại em ơi !...”
Tôi nói với Hùng :
- Thôi cái giọng ủy mị ấy đi ! Mày phải đọc câu “Bước chân đi đầu không ngoảnh lại !...” Làm người lính thời chiến không được “vương tơ lòng” !
Hùng cười mếu máo :
- Tao là con người chứ có phải gỗ đá đâu ! Mà đá cũng phải mòn dưới dòng nước chảy, “nước chảy đá mòn” đó là gì ?
- Không phải tất cả đều như thế ! Chúng mình phải là đá vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” ! Bây giờ chúng mình đã “xếp bút nghiên theo việc binh đao” thì phải cứng rắn, mạnh mẽ, phải luôn luôn hát vang khúc quân hành “đời chúng ta đâu có giặclà ta cứ đi” và cương quyết “không cho chúng nó thoát ! Chúng bay vào sẽ không có đường ra !” – Tôi cao hứng nói một mạch.
Hùng ngắt lời :
- Thôi, đủ rồi ! Bây giờ chỉ có hai thằng, chẳng ai ghi điểm cho mày đâu ! Bây giờ tao muốn hỏi mày điều này : cái vùng đất Sơn Tây nắng cháy khét “chó ăn đá gà ăn sỏi” ấy như thế nào, mày đã đến đó lần nào chưa ?
- Tao mới đến qua sách vở như mày thôi ! Nhưng dù sao vẫn không thể bỏ ngoài tai lời các cô thôn nữ ở Hưng Yên đã nói. Tao rất sợ nóng. Vậy chúng ta cứ theo cái địa chỉ trong câu thơ của thi sĩ Tản Đà mà đến tắm mát cái đã :

                 “Nước rợn sông Đà con cá nhảy,
                 Mây trùm non Tản cái diều bay”.
Hùng nghe nói đến tắm sông là hứng khởi ngay. Ở Hưng Yên, bơi trong những con sông đào của công trình thủy lợi lừng danh một thời Bắc-Hưng-Hải không đã nên hai chữ Sông Đà thật là hấp dẫn đối với chúng tôi !
Xin nói thêm là lần chuyển đến đơn vị mới này, chúng tôi phải tự tìm đường mà đi, từ Hưng Yên (huyện Văn Lâm) tới Sơn Tây (huyện Bất Bạt – quê hương thi sĩ Tản Đà). Chúng tôi đi nhờ ôtô từ Như Quỳnh về Hà Nội, rồi nhờ xe tiếp từ Hà Nội tới thị xã Sơn Tây, còn sau đó là đi bộ…Khỏi phải nói sự sung sướng tột cùng của chúng tôi khi tới Sông Đà, nhảy ào xuống rồi vùng vẫy, bơi tung tăng như con cá !...Quê tôi ở bên bờ Sông Thao, làng quê Hùng có Sông Lô, đều là những con sông nổi tiếng, và chúng tôi đã từng bơi vượt sông nhiều lần, nay đến Sông Đà, chẳng lẽ lại không dám vượt Sông Đà ? Thế là tôi và Hùng quyết định bơi qua bờ bên kia ! Có lẽ do chúng tôi đi bộ nhiều và đã quá mệt mỏi nên bơi gần tới bờ bên kia thì tôi đuối sức và bỗng nhiên có cảm giác như bị hút tuột xuống đáy sông, rồi tôi bất tỉnh, không biết gì nữa !...
Do sức trai trẻ và cũng là dân sông nước nên chỉ năm phút sau là tôi đã tỉnh lại, thấy mình đang nằm trên bãi cát bờ sông bên kia. Hùng đang ngồi nói chuyện với một cô gái cao lớn khỏe mạnh như một vận động viên bóng chuyền, nhưng gương mặt thật phúc hậu. Thì ra lúc tôi bị hụt hơi rồi chìm nghỉm, Hùng vì cứu tôi mà cũng bị chìm luôn. May mà lúc đó, Tản Viên – tên cô gái, đang chăn bò gần đó đã nhìn thấy và cứu chúng tôi .
Nhà Tản Viên ở bờ bên kia sông Đà, tức là phía bờ chúng tôi muốn bơi qua, tức đối diện với làng quê của thi sĩ Tản Đà. Vì ngưỡng mộ thi sĩ Tản Đà mà ông bố của cô gái đã đặt tên con là Tản Viên và cũng muốn con mình trở thành thi sĩ. Song, ông chưa kịp nhìn thấy con trưởng thành thì ông đã hi sinh ở chiến trường Điện Biên năm Tản Viên mới năm tuổi (Tản Viên cũng sinh năm 1948, tức bằng tuổi tôi và Hùng). Không biết sau này Tản Viên có thành thi sĩ hay không, nhưng lúc gặp chúng tôi thì cô đang chăn đàn bò mười con, số tài sản chính để nuôi bảy người : ông bà nội, mẹ và bốn chị em mà Tản Viên là thứ hai. Tản Viên cũng có giấy gọi vào đại học nhưng gia cảnh nhà cô quá khó khăn : ông bà nội đều già yếu, mẹ cô bị thương gãy một chân trong đợt đi dân công hỏa tuyến hồi chiến dịch Điện Biên, cho nên người lao động chính trong nhà là cô và người chị chỉ hơn cô một tuổi. Cùng tuổi với chúng tôi, lại cũng có cảnh ngộ chung là đường học vấn bị đứt đoạn (chúng tôi tuy đã là sinh viên đại học Tổng hợp Hà Nội , nhưng mới được ba tháng thì nhập ngũ) nên tôi, Hùng và Tản Viên nhanh chóng trở thành những người bạn thân. Nhưng, do chỗ đóng quân của đơn vị chúng tôi ở bên này sông, còn nhà Tản Viên lại ở bên kia sông cho nên tình bạn của chúng tôi đầy cách trở và đó cũng là nguyên nhân chính để có cái truyện ngắn này…
Đối với con gái, lúc mới tiếp xúc, người ta thường chú ý đến hình thức và cái đẹp hình thức quyết định hết thảy. Nhưng qua sự phán xét của thời gian, cái vẻ đẹp hình thức không còn là yếu tố quyết định nữa mà vẻ đẹp tâm hồn – vẻ đẹp nữ tính mới là yếu tố quyết định . Những cô gái mà có được cả hai, tức cả vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn thì tức là vẹn toàn : đẹp người đẹp nết ! Song, những cô gái được như vậy thật hiếm !
Phải nói một cách công minh rằng cô bạn Tản Viên của chúng tôi không có gì vượt trội về vẻ đẹp hình thức, nếu chấm điểm thì chỉ trung bình, nhưng không hiểu sao, khi tiếp xúc với Tản Viên, cả tôi và Hùng đều không hề có ý nghĩ bình phẩm về hình thức bên ngoài của cô, thậm chí chúng tôi còn thấy Tản Viên rất đẹp mỗi khi nhớ tới mấy câu vần vè ác ý mà các cô thôn nữ ở Hưng Yên đã đọc về cô gái Sơn Tây ! Và điều Tản Viên khiến tôi thật sự kinh ngạc là cô có sức khỏe phi thường : cô có thể cầm hai sừng của con bò mộng mà ghìm đầu nó xuống đất hoặc đẩy nó đi giật lùi ! Tôi hỏi tại sao cô có sức khỏe như vậy thì Tản Viên chỉ cười và nói :
-Có lẽ từ bé, lên sáu tuổi, em đã phải vật lộn với đàn bò và có thể là do ngày nào cũng bơi vượt sông một lần!...
Chúng tôi thường hẹn nhau ở bờ sông, chỗ lần đầu tiên gặp nhau. Mỗi khi Tản Viên dẫn đàn bò tới bờ sông uống nước, thường là vào buổi chiều, thì cô lại thả một con diều sáo bay vi vu trên trời để báo hiệu cho chúng tôi biết là cô đang ở đó. Giờ đó là lúc đơn vị chúng tôi ăn cơm chiều và nghỉ ngơi đến bảy giờ tối là giờ sinh hoạt tập thể (hôm thì nghe nói chuyện thời sự, hôm thì học hát, vân vân và vân vân). Từ năm giờ chiều đến bảy giờ tối, đó là khoảng thời gian trống dài nhất để chúng tôi có thể gặp Tản Viên. Việc đi gặp Tản Viên của chúng tôi phải giữ bí mật vì nói chung, đơn vị cấm mọi quan hệ riêng tư với dân nơi đóng quân. Một tuần chỉ có một lần được vào làng xóm thoải mái gọi là đi “dân vận”, nhưng phải đi tập thể theo từng tổ ba người. Vì thế, khi nghe thấy tiếng sáo diều của Tản Viên, ngó về hướng nhà cô thấy con diều sáo đang lơ lửng trên trời, thì Hùng đọc lên câu “mật khẩu”: Nước rợn sông Đà con cá nhảy / Mây trùm non Tản cánh diều bay, và thế là chúng tôi lẳng lặng đi thật nhanh đến chỗ hẹn (khoảng nửa cây số). Thường là Tản Viên chèo con thuyền nhỏ sang bên bờ sông thuộc địa phận chúng tôi đóng quân, rồi bơi ra giữa sông, hôm thì thi bơi, hôm thì ngồi trên thuyền nói chuyện trên trời dưới biển. Cách một ngày, chúng tôi mới có thể đi gặp Tản Viên được vì cách một ngày trực ban chiến đấu một ngày. Vì thế, việc gặp gỡ của ba chúng tôi không nhiều nhặn gì. Vậy mà chỉ ba tháng sau, những cuộc hẹn hò của chúng tôi đã bị đại đội phó phát hiện và chuyện gì phải xảy ra đã xảy ra !
Buổi chiều hôm ấy, khi chúng tôi vừa tới chỗ hẹn bờ sông thì bất ngờ gặp đại đội phó Tân . Đại đội phó hỏi ngay :
- Các cậu đi đâu đấy ?
- Báo cáo thủ trưởng, chúng em đi bơi ! – Hùng nói ngay.
- Các cậu có biết đi khỏi doanh trại 100 mét mà không được phép là vi phạm kỷ luật quân đội không ?
- Báo cáo…Chúng em đã xin phép tiểu đội trưởng ! – Hùng lại nói thay cho cả tôi, không hiểu sao nó phản ứng nhanh thế?
Đại đội phó nhếch mép cười, nói rõ từng tiếng :
- Thôi, nói dối đủ rồi đấy ! Chính tiểu đội trưởng các cậu đã báo cáo với tôi rằng gần ba tháng nay, chiều chiều các cậu lại hẹn hò với một cô gái bên kia sông. Các cậu ép buộc tiểu đội trưởng phải cho các cậu “đi bơi” nếu không thì sẽ tố cáo tiểu đội trưởng “dan díu” với bà Đào mẹ cô Mận !
Tôi cũng nói rõ từng tiếng :
- Báo cáo đại đội phó, chúng em chỉ vô tình nhìn thấy tiểu đội trưởng “dan díu” với bà Đào, chúng em không hề nói với tiểu đội trưởng rằng sẽ tố cáo anh ta. Còn việc chúng em đi bơi trong giờ nghỉ tự do là hoàn toàn hợp pháp. Thủ trưởng hãy thử hỏi chị Tình phó chủ tịch xã xem em nói đúng không ?
Đại đội phó nghe đến mấy tiếng “chị Tình phó chủ tịch xã” thì ngớ người, mặt đỏ bừng rồi phút chốc chuyển sang tím tái, ánh mắt nhìn tôi như muốn tóe lửa! Tôi đọc được ánh mắt ấy:”A! Thằng nhóc, láo! Mày chỉ là binh nhì lính quèn mà dám nắm thóp thủ trưởng của mày à? Chúng mày đừng tưởng là lính sinh viên đại học thì muốn làm gì cũng được! Tao sẽ cho mày đi làm “hỏa đầu quân” hoặc đầy lên vùng biên ải cho mày trắng mắt ra con ạ!”. Tôi vừa “đọc” đến đó thì đại đội phó gằn giọng, nói nhanh:
- Binh nhì Hùng và binh nhì Thạch, về ngay đơn vị gặp chính trị viên đại đội !
Tôi vụt nghĩ: A, thì ra cuộc “bắt quả tang” này đã được tính trước! Tôi vừa nghĩ vậy thì giật mình khi nhìn thấy Tản Viên đang ngồi trên con thuyền nhỏ, từ từ bơi vào bờ. Đại đội phó cũng đã nhìn thấy Tản Viên, liền đi ngay ra bờ sông, tới nơi thì con thuyền cũng cập bờ. Cả tôi và Hùng lúc ấy đều chết đứng như Từ Hải ! Không biết đại đội phó nói gì với Tản Viên mà thấy cô để cho ông ta lên thuyền và con thuyền bơi trở lại bên kia. Tới giữa sông, con thuyền như dừng lại khoảng năm phút rồi như là có sự vật lộn giữa hai người, rồi chỉ hai phút sau đó, con thuyền lật úp. Tôi và Hùng cùng thét lên khi nhìn thấy cảnh đó và cùng chạy như bay ra bờ sông. Chúng tôi vừa định nhảy xuống sông thì cùng rú lên kinh ngạc khi thấy Tản Viên nổi lên ngay sát bờ, lôi theo cả đại đội phó, đã ngất xỉu, như một xác chết!
Chúng tôi làm hô hấp nhân tạo cho đại đội phó, rồi Hùng cõng đại đội phó chạy về đơn vị. Tôi vội hỏi Tản Viên:
- Vừa rồi xảy ra chuyện gì vậy?
- Lúc đầu ông ta nói chở ông ta qua sông có việc khẩn cấp. Nhưng ra tới giữa sông, ông ta nói cho ông ta “ thỏa mãn” thì sẽ tha tội cho anh và Hùng. Em không chịu và nói các anh không có tội gì cả! Ông ta dám xúc phạm em, bảo em xấu xí như thế mà được ông ta “chiếu cố” thì phải cảm ơn chứ, thế là em tức quá, bóp “hạ bộ” ông ta rồi lật thuyền cho chìm luôn! Hình như ông ta không biết bơi? Em sợ quá phải lôi ông ta vào bờ ngay thì vừa gặp các anh tới. Chuyện chỉ có vậy thôi, anh cứ yên tâm, ông ta không dám trả thù đâu vì sẽ bị đau dăm ngày, “đòn đau nhớ đời” mà !
Tôi vội chạy đuổi theo Hùng, nhưng về tới đơn vị mới kịp. Y tá đại đội tiếp tục chăm sóc cho đại đội phó, chúng tôi vội chạy ngay về tiểu đội , tìm tiểu đội trưởng nhưng không thấy đâu, tới giờ sinh hoạt tổ ba người rồi mà!...
Sau chuyện đó, chỉ năm ngày, đại đội phó Tân đã hồi phục sức khỏe. Tôi và Hùng được gọi lên ban chỉ huy đại đội thì đã thấy đại đội phó đang ngồi ở đó. Đại đội phó nói luôn:
- Tác phong quân sự là ngắn gọn, chính xác. Tôi nói ngay thế này: có lệnh của quân lực Trung đoàn điều hai đồng chí về một đơn vị ở Nghệ Tĩnh. Ngày mai lên đường!
- Rõ ! – cả tôi và Hùng đồng thanh, như là phản xạ tự nhiên !
- Vậy là xong việc. Còn đây là câu chuyện nói thêm – đại đội phó “e hèm” rồi nói nhỏ nhẹ - Nếu hai cậu muốn ở lại, tôi có thể giúp. Nhưng hai cậu cũng phải giúp tôi một việc !...
Hùng nhanh nhẩu nói :
- Thủ trưởng cứ nói, đừng nói là một việc mà mười việc chúng em cũng sẵn sàng !
- Giỏi lắm ! – Đại đội phó vỗ vai Hùng – Cậu rất hiểu đời. Bây giờ Khu Bốn đang là biển lửa, bọn Mỹ đang tập trung đánh phá tuyến đường huyết mạch vào Nam, các cậu vào đó khó có thể bảo toàn sinh mạng !
- Em còn bố mẹ già và bốn đứa em nhỏ, em phải sống để phụng dưỡng cha mẹ và nuôi các em !... – Hùng nghẹn ngào như sắp khóc !
- Tôi hiểu hoàn cảnh của cậu ! Vì thế, tôi rất muốn giúp, tôi sẽ nói với quân lực điều người khác, các cậu sẽ được ở lại !
- Em xin đội ơn Thủ trưởng !
Trong khi Hùng đang nắm chặt lấy tay của đại đội phó van vỉ thì tôi thấy máu trong người như sôi lên, tôi như nhìn thấy cái điều kiện mà đại đội phó sẽ thò ra, tôi muốn nói với Hùng hãy nhận ngay quyết định đi Khu Bốn ngay ! Nhưng tôi lại chợt nhớ tới những bức thư đẫm nước mắt của cô em gái Hùng…Tôi hít một hơi dài và từ từ thở ra rồi ngồi im như tượng đá ! Tôi nghe thấy tiếng nói của đại đội phó như là từ ở âm phủ vọng về :
- Các cậu chỉ phải làm giúp tôi một việc rất nhẹ nhàng, rất dễ dàng : đó là làm mai mối cho tôi cưới cô bạn của các cậu là cô Tản Viên làm vợ ! Tôi tuổi Thân, cô ta tuổi Tý, rất hợp duyên số, đêm nào tôi cũng thấy Thần linh báo mộng như vậy ! Nếu làm tốt đẹp chuyện nhân duyên này, các cậu sẽ không phải đi Khu Bốn nữa mà sẽ được ở lại , sẽ làm phù rể cho tôi !...
Máu trong người tôi lại như sôi lên và không biết sự thể sẽ ra sao nếu như Tản Viên không đột ngột xuất hiện ! Tản Viên nói nhỏ nhưng tôi nghe như tiếng sấm :
- Tôi đồng ý điều kiện của đại đội phó !
Đại đội phó còn bất ngờ hơn cả tôi và Hùng . Việc cưới hỏi đã được định ngày : một tháng nữa sẽ ăn hỏi, ba tháng nữa sẽ đám cưới ! Đại đội phó tỏ ra rất hào phóng : cho Hùng về nhà mười ngày thăm bố mẹ và thăng quân hàm cho chúng tôi từ Binh nhì lên Binh Nhất ! Tôi đưa Hùng cả Sáu ngàn đồng – số tiền phụ cấp đầu tiên của anh Binh Nhất ! Hùng ôm chặt lấy tôi mà khóc như trẻ con ! Tôi thì lại thấy đắng ở trong miệng : đời lính sao mà…Tôi không dám nghĩ tiếp nữa mà chạy đi tìm Tản Viên, hỏi cho ra nhẽ ! Lúc gặp Tản Viên, cô tỏ vẻ bình thản như không có chuyện gì xảy ra…
- Tại sao cô lại biết chuyện chúng tôi sẽ bị điều đi Khu 4 ? Tại sao cô lại quyết định như vậy ? Tại sao…
Tản Viên từ tốn nói nhỏ :
- Anh đừng hỏi gì nữa ! Em không thể để các anh bị liên lụy vì em ! Anh không thấy anh Hùng rất tội nghiệp hay sao?
- Vậy cô đồng ý cưới ông ta thật hay sao ? ông ta có xứng đáng làm chồng cô không ?
- Đã bảo anh đừng hỏi gì nữa ! Em không bao giờ đồng ý làm vợ ông ta, dù ông ta có là tướng tá ! Đây chỉ là kế hoãn binh để cứu các anh !...
Trời đất ! Tôi như người đang bay lơ lửng trên không bỗng rơi bịch xuống đất ! Cú rơi tuy rất đau nhưng đã hiểu ra đầu đuôi sự việc rắc rối này ! Trong tình thế này, hoãn binh là kế vẹn toàn nhất ! Tôi thầm thán phục Tản Viên. Người ta nói nếu bằng tuổi nhau thì con gái bao giờ cũng hiểu sự đời thấu đáo hơn con trai, quả nhiên không sai !
Tuy nhiên, tôi lại phải sống trong sự chờ đợi, thấp thỏm lo âu vì ngày ngày nối tiếp nhau qua đi rất nhanh . Hùng hết hạn nghỉ (tranh thủ - trong thời chiến không có nghỉ phép chính thức mà chỉ linh hoạt cho lính tráng về thăm nhà, gọi là tranh thủ, từ này về sau không còn nữa), đã trở lại đơn vị. Nỗi lo của chúng tôi bị nhân đôi !
Trớ trêu thay là sự đời ! Nghiệt ngã thay là số phận ! Trước ngày ăn hỏi một ngày đã xảy ra một sự cố bất ngờ : Một tốp cường kích (máy bay ném bom) của Mỹ từ phía Tây lén bay qua đèo Yên Ngựa (phía nam dãy núi Tản) hòng đánh trộm Hà Nội, chúng tưởng bay sát núi như vậy sẽ tránh được sự phát hiện của Ra-đa, nhưng chúng đã bị phát hiện và hai chiếc MIG 17 của không quân ta đã kịp thời xuất kích, đón đánh. Bị đánh bất ngờ, tốp máy bay cường kích của Mỹ hoảng sợ tháo chạy hỗn loạn, thả bom lung tung để nhẹ cánh. Một quả bom đã rơi xuống triền đồi chỗ Tản Viên đang chăn bò, và thật không may, cô ta đã trúng mảnh bom, bị thương rất nặng ! Chúng tôi đã đưa Tản Viên đến quân y viện 5 để cấp cứu. Ai cũng nghĩ Tản Viên khó qua khỏi, còn tôi và Hùng thì vẫn tin rằng Tản Viên không thể chết, chúng tôi luôn mồm cầu xin Bồ Tát, Như Lai, cầu xin các ngài cho Tản Viên sống lại, nhưng cầu đến ngày thứ ba mà Tản Viên vẫn chưa tỉnh lại ! Đại đội phó Tân thấy vậy thì lập tức tuyên bố hủy bỏ cả đám hỏi và đám cưới ! Tôi và Hùng mừng quá, ôm lấy nhau mà không nói được gì, lại cầu Trời, khấn Phật ! Lúc đang khấn Bồ Tát trăm tay ngàn mắt cứu khó phò nguy cho tai qua nạn khỏi thì có tiếng nói vang lên, như là từ trên thinh không :
- Thôi đủ rồi, các anh khỏi phải cầu khấn làm gì nữa, em đã sống lại rồi đây này !
Thì ra là Tản Viên nói, cô ngồi dậy, nhìn chúng tôi mỉm cười, một nụ cười hiền hậu, thánh thiện mà tôi chưa hề thấy ở bất kỳ cô gái nào! Cả tôi và Hùng cùng trố mắt kinh ngạc rồi cùng rụi mắt nhìn lại xem có đúng là Tản Viên đã tỉnh lại hay không? Tản Viên lại nói, tiếng nói cứ như tiếng sáo diều vi vu:
- Không phải là Tản Viên thì còn là ai vào đây nữa! Em được Thần Núi Tản và cả Thần Sông Đà phò trợ nên không thể chết dễ dàng như vậy được! Em đã tỉnh dậy từ hôm qua nhưng vẫn cứ nằm giả chết để kéo dài cái kế hoãn binh và nghĩ xem có kế sách gì hay tiếp theo hay không, nhưng nghĩ mãi chẳng ra, thì vừa lúc nghe các anh nói ông đại đội phó đã tuyên bố hủy bỏ cái ý đồ quái gở đó!
- Nếu ông ta không tự rút lui thì chúng tôi cũng bắt ông ta phải rút lui!...- Tôi và Hùng tranh nhau nói nhưng thực ra vẫn chưa nghĩ ra cách gì để buộc ông ta từ bỏ ý định đòi cưới Tản Viên. Tản Viên như là cũng biết vậy nên cô lại cười cười như muốn nói:”Thôi bỏ đi, đừng nghĩ đến chuyện này nữa!”…
Tản Viên ra viện ngay và phải ba ngày sau vết thương mới lành và lên da non. Chúng tôi đang bàn tính làm đại tiệc tại nhà Tản Viên để ăn mừng “tai qua nạn khỏi” thì đơn vị được lệnh cơ động. Thế là đành phải chia tay Tản Viên…Tưởng rằng chỉ di chuyển loanh quanh qua Quốc Oai, Tùng Thiện , Phúc Thọ rồi lại quay về Bất Bạt như mọi khi, ai ngờ đúng chiều Ba mươi Tết năm đó, chúng tôi đươc lệnh “hành quân thần tốc” vào tận chiến trường Khu Bốn!...
…Đời lính thời chiến là như vậy, thoắt đến thoắt đi như chim!...Đoàn xe máy móc, khí tài của đơn vị chúng tôi hình như đã tới đất Thanh Hóa anh hùng. Tôi ngồi trong ca-bin của xe hiện sóng mà nửa tỉnh nửa mê, thỉnh thoảng đầu đập vào khoang cửa ca-bin là tỉnh, còn thì như đang bơi trên sông Đà cùng với Tản Viên, cùng với câu thơ “ mật khẩu”:

                 Nước rợn sông Đà con cá nhảy
                 Mây trùm non Tản cánh diều bay !...
Hình như tiếng anh Lạc lái xe nói:”Yêu rồi chứ gì?Thế mà nói chỉ là bạn! Nếu đã yêu rồi thì khổ đấy, vì đời lính thời chiến không thể hành quân với chữ Yêu!...Hình như Giao thừa đến rồi! Đây là cái Tết thứ ba xa vợ con!...”. Tôi nhìn ra xung quanh, tiếng pháo nổ ran khắp nơi, các phía chân trời đều có chớp sáng nhằng nhằng, vài quả pháo sáng lủng lẳng đây đó, trong tiếng pháo râm ran có cả tiếng bom rền !...

TP.HCM, 2005-2009
Đỗ Ngọc Thạch 
Nguồn newvietart.com

Xem thêm:


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét