Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2012

Truyện ngắn Đ.N.T -trích: Mẹ Đốp; Sự tích chim đa đa.

ĐỖ NGỌC THẠCH

Chúc mừng Năm Mới Nhâm Thìn 2012

 t r u y ệ n   n g ắ n

Đỗ Ngọc Thạch
http://lamtheo.com/articles_intro/files/29fdff89_fbdf459e5323ea13f3ba634d031dc1a9.jpeg

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Mẹ Đốp

Thứ tư, 05 Tháng 10 2011 02:34 TRUYỆN - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
medop“Chiềng làng chiềng chạ / Thượng hạ Tây Đông / Con gái Phú Ông / Tên là Mầu Thị / Tư tình ngoại ý/ mãn nguyệt có thai / Già trẻ gái trai/ ra đình mà ăn khoán…”
– Đó là lời rao của Mẹ Đốp về vụ Thị Mầu hoang thai bị làng phạt vạ trong vở Chèo cổ Quan Âm Thị Kính. Song, hầu như ngày nào, dân làng xã Đoài Trung cũng được nghe những lời đó, từ Mẹ Đốp. Song, đây không phải là nhân vật Mẹ Đốp trong vở Chèo mà là Mẹ Đốp hiện đang sống ở Làng Đoài Trung. Tại sao lại có sự trùng hợp về tên gọi và tại sao Mẹ Đốp ngày nay lại cứ đọc lại cái câu trong lời đi rao khắp Làng của nhân vật Mẹ Đốp trong vở Chèo? Những người mới đến Làng Đoài Trung thường hỏi bà Tỏi, chủ quán nước ở đầu Làng như vậy và được bà giải thích khá cặn kẽ như sau:
Mẹ Đốp là một cô gái xinh đẹp nhất nhì cái Làng Đoài Trung, tên thật là Đào, khi tuổi trẻ thích tham gia văn nghệ, đặc biệt là hát Chèo, nên đã được chọn vào đội Chèo của xã Đoài Trung. Đội Chèo của xã tuy không hoạt động chuyên nghiệp, tức chỉ khi có Hội diễn của Huyện, của Tỉnh hoặc ngày Lễ lớn, ngày Tết…đội mới tập họp mọi người lại, tập luyện dăm ba hôm rồi lên sân khấu. Tuy thế, lần nào có Hội diễn, Đội Chèo của Xã cũng đoạt huy chương không Vàng thì Bạc. Riêng cô Đào, là một trong những diễn viên xuất sắc của Đội Chèo, đặc biệt là khi cô sắm vai Mẹ Đốp. Một lần, cô Đào vào vai Mẹ Đốp thì “lọt mắt xanh” ông Lê Văn Xã, người sắm vai Xã Trưởng. Ông Lê Văn Xã hiện đang giữ chức Phó chủ tịch UBND Xã Đoài Trung, chuyên trách công tác văn hóa, thông tin, tuyên truyền, các vấn đề xã hội…gọi tắt là Phó Chủ tịch phụ trách Văn – Xã. Ông Lê Văn Xã đã có vợ con nhưng vẫn không chịu “yên bề gia thất” mà nổi tiếng trăng hoa, đa tình. Khi cô Đào đang vào vai Mẹ Đốp, ông Lê Văn Xã đang vào vai Xã Trưởng thì ông chợt phát hiện ra vẻ đẹp quyến rũ không thể cưỡng lại của Mẹ Đốp mà lâu nay mải vui thú đâu đâu, ông “có mắt mà như mù”! Thế là sau buổi diễn đó, ông Lê Văn Xã lập tức “gửi Mẹ Đốp nuôi giùm một đứa con”!...

Song, Mẹ Đốp (tức cô Đào), là người mắn đẻ, lại gặp hôm “mát giời” nên không chỉ “đẻ giùm” ông Xã Trưởng (tức ông Lê Văn Xã) một đứa con mà tới những ba đứa con! Nếu cứ đúng như Lệ Làng thì cô Đào sẽ bị Làng phạt vạ, như trong chính vở Chèo mà cô đã diễn nhiều lần, hoặc có thể nặng hơn, nhưng ông Lê Văn Xã đang là Phó Chủ tịch UBND Xã, lại sắp lên thay chức Chủ tịch UBND Xã do Chủ tịch đương nhiệm được thăng chức lên Phó Chủ tịch UBND Huyện, do đó, chuyện to thu lại thành nhỏ, chuyện nhỏ coi như không có! Tuy nhiên, Mẹ Đốp (tức cô Đào) là người “đau khổ” suốt đời : tuy không bị phạt vạ, nhưng ông Lê Văn Xã đã “nuốt lời”, không ly dị vợ để cưới cô như đã thề bồi rất tha thiết khi muốn “gửi con” nơi cô, nên cô phải sống trên “búa rìu dư luận” mà nuôi ba đứa “con hoang”! Việc cô Đào phải quần quật nuôi ba đứa “con hoang” khiến cho nhan sắc cô tàn phai, sức cô cạn kiệt… Và khi ba đứa con (đều là con trai) lên mười tuổi thì cô Đào trở nên người ngớ ngẩn, ngày nào cũng đi khắp Làng, vừa gõ cái mõ đã mòn bóng, vừa rao: Chiềng Làng chiềng chạ / Thượng Hạ, Tây Đông…
Sự đời, có những cái xảy ra ngoài sức tưởng tượng của con người và lúc đó, người ta không thể cắt nghĩa được, không thể giải thích được, nên đành gọi là chuyện lạ ! Cũng giống như trong Y học, có những căn bệnh mới xuất hiện mà những thứ thuốc hiện có không có tác dụng, thầy thuốc không biết tại sao lại như thế, đành bó tay và gọi đó là bệnh lạ ! Mẹ Đốp (tức cô Đào) sau hai tháng khùng khùng, điên điên, thỉnh thoảng lại đi khắp Làng gõ mõ hát rao “Chiềng Làng chiềng chạ / Thượng hạ Tây Đông…”, bỗng trở nên thay đổi khiến dân Làng ngỡ ngàng: Tiếng rao của Mẹ Đốp như là những chuỗi âm thanh huyền hoặc, kỳ ảo và có sức mê hoặc hồn người đến không thể cưỡng nổi! Khi nghe tiếng rao của Mẹ Đốp, người nghe đứng ngây ra, bất động và như hóa đá! Chính vì những người nghe đã bị mê hoặc đi như thế nên hầu như không có ai nhận ra rằng: Mẹ Đốp (tức cô Đào) đã không còn cái thân hình tiều tụy như lúc mới điên khùng nữa mà như vừa lột xác để trở lại như cô Đào của mười năm trước!...

Khi ba đứa con sinh ba của Cô Đào là nhận ra sự biến đổi kỳ lạ đó ở người mẹ của chúng, chúng bèn hỏi mẹ: “Mẹ ơi, cha của chúng con đâu?”. Người Mẹ nói: “Cha của các con là anh Mõ!”. Ba đứa trẻ không hiểu “Anh Mõ” nghĩa là gì, bèn đi hỏi bà Tỏi, chủ quán nước ở đầu Làng. Bà Tỏi nói: “Anh Mõ là chồng Mẹ Đốp, đúng là như vậy, nhưng đó là trong vở Chèo. Còn ở Làng ta, từ rất lâu đã bỏ cái chức danh Mõ rồi! Biết tìm anh Mõ ở đâu bây giờ?”. Ba đứa trẻ thấy Bà Tỏi mà không biết thì có lẽ chẳng ai biết cả, bèn thôi không đi hỏi nữa. Vả lại từ lúc chúng sinh ra đời, chúng có thấy người cha bao giờ đâu?

Tuy nhiên, câu chuyện không dừng lại ở đó. Ba đứa trẻ không đi tìm Anh Mõ, tức cha của chúng nữa nhưng một thời gian sau thì có người tự xưng là Anh Mõ đến gặp ba đứa trẻ và nói: “Ta chính là Anh Mõ, là cha của các con đây!” Ba đứa trẻ hỏi: “Ông nói ông là Anh Mõ, vậy lấy gì làm bằng chứng?”. Người kia liền lấy trong cái túi vải đeo lủng lẳng dưới nách ra một cái mõ bằng gỗ đã nhẵn bóng mà rằng: “Các con hãy coi đây! Đây chính là cái mõ ta vẫn dùng hàng ngày khi còn làm công việc của anh Mõ!”. Một đứa trẻ nói: “Vậy ông hãy vừa gõ mõ vừa đọc câu rao như mẹ tôi xem sao?”. Người kia liền gõ mõ “Cốc, cốc…” và đọc:
Chiềng làng chiềng chạ / Thượng hạ Tây Đông / Con gái Phú Ông / Tên là Mầu Thị / Tư tình ngoại ý/ mãn nguyệt có thai / Già trẻ gái trai/ ra đình mà ăn khoán!...
Ba đứa trẻ thấy người này đọc và gõ mõ đúng như mẹ nó vẫn làm thì có vẻ như muốn tin đó là Anh Mõ thật, liền cử một đứa đi tìm mẹ. Cô Đào, tức Mẹ Đốp, tức mẹ của ba đứa trẻ, lúc này đang nấu cơm ở nhà, nghe con nói như thế thì bảo: “Có vẻ như đúng đấy. Bố con lúc nhỏ là con của một thằng Mõ. Khi lớn lên thì Làng không còn cái chức danh Mõ nữa mà gọi là văn hóa-thông tin. Nhờ làm văn hóa – thông tin xã mà đã tán tỉnh được mẹ, khiến mẹ xiêu lòng. Nhưng ông ta nuốt lời, không cưới mẹ, để mẹ phải chịu cảnh chửa hoang, may mà không bị phạt vạ như nhân vật Thị Mầu. Nghe nói ông ta đã leo lên cái chức Trưởng phòng văn hóa-thông tin Huyện, rồi lên nữa tới Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin. Sao bây giờ lại tự nhận là Anh Mõ? Lại có chức danh Anh Mõ sao? Thế còn cái Sở Văn hóa-Thông tin thì sao?”. Đứa con sốt ruột, hỏi: “Vậy bây giờ chúng ta phải làm sao? Có cho ông ta vào nhà gặp mẹ không?”. Người mẹ liền nói: “Thôi được, cho ông ta vào, nhưng phải kiểm tra cái dấu hiệu này đã. Nếu đúng là ông ta, cái ông Xã trưởng đĩ tính ấy thì ở trên cái “thằng bé” rất dài của ông ta có tới hai cái nốt ruồi son! Có lẽ chính vì thế mà ông ta nổi tiếng “sát gái”!”.
Đứa con nghe nói vậy thì chạy ra ngoài cổng, nơi hai người anh em của nó và người kia đang đứng đợi. Nó nói với hai đứa anh em của nó phải kiểm tra như thế, như thế!...Sau khi hai đứa anh em của nó “kiểm tra” xong thì nói: “Không phải hai nốt ruồi mà có tới ba cái!”. Nghe hai người anh em nói vậy, đứa con lại chạy vào nói với người mẹ như thế, như thế! Người mẹ nghe nói vậy thì giật mình nghĩ bụng: “Mới có hai cái nốt ruồi mà đã “sát gái” như thế thì nay có tới ba cái tất sẽ rất kinh hoàng, ta làm sao mà chịu nổi? Nhưng nếu không cho ông ta nhận con thì ba đứa trẻ tội nghiệp kia sẽ suốt đời không cha hay sao?”. Người mẹ liền hỏi đứa con: “Mẹ hỏi câu này, con cứ nói thật. Con có thích cho cái ông kia nhận làm bố hay không?”. Đứa con nói ngay: “Mẹ thích thì con cũng thích, mẹ không thích thì sao con lại dám trái ý mẹ, con cũng không thích!”. Người mẹ cười quặn bụng hồi lâu rồi mới nói: “Mẹ có ý này, ra nói với hai anh em của con nữa, cùng thuận theo ý mẹ thì ta quyết ngay: Nếu ông ta đồng ý làm “Thái giám” thì sẽ cho làm bố, làm chồng, nếu không thì …“Tiễn khách”! Nhớ là không để ông ta cò cưa, năn nỉ nữa!”. Đứa con lại chạy ra nói với hai người anh em ý muốn của mẹ. Cả ba anh em đều tán đồng theo ý mẹ ngay mà không tranh cãi gì. Khi ba anh em nói với người đàn ông kia như thế, như thế thì ông ta nói ngay: “Dù bất cứ điều kiện như thế nào, tôi cũng đồng ý!”. Ba anh em liền dẫn người đàn ông kia vào nhà gặp mẹ. Khi hai người gặp lại nhau, người mẹ nói: “Nói là nói vậy, nhưng tôi vẫn chừa cho ông một con đường để mà hối cải! Cái án “hoạn quan” cứ treo đó, nếu như ông thật lòng thành tâm hối cải thì có thể cho qua!”. Người kia nghe nói vậy thì lạy tạ ơn rối rít và hứa sẽ hết lòng với bốn mẹ con. Người mẹ lại nói: “Danh có chính thì ngôn mới thuận. Dù thế nào, ông cũng phải làm cái lễ cưới hỏi đàng hoàng chứ không thể khơi khơi đến nhà người ta rồi ngồi chễm chệ trên ghế ông chồng, ông bố được!”. Người kia nói: “Tôi đã bị cái án kỷ luật mất sạch chức tước, tài sản cũng bị bà vợ già lấy hết, không cho một đồng chinh cắc bạc thì làm sao…”. Người mẹ nói ngay: “Ông không phải lo chuyện tiền bạc mà chỉ lo làm tốt các thủ tục, nghi thức cho vẹn toàn! Coi như tôi cho ông thiếu nợ!...”.
Ở những người tốt, có lòng vị tha thì dễ mủi lòng mà tha thứ, cho dù tội lỗi kia có trầm trọng tới đâu. Chính vì biết cô Đào, tức Mẹ Đốp là con người dễ mềm lòng nên ông Văn Xã, tức Xã Trưởng đã triệt để khai thác “điểm yếu” đó của cô Đào và được cô Đào tổ chức đám cưới đàng hoàng, thậm chí rất dềnh dang vì cả Làng ai cũng mến cô Đào, đến dự đám cưới cô và ông Văn Xã rất đông, có thể nói là vui như Hội. Mọi người còn yêu cầu cô dâu tức cô Đào và chú rể tức ông Văn Xã diễn lại trích đoạn Chèo “Mẹ Đốp, Xã Trưởng”, khiến cho cả Làng lại được một phen cười nghiêng ngả…

Thực ra, ông Văn Xã bị án kỷ luật mà mất chức tước ở Sở Văn hóa-Thông tin, trở về xã làm nhiệm vụ “Thằng Mõ”, tức chuyên trách nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền đường lối chủ trương, chính sách của Nhà nước, là rất “đúng người, đúng việc” bởi ông Văn Xã không chỉ có tài diễn vai Chèo Xã Trưởng trong lớp Chèo “Mẹ Đốp, Xã Trưởng”, mà ông còn có tài làm ca dao, hò vè, thơ Bút Tre…khiến cho ai đọc “thơ ca” của ông cũng cười nôn ruột! Nói cho công bằng thì cái Tài của ông Văn Xã ở đây là tài nhại, tài bắt chước ca dao, hò vè dân gian, thơ Bút Tre…Song, làm được như thế cũng không phải dễ dàng gì, ai không tin thì cứ thử mà xem, sẽ tắc tị ngay mà thôi!...

Sau đám cưới, ông Văn Xã có vẻ như “tu chí làm ăn”, một lòng với vợ con, nên Ông Trời thương tình cho cô Đào đẻ được ba đứa con nữa, cũng lại sinh ba! Giờ thì cô Đào không phải một mình nuôi con hoang nữa mà ông Văn Xã đã thể hiện là một người cha tốt! Đi đâu, gặp ai, ông Văn Xã cũng nói: “Làm một người cha tốt quả là không hề dễ dàng, song làm được một người cha tốt thì thật là hạnh phúc, thật mãn nguyện!”

Bây giờ, ai đến Làng Đoài Trung, vào ngày thường, sẽ được tận mắt mục kích “Thằng Mõ” hành nghề thực sự, đâu ra đó, chứ không chỉ là “chuyện ngày xưa”. Nhiệm vụ “Thằng Mõ” này thường là do ông Văn Xã thực hiện, thi thoảng ông Văn Xã đau yếu, bệnh tật thì do Mẹ Đốp, tức cô Đào, thực hiện. Còn nếu đến Làng Đoài Trung vào những dịp có Lễ Hội, sẽ được xem diễn trích đoạn Chèo “Mẹ Đốp, Xã Trưởng” do cô Đào và ông Văn Xã trình diễn. Trình độ nghệ thuật của hai nghệ sĩ dân gian này đã đạt tới mức không thể bình luận mà chỉ có một cách là bị cuốn hút vào “Mê Hồn Trận Cười” để rồi vỗ tay tới mỏi tay thì thôi!...
Một lần, cô Đào đang “thay chồng làm việc quan” như trong vai trò “Mẹ Đốp”, thì thấy hai đứa học trò, áng chừng lớp mười một, mười hai rồi, cứ lẽ đẽo “bám đuôi”. Cô Đào nghĩ, chẳng lẽ lại có kiểu “người hâm mộ” như thế sao? Cô Đào bèn quay lại, tóm hai “cái đuôi” hỏi cho ra nhẽ! Thì ra đó là hai học sinh lớp 12 của Trường Huyện, sẽ vào vai Mẹ Đốp và Xã Trưởng trong trích đoạn Chèo này, muốn đến gặp đích danh “Mẹ Đốp” để nhờ làm “Đạo diễn”, vì đợt Hội diễn Văn nghệ sắp tới sẽ có tất cả các trường Trung học Phổ thông của Tỉnh tham gia, và nghe nói đã có tới gần chục trường chọn trích đoạn “Mẹ Đốp, Xã Trưởng” làm bài thi! Cô Đào nghe nói xong thì ôm chầm lấy hai đứa học trò khiến hai đứa như ngạt thở!...Khi đã bình tâm trở lại, cô Đào nói: “Đó là ta đã truyền công lực cho hai em rồi đó! Giờ thì theo ta đi tuyên truyền phòng chống dịch cúm H5N1! Nếu như bà con ai cũng hiểu được bệnh cúm H5N1 là gì và phòng chống như thế nào thì coi như hai em đã thành công!”. Hai đứa học trò liền Bái sư và cùng với cô Đào, tức “Mẹ Đốp” đi khắp Làng!...

Kết quả đợt Hội diễn văn nghệ là hai đệ tử của cô Đào đã đoạt Huy chương Vàng. Lúc hai đệ tử nhận giải thưởng, cô Đào tới chúc mừng và nói: “Hãy nhớ là chỉ làm Mẹ Đốp trên sân khấu thôi nghe! Không được lẫn lộn giữa sân khấu và cuộc đời!”. Nhưng cả hai đệ tử lúc đó đâu có nghe rõ những lời dặn dò, cho nên chỉ sau nửa năm, đệ tử gái vào vai Mẹ Đốp đến gặp Sư phụ với những giọt nước mắt lã chã: “Sư phụ!...Thằng Xã Trưởng nó gửi con cái Thai này rồi biến đâu mất rồi!”. Cô Đào biết nói sao với đệ tử bây giờ bởi cô đang là cô gái của hai mươi năm trước!...
Sài Gòn, tháng 1-2010.
Đỗ Ngọc Thạch

Sự tích chim đa đa

Chủ nhật, 16 Tháng 10 2011 15:15 TRUYỆN - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
chimdadaTiểu Ngũ là con trai út trong một gia đình có năm anh chị em: anh cả, tên là Công Nhất, anh sinh ra lúc người bố, tên là Quan Gia, lập được công trạng đầu tiên, được thăng chức Trưởng phòng của Sở Nông nghiệp, tên anh được đặt như vậy để kỷ niệm bước khởi đầu con đường quan chức của người bố.

Sau khi lên chức Trưởng phòng, ông Quan Gia ly hôn người vợ trước ở quê với lý do đây là người vợ “Tảo hôn”, hơn ông tới năm tuổi để cưới cô Thục Nữ, con gái của ông Chủ tịch Tỉnh, cũng là Kỹ sư Nông nghiệp, làm việc cùng phòng (thực ra, bà vợ trước cũng không phải là bình dân mà là con gái rượu của ông Chủ tịch Huyện khét tiếng một vùng…). Đầu năm cưới, cuối năm sinh được cậu con trai, đặt tên là Tiến sĩ, bởi lúc này ông Quan gia đang mơ cái bằng Tiến sĩ, bởi nếu không có nó, con đường quan chức của ông chỉ dừng ở cái chức Trưởng phòng - cái chức quan “Bé như hạt vừng” (dân miền Nam gọi là hạt Mè) này mà thôi. Quả nhiên, “cầu được, ước thấy”, người vợ mới của ông Quan Gia tuy “không đẹp” như Hoa Hậu, Hoa Khôi nhưng lại có tướng “Vượng phu ích tử”, tức nuôi con thì hay ăn, mau lớn, giúp chồng một lúc hai kết quả : vừa có bằng Tiến sĩ, vừa lên chức Phó giám đốc Sở. “Thừa thắng xốc tới”, năm sau người vợ tốt tướng lại sinh cho ông Quan Gia người con gái giống mẹ như hai giọt nước và giúp ông lên chức Giám đốc Sở, vì thế người con gái có tên là Nữ Giám… Người xưa có câu “Thấy bở đào mãi”, quả không sai. Ngồi lên cái ghế Giám đốc Sở chưa ấm chỗ, ông Quan Gia đã thấy “cái Sở như là ao tù chật chội”, ông nói với vợ: “Phu nhân quả là Thần May mắn của ta! Mỗi lần phu nhân đẻ con cho ta, quả nhiên ta lại có tài lộc lớn! Mang nặng đẻ đau, phu nhân phải chịu vất vả cực nhọc! Nhưng ta còn phải leo lên cái chức Phó chủ tịch Tỉnh, rồi Chủ tịch Tỉnh nữa. Vì thế, Phu nhân phải đẻ cho ta hai đứa con nữa!”. Bà Thục Nữ nghe nói vậy thì vui lắm, mười phần hưng phấn cho nên sau đó đẻ liền hai đứa con nữa, đứa chị đặt tên là Nữ Chủ, còn thằng em, không hiểu sao lại nhỏ bé hơn các anh chị tới gần một lạng khi chào đời, nên đặt tên là Tiểu Ngũ!... Tuy nhiên, sau khi hai chị em Nữ Chủ và Tiểu Ngũ đã cứng cáp thì ông Quan Gia lên chức Phó chủ tịch Tỉnh và cái chức Chủ tịch Tỉnh, nghe nói chỉ còn chờ một vị “Thượng Quan” ký duyệt, chặng đường quan chức này chưa hết chục năm!
Thời gian thoi đưa, năm người con của ông Quan Gia “lớn nhanh như thổi” và thành đạt như diều gặp gió! Khi Công Nhất, Tiến Sĩ, Nữ Giám, Nữ Chủ và Tiểu Ngũ mới gần tới tuổi ba mươi thì cả bốn người anh chị của Tiểu Ngũ đã có đầy đủ mọi thứ của một “Con người thời đại”: Bằng cấp cao, chức vụ lớn! Duy chỉ có Tiểu Ngũ là cứ dở ngây dở dại, lúc tỉnh lúc khùng, không ai biết thế nào!
*
Vào một ngày Mùa Đông đẹp trời, ông Quan Gia nói với vợ: “Hôm vừa rồi, tôi ngẫu nhiên đọc tập truyện Cổ tích của mấy đứa cháu con thằng Cả, thấy có chuyện “Sự tích Chim Đa Đa” hay lắm!”. Bà vợ nói: “Tôi đọc truyện Cổ tích đó cho mấy đứa cháu nghe chứ ai? Nhưng tại sao tự nhiên ông lại nói tới cái chuyện “Sự tích chim Đa Đa”? Hay là ông đang Cải lão hoàn đồng?”. Ông Quan Gia nói: “Cải lão hoàn đồng thì chưa nhưng tôi có ý này: Thằng Tiểu Ngũ nhà mình đã gần ba mươi tuổi mà cứ “Mãi mãi tuổi Nhi đồng” như thế thật không hay! Nó vừa làm chúng ta mất thì giờ vừa cản trở, kìm hãm sự phát triển, thăng tiến của tôi và các anh, chị nó!... Chi bằng chúng ta học theo truyện cổ tích, cho nó hóa thành chim Đa Đa lại là tốt cho nó!”. Bà vợ ông Quan Gia đã hiểu ý ông chồng: đem thằng con Tiểu Ngũ ngô nghê kia vào rừng sâu để cho nó “hóa thành chim Đa Đa”! Tuy cũng thương con như bao người mẹ khác, nhưng bà vợ ông Quan Gia luôn coi lời ông chồng là “Chiếu chỉ” và phải thực hiện bằng mọi giá! Vì thế, ngày hôm sau, bà cho gọi hai cán bộ Kiểm Lâm tới nói: “Mấy giáo sư hàng đầu về Thần kinh học nói với tôi rằng muốn chữa bệnh “ngớ ngẩn” cho thằng Tiểu Ngũ nhà tôi thì phải cho nó vào rừng tắm trong thác nước lớn nhất một tuần liền! Vậy tôi nhờ hai anh ngày mai đưa nó vào tới thác nước rồi bảo nó chui vào trong thác mà tắm, là các anh xong việc! Sau một tuần, tôi sẽ cho người tới đón!”.
Hai người cán bộ Kiểm lâm nghe xong thì không hiểu “đầu cua tai nheo” thế nào, bèn về nhà hỏi vợ thì cả hai bà vợ đều nói: “Có thế mà không hiểu gì à? Thằng con ngớ ngẩn ấy sẽ bị bỏ đói ở trong rừng sâu và sẽ chết rồi hóa thành con chim Đa Đa! Anh quên cái chuyện Cổ tích Sự tích chim Đa Đa rồi sao?”. Hai anh chồng Kiểm Lâm chợt nhớ lại nội dung cái chuyện Cổ tích Sự tích chim Đa Đa thì vô cùng kinh ngạc và cùng nói với hai người vợ: “Tôi không thể làm như thế, nhưng không thể không chấp hành lệnh của Bà Chủ tịch Phu nhân! Hãy nói cho tôi cái cách vẹn toàn?”. Tức thì hai bà vợ cùng nói: “Cách vẹn toàn là “Quân lệnh như sơn”! Làm xong nhiệm vụ thì báo cáo lại rõ ràng, chính xác!”. Hai anh cán bộ Kiểm Lâm làm theo lời vợ, ngày hôm sau, đưa Tiểu Ngũ vào rừng, tới đúng chân thác nước dội xuống tung bọt trắng xóa thì bảo Tiểu Ngũ chui vào dòng thác mà tắm rồi chụp liền ba kiểu ảnh đem về báo cáo với Bà Quan Gia Phu nhân!...
Khi Tiểu Ngũ đứng giữa dòng thác thì dòng nước như là mạnh lên gấp bội và cuốn phăng cái anh chàng Ngù ngờ ấy đi theo dòng sông cuộn chảy ở ngay dưới chân thác!... Dòng nước đã cuốn cái anh chàng Tiểu Ngũ ngu ngơ kia tới đâu thì hai người cán bộ Kiểm Lâm không biết được bởi sau khi bấm vội ba kiểu ảnh Tiểu Ngũ đang đứng trong dòng nước lấp loáng, thì cả hai đã chạy thật nhanh khỏi khu vực thác nước!...
*
Thực ra Tiểu Ngũ bị  dòng nước cuốn đi băng băng như một khúc gỗ và bị quăng quật mỗi khi gặp phải chướng ngại vật nào đó. Thông thường, chỉ bị nước cuốn đi khoảng hai kilômét thì không ai còn có thể sống nổi. Tiểu Ngũ cũng sẽ như thế nếu không được một con sóng đánh dạt vào bờ sau khi đã trôi trong dòng nước sục sôi khoảng hai kilômét. Chỗ Tiểu Ngũ được dòng nước quăng lên bờ cát lại đúng chỗ mà người dân vùng này gọi là Bến Tiên: ngay bên bờ sông, bỗng có một chỗ lõm vào như một cái hồ nước xinh xinh, xung quanh hồ, xâm xấp bên mép nước là những tảng đá cuội to bằng tấm phản, trên mặt tảng đá nhẵn bóng, tương truyền do các Nàng Tiên đã thường xuyên đến ngồi tắm ở đó!
Lúc Tiểu Ngũ lạc vào Bến Tiên thì chỉ có một cô gái đang tắm ở đó! Cô gái là con của vợ chồng người đánh cá bên sông, tên gọi Sơn Nữ. Cô Sơn Nữ đã cứu sống anh chàng Tiểu Ngũ ra sao không ai biết nhưng khi cô Sơn Nữ đưa anh chàng Tiểu Ngũ về nhà giới thiệu với cha mẹ thì đó không còn là một anh chàng Tiểu Ngũ ngớ ngẩn nữa mà là một chàng thanh niên khôi ngôi tuấn tú, phong thái đĩnh đạc như văn nhân tài tử. Duy chỉ có điều là chàng thanh niên không còn nhớ mình là ai, từ đâu tới! Bố mẹ Sơn Nữ nói với cô: “Trí nhớ của anh ta đã bị xóa sạch khi bị quăng quật qua khúc sông lắm thác ghềnh đó! Song, thân thể anh ta còn nguyên vẹn thì quả là chuyện xưa nay hiếm! Quả là Ông Trời đã thương tình nhà ta neo người, cha mẹ đã già yếu và hiếm muộn nên ban cho người con trai này! Vậy con muốn gọi anh ta là Đại Ca hay là…” Bố mẹ Sơn Nữ chưa nói hết câu thì Sơn Nữ đã nói ngay: “Đó không phải là Đại Ca mà chàng chính là Phu quân của con! Bố mẹ chẳng phải là đã rất mong cho con có chồng hay sao?”. Thế là sau đó, chàng Tiểu Ngũ và cô Sơn Nữ làm lễ cưới, họ trở thành vợ chồng. Ngày ngày, Tiểu Ngũ ra sông đánh cá với cha vợ, khi chiều buông, họ lại trở về sống quây quần bên nhau trong ngôi nhà tranh dưới chân núi thanh bình!... Sẽ không có chuyện gì xảy ra nếu như người con trai lớn của ông Quan Gia là Công Nhất không trúng thầu dự án xây dựng Khu du lịch sinh thái, bao gồm toàn bộ vùng thượng lưu của con sông Kim Giang này - con sông mà anh chàng Tiểu Ngũ đang cùng bố vợ ngày ngày đánh cá kiếm sống!...
*
Một buổi sáng, khi cô Sơn Nữ đang thơ thẩn trong rừng để kiếm cây thuốc thì gặp một tốp người lạ, - đó chính là Đoàn khảo sát thực địa của Dự án Khu du lịch Sinh Thái Bồng Lai. Tốp người khảo sát thực địa đó gồm có hai anh em Công Nhất và Tiến Sĩ, lúc này Công Nhất là Giám đốc Khu Du lịch sinh thái Bồng Lai, còn Tiến Sĩ đang là Giám đốc một Công ty Du lịch và Khách sạn, hai anh em đang hùn vốn “làm ăn” ở vùng đất còn chưa in dấu chân người này. Cùng đi với hai anh em Công Nhất và Tiến Sĩ là ba người chuyên ngành đo đạc, bản đồ.
Vừa thoáng nhìn thấy bóng Sơn Nữ, Tiến Sĩ nói với Công Nhất: “Cứ bảo đây là vùng núi rừng hoang sơ, chưa in dấu chân người, sao em vừa nhìn thấy bóng hình mỹ nhân ẩn hiện đằng kia?”. Công Nhất ngạc nhiên nói: “Thì người của bên ngành Lâm nghiệp nói vậy mà! Không thể nào? Em có bị hoa mắt không đấy?”. Tiến Sĩ: “Mắt em rất tinh, nhất là nhìn người đẹp!”. Công Nhất: “Nếu vậy thì chỉ có thể là Tiên Nữ giáng trần hoặc Hồ Ly tinh giả dạng! Dù sao thì chúng ta cũng phải bắt cho bằng được!...Tất cả theo tôi!”. Công Nhất vừa dứt lời thì cả năm người lăm lăm súng ống trong tay, bám theo Công Nhất len lỏi trong rừng…
Lại nói về Sơn Nữ, khi thấy tốp người của Công Nhất và Tiến Sĩ ở trong rừng thì chạy nhanh về nhà. Lúc đó, cả bố mẹ Sơn Nữ và Tiểu Ngũ đều còn ở nhà, đang chuẩn bị đồ nghề để ông bố và Tiểu Ngũ đi đánh cá. Nghe Sơn Nữ nói có tốp người lạ xuất hiện trong rừng, ông bố Sơn Nữ nói: “Quả nhiên đêm qua bố nằm mộng thấy Thần Rừng nói sẽ có một bọn người tới phá khu rừng này!”. Tất cả đều giật mình hoảng sợ, nhìn nhau không biết nói gì! Một lúc sau, Sơn Nữ nói: “Vậy chúng ta phải làm gì bây giờ? Con nhất định không để cho bọn người xấu đó phá rừng!”. Ông bố trầm ngâm giây lát rồi nói: “Tất nhiên là không thể ngồi yên nhìn bọn chúng phá rừng. Nhưng trước hết phải biết đích xác xem bọn chúng định làm gì? Năm xưa, cũng có một Đoàn khảo sát của mấy người địa chất đến ngắm nghía, đo đạc này nọ nhưng rồi họ có trở lại nữa đâu? Cầu cho họ chỉ như những người địa chất kia!”. Sơn Nữ nói: “Không thể chỉ cầu như vậy được! Con phải đi xem họ là ai, định làm gì ở đây!”. Ông bố thở dài rồi nói: “Thôi được! Vậy thì hai vợ chồng con đi thám thính xem sao. Nhưng nhớ là không nên để cho họ nhìn thấy!”. Nói rồi Tiểu Ngũ và Sơn Nữ đi nhanh vào rừng, thoáng cái bóng hai người đã lẫn vào màu xanh của đại ngàn!
*
…Khi còn cách tốp người lạ khoảng hơn năm chục mét, Sơn Nữ và Tiểu Ngũ dừng lại, nấp sau một lùm cây quan sát tốp người lạ. Lúc đó đã gần trưa, khu rừng tràn ngập nắng. Tốp người chừng như đã thấm mệt mà vẫn không tìm thấy Sơn Nữ nên đã “hạ trại” nghỉ ngơi ăn uống…
Sơn Nữ và Tiểu Ngũ vẫn đang chăm chú nhìn tốp người đang ngồi trên một tấm vải bạt trải rộng, đang vừa ăn uống vừa nói cười ầm ĩ. Tất nhiên là với khoảng cách xa như thế, Sơn Nữ không thể nghe thấy họ đang nói chuyện gì. Nhưng khi thấy Tiểu Ngũ đang chăm chú nhìn tốp người kia và như là đang lắng nghe câu chuyện của họ, Sơn Nữ ngạc nhiên hỏi: “Tiểu Ngũ, anh nghe thấy họ đang nói chuyện với nhau à?”. Tiểu Ngũ nói: “Không nghe thấy, nhưng nhìn cử động của họ và nhất là nhìn môi họ mấp máy, tôi như “đọc” được những lời nói của họ!”. Sơn Nữ nghe nói vậy thì ngạc nhiên hết sức, hỏi dồn: “Vậy anh thấy họ đang nói gì, họ là ai, đang định làm gì, anh nói lại cho Sơn Nữ nghe, nhanh lên!”. Tiểu Ngũ thong thả nói: “Người mặc áo xanh, đeo kính đen (chính là Công Nhất) kia như là chỉ huy của nhóm người này. Ông ta vừa nói có lẽ không tìm thấy Mỹ Nhân đâu, ăn uống xong thì rút quân kẻo bị lạc trong rừng thì khốn! Còn người mặc áo đỏ, đeo kính trắng (chính là Tiến Sĩ) thì nói, phải tìm một lúc nữa, để mất dấu Mỹ Nhân thì tiếc quá! Ba người mặc quần áo đồng phục kiểm lâm thì chỉ lo ăn uống, không thấy nói gì!...”. Sơn Nữ nói: “Đúng là lúc nãy người đeo kính trắng kia đã thoáng nhìn thấy em! Thì ra họ đang đuổi theo dấu vết của em!...Họ đang nói gì nữa, anh nói lại đi!”. Tiểu Ngũ tiếp tục “thông dịch”: “Hai người áo xanh kính đen và áo đỏ kính trắng nói với nhau nhiều chuyện lắm, còn chuyện liên quan tới khu rừng này thì “tóm tắt” lại là: họ sẽ làm một con đường lớn tới Thác nước, bên cạnh thác nước sẽ xây một khu nhà nghỉ dưỡng và khách sạn, toàn bộ khu rừng này từ thác nước mở rộng ra tới mười kilômét đều thuộc Khu du lịch sinh thái do Công ty Bồng Lai quản lý!...”
Khi nghe Tiểu Ngũ nói đến chỗ toàn bộ khu rừng thuộc thượng nguồn con sông Kim Giang này sẽ nằm trong tay Công ty Bồng Lai, Sơn Nữ tưởng chừng như muốn ngất xỉu!...
*
Sơn Nữ và Tiểu Ngũ càng “nghe lén từ xa” câu chuyện của hai anh em Công Nhất và Tiến Sĩ, càng hết chịu nổi và họ đã chủ động xuất đầu lộ diện, hy vọng sẽ ngăn cản mọi ý đồ của Công ty Bồng Lai đối với khu rừng này. Song, khi Tiểu Ngũ gặp hai người anh của mình là Công Nhất và Tiến Sĩ thì sự việc lại xảy ra ngoài sự tưởng tượng của họ: cả Công Nhất và Tiến Sĩ đều mừng rú khi nhìn thấy cậu em út Tiểu Ngũ không những còn lành lặn nguyên vẹn mà dường như đỏ da thắm thịt hơn trước khi bị “lạc trong rừng” rất nhiều, ngay cả miếng ngọc bội đeo ở cổ Tiểu Ngũ có khắc hai chữ Tiểu Ngũ cũng còn nguyên. Tại sao họ lại vui mừng như vậy, bởi họ không hề biết “Kế hoạch Sự tích chim Đa Đa” của hai vợ chồng ông Quan Gia đối với Tiểu Ngũ!...
Khi Công Nhất, Tiến Sĩ, Tiểu Ngũ và Sơn Nữ về tới cổng nhà ông Quan Gia thì thấy trong sân rất đông khách. Hỏi ra mới biết, có một vị “Quan Khâm sai” từ Thủ đô đem quyết định bổ nhiệm chức vụ Chủ tịch Tỉnh tới cho ông Quan Gia, và có rất nhiều quan chức, Đại gia trong Tỉnh do “thính tai” và “nhạy bén chính sự” đã ngay lập tức tới chúc mừng!... Khi mấy anh em vừa bước tới khoảng giữa sân thì từ cửa ra vào căn nhà, cả hai vợ chồng ông Quan Gia đã nhìn thấy mấy anh em hớn hở đi vào. Nhưng, khi vừa nhìn thấy Tiểu Ngũ thì cả hai vợ chồng ông Quan Gia cùng giật mình kinh hoàng và nhìn nhau và cùng nói: “Thằng Tiểu Ngũ nó đã hóa thành chim Đa Đa rồi cơ mà?!” Không ai nghe thấy câu nói đó của vợ chồng ông Quan Gia, trừ Tiểu Ngũ!... Khi nghe thấy bố, mẹ mình nói như vậy, Tiểu Ngũ đã hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện và cậu dừng lại giữa sân, kéo Sơn Nữ lại gần và nói: “Anh phải trở về rừng để hóa thành con chim Đa Đa!... Anh không muốn làm bố, mẹ phải phiền lòng!”. Nói rồi, Tiểu Ngũ cầm tay Sơn Nữ đi nhanh ra khỏi cái sân đang đông nghẹt người với những lời chúc tụng ồn ào!...

Sài Gòn, 2005-2009
Đỗ Ngọc Thạch

< LùiTiếp theo >


http://lamtheo.com/articles_intro/files/29fdff89_fbdf459e5323ea13f3ba634d031dc1a9.jpeg

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Tiêu đề của danh mụcSố truy cập
1 Quanh hồ Gươm 123
2 Ngày thứ ba mươi mốt 138
3 Chuyện người bán thuốc 122
4 Vụ án đêm giao thừa 135
5 Làng tôi xanh bóng tre 85
6 Làng nói trạng 104
7 Ở trọ 71
8 Chờ 59
9 Mối tình đầu 128
10 Tình già 76
11 Ô Quan Chưởng 55
12 Ô chợ Dừa 54
13 Kén rể 102
14 Băng nhân 80
15 Kiếm tiền 63
16 Kiếm tiền tiêu Tết 57
17 Chuyện một nhà báo 68
18 Bà chủ quán và cô nhà báo tập sự 63
19 Chuyện tình đồi hoa sim (chương 6) 92
20 Chuyện tình đồi hoa sim (chương 5) 91
21 Chuyện tình đồi hoa sim (chương 4) 76
22 Chuyện tình đồi hoa sim (chương 3) 89
23 Chuyện tình đồi hoa sim (Chương 2) 76
24 Chuyện tình đồi hoa sim (tiểu thuyết mini) 74
25 Thân gái dặm trường (Chương 6 và hết) 104
26 Thân gái dặm trường (Chương 5) 102
27 Thân gái dặm trường (Chương 4) 89
28 Thân gái dặm trường (Chương 3) 65
29 Thân gái dặm trường (Chương 2) 77
30 Thân gái dặm trường (tiểu thuyết mini) 81
Trang 1 trong tổng số 3
http://lamtheo.com/articles_intro/files/29fdff89_fbdf459e5323ea13f3ba634d031dc1a9.jpeg

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Tiêu đề của danh mụcSố truy cập
31 Anh hùng thọ nạn 88
32 Người đưa thư 81
33 Ca trực đêm giao thừa 116
34 Trộm Long tráo phụng 71
35 Nữ võ sĩ huyền đai 57
36 Võ trạng nguyên truyện 67
37 Cô Tấm và quả thị 56
38 Đầu năm xuất hành: Về quê 74
39 Người đánh đàn Klong Put (Hay là Quà Tặng Tuổi 20) 77
40 Trạng Me đè trạng Ngọt 60
41 Siêu mẫu chân dài 79
42 Âm mưu và tình yêu 67
43 Qua sông bằng đò 105
44 Địa linh nhân kiệt 100
45 Thượng kinh ký sự (hay là ba lần tới thủ đô) 77
46 Vi hành 83
47 Tượng nhà mồ 84
48 Lột da mặt 209
49 Chuyện tình Sơn Nữ 86
50 Người con gái sông La 87
51 Thời gian 69
52 Chị em sinh ba 182
53 Ký ức binh nhì 119
54 Những Điều Bất Ngờ - Chùm truyện mini Đỗ Ngọc Thạch 144
55 Người cuối cùng của một dòng họ võ tướng 119
56 Tôi làm gia sư 167
57 Chuyện học hành 84
58 Mùng ba Tết thầy 143
59 Cô giáo mầm non 140
60 Bạn học lớp bốn 124
Trang 2 trong tổng số 3

http://lamtheo.com/articles_intro/files/29fdff89_fbdf459e5323ea13f3ba634d031dc1a9.jpeg

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Tiêu đề của danh mụcSố truy cập
61 Bạn học lớp bảy 81
62 Chuyện của nhà địa chất 90
63 Bạn học lớp ba 90
64 Bạn học lớp hai 84
65 Tướng sát phu 214
66 Cô gái Sơn Tây và anh lính binh nhì 174
67 Con gái viên đại úy 174
68 Huyền thoại Lý toét 136
69 Cô Dâu Gặp Nạn 130
70 Bác sĩ thú y 113
71 Bác sĩ đồng quê 117
72 Nhật ký của một cô giáo trường huyện 136
73 Nhật ký của một cô giáo trường làng 123
74 Sự tích chim đa đa 245
75 Lời thề thứ hai 164
76 Đứa bé tật nguyền và nàng tiên áo trắng 327
77 Mẹ Đốp 338
Trang 3 trong tổng số 3
nguồn: vannghechunhat.net
http://quehuongonline.vn/Uploads/LibraryImages/(187)a1.jpg

Tìm tag: truyện ngắn

Thứ Năm, 19 tháng 1, 2012

Ngày Thứ Ba Mươi Mốt ; Quanh Hồ Gươm - Đỗ Ngọc Thạch

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjh9Dhz25rKQqj9NK5QAu9rqkBHofYismEZ6OEJNXId2TWc5FQRuq9wKInrdvZwY_PPE3NZ-wk-05aWpSawOmsR1GL7cyrNR5KUWFI3ZDCttdzs63LJ_AnQeW8UK8U8LRSIdWSM55ESoJVs/s320/play+chess+in+Hoan+kiem+lake1.jpg

NGÀY  THỨ  BA  MƯƠI  MỐT  

Truyện ngắn ĐỖ NGỌC THẠCH

Ông Cư là cán bộ cấp Trưởng Phòng của một cơ quan nghiên cứu trung ương. Khi tôi được về làm nhân viên dưới quyền của ông Cư, ngày đầu tiên đi làm, tôi muốn mời cả Phòng, phòng chỉ có bốn người, đi ăn phở, làm một chén rượu, gọi là lễ “Nhập Phòng”. Nhưng ông Cư nói: “Cậu là “dân nghèo thành thị” mà sao lại thích chơi sang thế? Nếu cậu đã có lòng như thế thì ta qua quan nước trà bà Sinh bên kia đường, làm cái bánh rán hoặc thanh kẹo lạc, uống hai chén nước trà là vui rồi!”. Thế là chúng tôi qua quán nước trà bà Sinh, đối diện với cơ quan, ở bên kia đường.  
Chúng tôi tới sớm nên quán còn vắng khách. Tôi bê cả cái hũ bánh rán và cái hũ kẹo lạc ra đặt giữa cái bàn gỗ nhỏ, bốn người chúng tôi ngồi quanh. Ý của tôi là ai muốn ăn bao nhiêu tùy thích, hết cả hai hũ cũng được! Ông Cư thấy thế thì nói bà chủ quán đưa cho cái đĩa, lấy trong hũ bánh rán ra bốn cái bánh rán, lấy trong hũ kẹo lạc ra bốn thanh kẹo lạc, bảo tôi để hai cái hũ vào chỗ cũ, rồi thong thả nói: “Bài học đầu tiên tớ muốn nói với cậu là làm gì cũng phải có kế hoạch. Nghề nghiên cứu chúng ta là nghề chạy ma-ra-ton, kỵ nhất là bốc đồng, nông nổi. Ăn uống mà nhiều quá sẽ rất có hại cho dạ dày mà cơ bản là tốn kém! Vả lại, chúng ta ăn kẹo, uống trà ở đây là cốt tìm cái ngon chứ không phải lấy no! Cậu ăn hết cả hũ bánh rán và hũ kẹo lạc kia thì có còn biết ngon nữa không?”. Ông Cư có giọng nói trầm và ấm, khiến cho người nghe cứ như rót mật vào tai! Tôi cầm thanh kẹo lạc lên nhấm nháp và quả là mới thấy hết vị ngọt, bùi của nó, mà trước đây, khi ăn kẹo lạc tôi chỉ bị cảm giác giắt răng chi phối! Cũng vậy, nhấp từng ngụm nước trà Thái thơm ngất ngây, tôi thấy tỉnh cả người!
Khi về phòng làm việc được một lúc, khoảng mười phút thì ông Cư nói qua phòng ông nói chuyện. Ông ở và làm việc trong một căn phòng nhỏ, là dãy nhà làm thêm ở phần sân sau của ngôi biệt thự lớn là trụ sở của cả cơ quan nghiên cứu. Khi đã ngồi yên vị bên cái bàn gỗ lớn, là loại bàn làm việc, ông Cư mới thong thả nói: “Như tôi đã nói, và muốn nhắc lại để cậu không bao giờ quên, đó là công việc nghiên cứu là một cuộc chạy đường dài. Cho nên, không thể nôn nóng, ăn sổi ở thì. Nhất cử nhất động đều phải làm theo một kế hoạch dài hạn đã được định trước một cách khoa học. Nếu vi phạm nguyên tắc bất di bất dịch ấy thì thất bại nhãn tiền! Cậu thấy tôi nói có đúng không?”. Tôi nói ngay: “Em xin lĩnh giáo!”.Ông Cư mỉm cười thân thiện rồi nói tiếp: “Dù sao thì cậu cũng đã lăn lộn trường đời ít nhiều, có thể hiểu ngay những gì tôi muốn nói. Trước hết, công việc phải làm là tổ chức cuộc sống cho tốt rồi thứ mới đến chuyện đọc sách, nghiên cứu này nọ!”- “Tức là phải ăn no mới đánh thắng, có thực mới vực được đạo!” – “Đúng! Điều đó đúng ở mọi lúc, mọi nơi! Nhưng ở đây còn khó hơn cả chuyện nuôi quân!” – “?!” – “Vẫn là bởi công việc nghiên cứu của chúng ta là cuộc chạy ma-ra-ton! Một năm có 365 ngày, ta phải chạy bao nhiêu lần 365 ngày mới tới đích? Điều đó không thể biết trước! Vì thế, không thể ngưng nghỉ, không thể bỏ cuộc giữa chừng!... Bây giờ tớ nói cụ thể hơn, cậu dựa vào cái gì để sống hết 365 ngày? Lương! Đúng không? Vấn đề là ở chỗ đó. Lương của cậu xem chừng không thể “ăn no” cả 365 ngày! Vì thế phải làm sao để “có ăn” trong cả 365 ngày!” – “???” – “Tôi nói ngay kinh nghiệm này: Chia đều Lương ra 365 ngày và mỗi ngày chỉ chi tiêu trong con số đó!” – “!?” – “Sao? Khi chia ra từng ngày mới thấy con số quá nhỏ phải không? Nhưng không còn cách nào khác!”. Nói xong, ông Cư mở cái tủ gỗ, loại tủ văn phòng có hai cánh, một nửa để quần áo, một nửa để đồ linh tinh, lấy ra một cái phong bì lớn bằng giấy bao xi-măng, bên trong cái bao xi măng đó là 31 cái phong bì nhỏ như phong bì gửi thư thông thường, đánh số từ 1 đến 31, tức số ngày trong một tháng. Bên trong 31 cái phong bì là những đồng tiền lẻ, dùng để chi tiêu trong ngày đó. Thấy tôi chăm chú nhìn các phong bì, ông Cư nói: “Đúng ngày nào thì lấy số tiền trong cái phong bì đó ra và chỉ chi tiêu với số tiền đó. Chính nhờ cách này mà tôi đã không bị bỏ cuộc trong cuộc chạy ma-ra-ton gần mười năm qua!”.
*
Tháng đầu tiên chia đều lương ra 31 cái phong bì, tôi thực hiện được một tuần thì có khách đặc biệt: hai người bạn đồng nghiệp cùng dạy học hai năm trước ở thị xã Việt Trì về Hà Nội chơi và chỉ có một nơi đến duy nhất là chỗ tôi! Vốn là chiến hữu “trên từng cây số” suốt hai năm qua cho nên không kịp suy nghĩ gì, tôi lấy luôn chục cái phong bì của 10 ngày cuối tháng cho vào túi quần rồi dắt hai chiến hữu ra quán phở Thìn chiêu đãi: một đĩa cổ cánh, chân còng, sáu chén rượu và ba tô phở đặc biệt đã cuốn bay mười cái phong bì! Hai chiến hữu này cũng đang tìm cách xin chuyển về Hà Nội như tôi nên đến vừa là để thăm hỏi, vừa là để nhờ tôi “dắt mối” xin chuyển! Trong đầu tôi thoáng hiện lên mấy địa chỉ đang có nhu cầu cán bộ bèn nói: “Để tớ đi thăm dò trước rồi sẽ điện lên là về tiếp xúc ngay! Có lẽ cuối tháng sẽ tổ chức gặp mặt ngay cũng được!”. Hai chiến hữu vui mừng tột độ vì không ngờ sự việc lại có thể xúc tiến ngay và có hy vọng, có quyền xây mộng ước! Thực ra là trong đầu tôi đang bị rối trí vì không biết mười ngày cuối tháng sẽ lấy gì mà chi tiêu nên cứ nói bừa ra như thế, với dụng ý trong mười ngày ấy hai chiến hữu này sẽ hỗ trợ!
Tuy nhiên, sự “nói bừa” của tôi lại trúng hồng tâm đến nỗi không thể tin nổi: Sực nhớ là có quen biết sơ sơ ông Viện trưởng tôi đến Viện Xã hội học, cũng thuộc Ủy Ban KHXH như Viện Nghiên cứu của tôi, xin gặp Viện trưởng và nói rằng tôi muốn chuyển qua làm việc ở Viện Xã hội học. Viện trưởng ngạc nhiên hỏi: “Tại sao cậu mới về mà đã muốn chuyển?”. Tôi nói ngay: “Viện XHH là cơ quan mới thành lập, có nhiều việc mới rất hấp dẫn, mà tôi rất thích. Còn bên Viện của tôi, nhiều “Lão làng” quá và công việc thì rất tẻ nhạt!”. Viện trưởng nghe nói vậy thì vui vẻ nhận lời ngay và còn nhờ tôi giới thiệu thêm người bạn nào có năng lực khá giỏi trở lên. Ông cũng không giấu diếm mà nói rằng Viện ông đang ở thời kỳ tuyển mộ quân cho nên sẽ làm rất nhanh gọn! 
Tôi ra ngay Bưu điện gửi cho hai chiến hữu bức điện khẩn với nội dung như thế, như thế và hẹn sẽ tiếp xúc với ông Viện trưởng vào ngày đầu của mười ngày cuối tháng! Thật không thể ngờ là hai chiến hữu của tôi đã được nhận ngay, tất nhiên tôi không xin chuyển nữa mà nói để nhường chỗ cho hai người bạn. Và mọi việc tất tần tật từ lúc gặp gỡ cho đến lúc ra quyết định tiếp nhận chỉ có năm ngày! Tức là còn năm ngày cuối tháng nữa tôi đã sử dụng hết “kinh phí” mà chưa biết lấy ở đâu để bù vào? Cuối cùng tôi đành “tạm yên” với ý nghĩ nếu cần chi tiêu gì thì sẽ đi vay Trưởng phòng, mặc dù tôi đã nghe Trưởng phòng nói rằng ông chưa hề phải vay nợ ai và cũng không thích cho ai vay nợ! 
Một buổi tối, tôi đang thả bộ quanh Hồ Gươm, ngắm cảnh bâng quơ và nghĩ vu vơ thì chợt nhìn thấy Tòa soạn báo Hà Nội Mới đứng lù lù ngay trên đường Lê Thái Tổ. Tôi vụt nghĩ: sao không làm mấy bài thơ gửi đăng báo, biết đâu mèo mù vớ cá rán? Nghĩ vậy, tôi liền lấy ra một tờ giấy trong cái kẹp giấy để trong cái túi xách lúc nào cũng đem theo, ứng tác viết ngay hai bài thơ, một bài về đề tài đi cấy lúa xuân, một bài thơ cho thiếu nhi, về đề tài rừng núi! Viết xong, tôi cho vào thùng thư của Tòa báo và khấn Bồ Tát ra tay trợ giúp cho thơ tôi được đăng để có nhuận bút mà bù vào chỗ năm ngày cuối tháng đã trống trơn! 
Bốn ngày sau, tức vào đúng ngày thứ sáu cuối tháng, tôi tính vào phòng Trưởng phòng vay tiền đi ăn sáng thì thấy ông đang cầm tờ báo Hà Nội Mới. Vừa nhìn thấy tôi, Trưởng phòng tươi cười nói: “Thơ cậu viết cũng được đấy! Lấy nhuận bút thì nhớ “khao” nhé!”. Tôi nghe Trưởng phòng nói vậy thì quên ngay ý định tới vay tiền mà chạy vút đi tới Tòa báo Hà Nội Mới!...
*
Năm ngày cuối cùng rồi cũng trôi qua một cách vui vẻ nhờ nhuận bút của hai bài thơ. Tuy nhiên, sự may mắn rất hiếm khi lặp lại và càng ngày tôi càng thấm thía câu nói dân gian: không thể “Há miệng chờ sung”! Đó là sự cố xảy ra ở tháng thứ hai thực hiện biện pháp chia đều lương ra 31 cái phong bì! 
Lần này, khách đặc biệt của tôi không phải “chiến hữu” như lần trước mà là hai bố con một người dân ở xã Đức Thanh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh - nơi tôi đóng quân hồi chiến tranh chống Mỹ. Thời kỳ tôi đóng quân ở xã Đức Thanh, ông bố làm chủ tịch xã, còn cô con gái tên là Việt, mới bảy, tám tuổi, lúc đó là năm 1969, nay đã qua mười năm, cô gái được gọi vào trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, ông bố đưa tiễn con ra tận Hà Nội. Khi hai bố con đang đi dạo quanh Hồ Gươm thì bất ngờ gặp tôi, cũng đang thơ thẩn quanh Bờ Hồ. Chính O Việt là người đã nhận ra tôi vì quả thực tôi không thể nhận ra những nét của cô bé bảy, tám tuổi mà tôi biết cách đây chục năm ở chỗ nào trong cô gái mười tám đôi mươi đang tràn trề sức sống và cực kỳ xinh đẹp! Theo phản xạ tự nhiên, tôi mời hai bố con O Việt vào quán phở Thìn, vì lúc gặp hai bố con là chúng tôi đang đứng dưới tháp bút “Tả thanh thiên”. Tôi thật không ngờ hai bố con O Việt lại ăn khỏe như thế, mỗi người hai tô phở mà vẫn có vẻ như còn muốn ăn nữa vì cứ luôn mồm khen phở ở đây ngon, mặc dù tôi đã giới thiệu quán phở Thìn này là ngon nhất Hà Nội! Ăn phở xong, tôi lại dắt hai bố con O Việt vào nhà hàng Thủy Tạ giới thiệu món kem cốc đặc sản ở đây. Tôi lại một phen kinh ngạc khi hai bố con ăn xong mỗi người hai cốc kem mà vẫn như là còn thòm thèm!...
Chia tay hai bố con O Việt, tôi mới giật mình kiểm lại mớ tiền lương mới lĩnh (mà chưa kịp cho vào 31 cái phong bì) thì thấy thiếu đúng mười cái phong bì! Đành để mười cái phong bì mười ngày cuối tháng vào trong một tờ giấy gấp đôi rồi viết bên ngoài ba chữ cái S.O.S! Mấy ngày sau, O Việt có tới chỗ tôi chơi (trường ĐH Y Dược ở gần chỗ cơ quan tôi) và còn đưa tôi đọc một tập thơ gồm 50 bài viết trong một cuốn vở học trò. Tôi liếc qua rồi nói: “O photocopy thêm hai bản rồi đem qua chỗ báo Phụ Nữ VN và Nhà xuất bản Phụ nữ ở phố Hàng Chuối, cũng gần trường ĐH Y Dược. Cứ yên tâm ngồi chờ một tuần sẽ có kết quả!”. Thực ra tôi cũng không dám chắc kết quả sẽ thế nào mà chỉ vì sợ không có khoản “tình phí” cho cái quan hệ “phức tạp và tế nhị” này nên đẩy khéo đi như vậy. Song thật bất ngờ, đúng một tuần sau, tôi thấy trên báo Phụ Nữ VN có đăng bài thơ của O Việt! Tôi thầm chúc mừng cho O Việt! Vừa vặn O Việt và hai cô bạn cùng lớp đến mời tôi đi chiêu đãi kem Thủy Tạ! “Linh cảm” thấy có “chuyện chẳng lành” tôi
từ chối nhưng không được, đành miễn cưỡng mà đi! Quả nhiên, bữa “tiệc kem” đã vượt quá số tiền nhuận bút của bài thơ và tôi phải bù vào một số tiền bằng hai cái phong bì! Vậy là tháng thứ hai thực hiện kế hoạch 31 phong bì của tôi đã tiếp tục bị vỡ kế hoạch những 12 ngày, tức 12 cái phong bì!
Cuối cùng thì 12 ngày cuối tháng cũng tới, mà là tháng có 31 ngày (một năm có 7 tháng 31 ngày, tức có bảy tháng phải chi tiêu dè sẻn). Tôi dự tính sẽ cắt hết các khoản ăn sáng, uống trà và thuốc lá! Song, tới ngày thứ ba thì như là không thể chịu nổi! Tôi đang tính sang vay tiền Trưởng phòng thì cánh cửa phòng làm việc của tôi bật mở, Trưởng phòng thò mặt vào nhìn tôi mỉm cười, nháy mắt – đó là ám hiệu đi chiêu đãi ở quán trà bà Sinh! Trưởng phòng rất vui, nói ngay: “Tớ vừa được ứng trước nhuận bút của cuốn sách!...Mà tại sao hai hôm rồi không thấy cậu sang quán nước bà Sinh?”. Tôi đang nghĩ câu nói dối thì Trưởng phòng cười nói: “Lại bị vỡ kế hoạch kinh phí chứ gì? Thôi được, lần này tớ cho vay nhưng nhớ là không có lần sau nhé!”. Cầm số tiền của 10 cái phong bì, tôi thầm nghĩ phải thật nhanh chóng kiếm tiền trả nợ! Kiếm tiền bằng cách nào? Đó là câu hỏi thật khó trả lời đối với tôi lúc đó! Nghĩ mãi cũng chỉ có mỗi một cách duy nhất: viết bài đăng báo! (Lúc đó tôi chưa nghĩ ra việc đánh máy bản thảo thuê có thể kiếm được tiền!). Vừa vặn có cô bạn cùng Phòng dẫn tôi đi qua báo Văn Nghệ gặp chị Thiếu Mai, qua Tạp chí Văn nghệ Quân đội gặp anh Hồng Diệu, đều đang “canh cửa” phần Lý luận, Phê bình. Quả là những “miếng xương” khó nhai nhưng còn hơn là ngồi “há miệng chờ sung”, nên tôi lao vào viết như…điên! Và ông Trời quả là không triệt đường sống của người tốt, tôi đã kiếm được số tiền trị giá 10 cái phong bì, đủ trả nợ Trưởng phòng! 
*
Những lúc cần tìm sự thanh thản, tôi thường đi dạo quanh Hồ Gươm. Hôm ấy là ngày thứ 31, tôi đi dạo quanh Hồ Gươm sau khi đã trút được gánh nặng là món nợ trị giá 10 cái phong bì! Khi tôi đi tới mấy dãy ghế đá gần Câu Lạc Bộ Thống Nhất thì thấy có hai ông già đang ngồi chơi cờ tướng, bàn cờ được để trên đoạn giữa chiếc ghế đá, hai người ngồi hai đầu. Thấy tôi đi tới và dừng lại ngó vào bàn cờ, một ông già ngẩng lên, nhìn tôi nói: “Cậu có thích chơi thì xin mời!”. Tôi nói ngay: “Được! Nhưng chơi thế nào? Chơi suông hay ăn gì?”. Ông già cười tinh quái, nói: “Tất nhiên là không bao giờ chơi suông! Nhưng cũng nhẹ nhàng thôi, mỗi ván một bát phở Thìn!”. “Tất nhiên rồi!” – tôi nói rồi ngồi xuống chỗ một ông già vừa đứng lên. Tôi nhường ông già đi trước, gọi là kính lão đắc thọ. Ông già lên tượng, thụt pháo có ý muốn phòng thủ. Tôi xin phép được “xuất chiêu” và đi nước “pháo đầu mã đội”, tấn công tổng lực cả xe, pháo, mã ở cánh phải, cánh trái thì phòng thủ. Đây là lối đánh tôi mới học được trong một cuốn sách chơi cờ của Trung Quốc cho nên dường như là mới lạ đối với hai ông già. Kết quả là tôi nhanh chóng hạ thủ cả hai ông già. Lúc tôi nói đi qua quán phở Thìn và chỉ cần ăn một bát thôi thì một ông già chắp tay lạy tôi mà nói: “Xin cậu tha cho chúng tôi! Thực tình chúng tôi không có tiền! Tưởng rằng cậu cũng ú ớ như người ta, ai ngờ cậu cao cờ như Đế Thiên Đế Thích!...”. Tôi thuộc loại người dễ mềm lòng nên tha cho ngay khi nghe ông già nói rằng, các ông là loại “anh hùng sa cơ, thất thế”, giờ phải sống dựa vào con cháu. Hai ông đều có hai đứa con, và hai đứa con chia nhau nuôi bố mỗi người một ngày, thằng anh vào ngày chẵn, thằng em vào ngày lẻ. Cho nên vào tháng 30 ngày thì không sao, nhưng vào tháng 31 ngày thì không thằng nào chịu nuôi, cho nên phải ra đây kiếm ăn bằng cách chơi cờ này. May mà toàn gặp người chơi cờ kém nên có ăn lai rai!
*
Một năm có bảy tháng có 31 ngày, tức vào các tháng 1, 3, 5, 7, 8, 10 và 12. Khi tôi gặp hai ông già chơi cờ là vào ngày 31 của tháng 3. Sang tháng 5,  ngày 31, tôi lại tới cái ghế đá cũ, bên bờ Hồ Gươm, cạnh Câu Lạc Bộ Thống Nhất thì vẫn thấy hai ông già đang ngồi…chờ vận may! Thấy tôi, cả hai ông già cùng nói: “Chúng tôi biết cậu là người tốt, vậy cậu đã có lòng thương thì thương cho chót, cậu ở lại đây “yểm trợ” cho chúng tôi chắc ăn, chúng tôi không bao giờ quên ơn cậu!”. Tôi định nói với hai ông già một câu gì đó mà nghĩ mãi không ra!...Một ông già thấy tôi có ý lưỡng lự thì liền đọc một câu thơ của Nữ sĩ Hồ Xuân Hương:Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa / Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên!
Làm sao mà có  thể từ chối lời đề nghị của hai ông già tội nghiệp này được! Tôi nghĩ vậy rồi ngồi xuống xếp mấy nước cờ thế và nói: “Chỉ lần này thôi đấy!”.
*
Tôi thực hiện kế hoạch chia tháng lương ra 31 cái phong bì được đúng một năm, tức 12 tháng. Tổng kết lại chỉ có một tháng không bị vỡ kế hoạch, đó là tháng có ngày Tết. Tự thấy không thể thực hiện được cái công việc còn khó hơn cả Ngu Công dời núi, Nữ Oa vá Trời, tôi đem 31 cái phong bì thả xuống Hồ Gươm hy vọng nhờ Thần Kim Quy giữ giùm và nếu có thương tình thì cho vào các phong bì thật nhiều…tiền! Làm xong cái việc “Phong bì ơi, chào nhé!”, tôi đến tờ Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật để lấy nhuận bút thì ông Tổng Biên tập nói: “Cậu có thích sang bên này làm biên tập phần Lý luận không?”. Tất nhiên là tôi đồng ý ngay và chỉ sau một tuần, tôi đã chuyển cơ quan. Đến cơ quan mới, thu nhập của tôi tăng lên rõ rệt nhờ nhuận bút, mặc  dù chế độ nhuận bút rất “còm cõi”! Song, năng nhặt chặt bị, tích tiểu thành đại là nguyên tắc hành động của tôi và nguyên tắc này lúc nào cũng đúng!
Trở thành nhà báo có vẻ như “thông thoáng” hơn nhà nghiên cứu. Tôi quan sát thấy các nhà báo bên khu vực kinh tế, xã hội có vẻ “ấm bụng” hơn cánh nhà báo chuyên về văn nghệ. Tôi có quen mấy nhà báo chuyên về kinh tế, thỉnh thoảng họ rủ tôi đi “dã ngoại” và quả là “…hết gạo chạy rông / Nhất nông nhì sĩ!”. Một lần, một “nhà báo kinh tế” nói với tôi: “Hôm nay là ngày cuối tháng, mấy đại gia thường ăn nhậu xả láng. Đi với tớ cho biết “mùi ăn chơi”!”. Chúng tôi đến một cuộc ăn nhậu của năm đại gia, được giới kinh doanh gọi là Ngũ hổ Tướng quân. Trong năm đại gia đó, tôi thấy có hai khuôn mặt nhìn quen quen, chắc là gặp ở đâu rồi mà nghĩ mãi không ra? Ngẫu nhiên thò tay vào túi quần, tôi thấy có một con cờ tướng. Tôi vụt nhớ tới hai ông già chơi cờ tướng “ăn phở” ở Bờ Hồ và khẳng định hai đại gia kia nhất định là con trai của hai ông già kia! Nghĩ vậy tôi liền hỏi một đại gia: “Cụ thân sinh ra Giám đốc hẳn là một nhà kinh doanh lớn?”. Đại gia kia uống cạn ly bia rồi nói: “Không nhất thiết cứ cha nào con nấy! Ông bố tôi không hề biết kinh doanh là gì, ông ấy là nhà giáo đã nghỉ hưu từ lâu!”. Tôi liền hỏi tiếp: “Tôi muốn gặp ông cụ được không? Tôi đang muốn viết bài về các nhà giáo về hưu!”. Vị đại gia lại uống cạn ly bia nữa rồi nói: “Hôm nay là ngày 31, chắc ông cụ đi thi đấu cờ tướng ở Bờ Hồ rồi! Anh muốn gặp cứ tới đó là thấy ngay!”. Tôi lại gần vị đại gia thứ hai, cụng ly xong và cũng hỏi như với đại gia trước thì cũng nhận được câu trả lời tương tự!...
Xong cuộc nhậu, tôi chạy ngay ra chỗ Bờ Hồ ấy thì từ xa đã thấy hai ông già đang ngồi bên bàn cờ, tưởng là họ đang chơi cờ nhưng lại gần thì cả hai ông già đều đang ngủ gà ngủ gật! 
Sài Gòn, tháng 4-2010
Đỗ Ngọc Thạch
http://img.vncdn.net/maci/ho_guom_dau_an_van_hoa_va_kien_truc_cua_thu_do_ha_noi--33724/84_72.jpg?w=160

QUANH HỒ GƯƠM

Truyện ngắn ĐỖ NGỌC THẠCH

1.
“Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện Vua Lê…” , biết là như thế, vậy mà khi đi dạo quanh Hồ Gươm, thấy có ai đang nói chuyện với nhau, tôi cũng đi sát họ và dỏng tai nghe xem họ có bàn chuyện Vua Lê hay không? Đó là thói quen thứ nhất và không hề mất đi của tôi.
Thói quen thứ hai là đã đến Hồ Gươm thì động tác đầu tiên là ngó nhìn xuống mặt hồ xem Rùa có nổi lên hay không? Nếu có thì reo lên rồi chỉ chỏ kêu người đứng gần tới xem, còn nếu không có thì chốc chốc lại ngó xuống mặt hồ tìm kiếm. Thói quen này cũng không hề mất đi.
Thói quen thứ ba là đã đến Hồ Gươm thì thế nào cũng phải ăn kem Bờ Hồ, bất kể mùa hè hay mùa Đông. Cụm từ “Kem Bờ Hồ” để nói về hai vị trí: Kem que bán ở cái Ki-ốt nằm trên bãi đất trống ở góc có hai đường cắt nhau là đường Lý Thái Tổ và đường Tràng Tiền và Kem Cốc (Ly) bán ở trong Nhà Thủy Tạ. Tôi xin đưa ra nhận xét về Kem Bờ Hồ rằng: Tính từ năm 1954 (năm tôi về sống ở Hà Nội) trở lại đây, chất lượng ngày càng kém đi. Mỗi lần từ phương xa trở về Hà Nội, tôi đều đến Bờ Hồ ăn Kem và đều phải nuối tiếc cái cảm giác tuyệt vời khi “ăn Mùa Đông” đã bị mất dần độ khoái cảm!...

Lúc còn nhỏ, việc đi chơi Hồ Gươm là một việc quan trọng, phải được bố trí, sắp xếp trước bởi nhà tôi ở khá xa Hồ Gươm, và lúc đó, đi dạo công viên hoặc đi dạo Hồ Gươm là hình thức giải trí “Cao cấp” của tầng lớp “Quý tộc” hoặc giới ăn trắng mặc trơn nhàn hạ. Tuy nhiên, ngày Chủ Nhật, ngày Lễ, Tết thế nào anh chị em chúng tôi cũng làm một chuyến đi chơi Bờ Hồ. Đối với trẻ con lúc ấy (cuối những năm 1950), Bờ Hồ còn có món đặc sản rất hấp dẫn nữa là “Thịt Bò khô”, bán trên cái tủ cơ động của mấy người Việt gốc Hoa, thường tụ tập ở gần bến Xe Điện Bờ Hồ…

Không hiểu tôi có cơ duyên gì với Hồ Gươm mà có tới ba lần sống gần Hồ Gươm và Hồ Gươm trở thành một phần quan trọng trong Ký ức của tôi về Hà Nội…

Lần thứ nhất là vào tháng 8 năm 1966, tôi có giấy gọi vào Khoa Toán trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, (lúc đó đã sơ tán về tận huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) nhưng vì bố tôi muốn tôi vào Trường Đại học Y Dược Hà Nội, tôi lại không nghe theo nên ông đã giận mà xé giấy gọi của tôi đi, đồng thời không cấp “Lộ phí” cho tôi đi Thái Nguyên! Không còn cách nào khác, tôi phải đi làm thuê kiếm tiền và rất may cho tôi, sau khi làm một giấc ngủ ngon lành trên băng ghế đá ở góc Bờ Hồ , đối diện nhà hàng Phú Gia ở bên kia đường Lý Thái Tổ, tôi tính vào nhà hàng này làm một bữa no cho biết mùi “Nhà giàu” (Phú Gia) thì thấy một bà già đi bộ bị một người đi xe mô-by-lét (xe máy tay ga loại nhẹ khá phổ biến ở Hà Nội lúc đó) quệt phải người, ngã lăn quay giữa đường, tôi liền đỡ bà cụ dậy và đi về phía nhà hàng Phú Gia. Vừa tới trước cửa nhà hàng Phú Gia thì có một người đàn ông trung niên đi từ trong nhà hàng ra, nhìn thấy tôi dìu bà cụ tới thì giật mình ào tới, hỏi han rối rít…Thì ra ông ta là đầu bếp trong nhà hàng Phú Gia, sau khi biết rõ tình cảnh và nguyện vọng của tôi, đã cho tôi vào làm phụ bếp và tôi cũng xin được ngủ đêm tại Nhà hàng.
Lần thứ hai là khi tôi còn đang học tại Khoa Toán ĐHTH (lần thứ hai, sau khi đi lính về), tôi thường về nhà người bạn ăn ngủ, ở ngay đầu phố Cầu Gỗ, đối diện bến xe Điện Bờ Hồ.
Lần thứ ba là khi tôi làm việc (và ăn ngủ tại phòng làm việc) tại Viện Văn học, ở phố Lê Thái Tổ, không sát Hồ Gươm nhưng cũng chỉ bước vài bước qua phố Hàng Dầu là tới Hồ Gươm.
Truyện ngắn Quanh Hồ Gươm này chủ yếu nói về ba lần sống bên Hồ Gươm đó!...
2.
Từ lúc được sinh ra đời, tôi chưa bao giờ nghĩ đến cái Chết (mặc dù đã phải đối mặt với không ít hiểm nguy), cho nên tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy có người tự tìm đến cái Chết (tự tử) và không hiểu tại sao họ lại muốn chết? Một buổi chiều bình lặng, khoảng bốn, năm giờ, tôi vừa đi dạo một vòng quanh Hồ Gươm, tính vào cầu Thê Húc ngắm cảnh hoàng hôn quanh hồ, vừa đặt chân lên cầu thì thấy ở giữa cầu, có một người vừa nhảy xuống hồ. Tôi chạy lại, ngó xuống thì thấy đó là một người đàn bà, đầu còn ló trên mặt nước, hai tay đập nước loạn xạ! Tôi liền nhảy xuống, tóm tóc người đàn bà lôi vào bờ!...Thì ra chị ta chính là phục vụ bàn của nhà hàng Phú Gia, nơi tôi đang làm phụ bếp! Khi nhận ra tôi, chị ta nói: “Chú cứu tôi làm gì! Tôi đã bị lừa, bị cướp đi cái quý giá nhất của người con gái, còn sống làm gì nữa?” Tôi bảo: “Chị bị lây bệnh thất tình của các tiểu thư đài các trong tiểu thuyết ái tình rồi! Không có cái gì quý giá bằng sinh mạng! Chị hãy quên “chuyện lừa đảo” ấy đi, nó cũng chỉ như người ta bị mất trộm mà thôi! Nếu có bản lĩnh thì nghĩ cách báo thù, cho kẻ Sở Khanh kia một bài học là xong! Đó là cách nghĩ của người lao động chúng ta!”. Chị ta suy nghĩ một lúc thì thở dài rồi nói: “Cậu còn trẻ tuổi mà sao nghĩ sự đời rành mạch quá, tôi sẽ nghe theo cậu! Nhưng tôi phải nhờ cậu bày cho một mưu kế để trả thù thằng cha Sở Khanh kia, hắn thường đến ăn ở nhà hàng Phú Gia đó!”…Tôi liền bày cho chị ta một mẹo nhỏ trong “Tam thập lục kế”. Ba ngày sau, chị phục vụ bàn gặp tôi nói: “Mẹo của anh hay quá, nhưng liều thuốc mê tôi cho vào ly rượu của hắn lại lấy nhầm gói thuốc độc, nên hắn đã chết luôn rồi! Bây giờ phải làm sao?” Tôi nói ngay: “Thì kéo hắn ra khỏi cái buồng Thuyền trưởng rồi thả xuống sông nhờ Long Vương phán xử!” (gã Sở Khanh Kia là Thuyền trưởng một con tàu vận tải đường sông). Thời gian cứ bình thản trôi đi mà không thấy chị phục vụ bàn nói gì, chắc không ai điều tra về cái chết của gã Thuyền trưởng vì điều tra làm sao khi trong phòng Thuyền trưởng của gã có rất nhiều dấu vết và hiện vật của rất nhiều cô gái khác nhau và điều đặc biệt là người ta còn tìm thấy trong một cái thùng giấy các-tông có tới ba chục bộ đồ lót của ba chục cô gái khác nhau!...Thì ra gã Thuyền trưởng là một “Yêu râu Xanh” đã làm hại đời biết bao cô gái dại dột! Lão ta chết cũng đáng đời!...

Một tuần sau nữa, chị phục vụ bàn cưới chồng, chồng là cửa hàng trưởng một cửa hàng ăn uống khác, thường qua lại Phú Gia. Sau khi giới thiệu tôi là ân nhân cứu mạng trong vụ nhảy cầu Thê Húc, người chồng liền đưa tôi một món tiền lớn gọi là ủng hộ “Sinh viên nghèo” làm lộ phí lên Đại Từ, Thái Nguyên nhập học!...”. Tôi cảm tạ vô cùng vì tính ra cho đến lúc đó, tôi làm phụ bếp ở nhà hàng Phú Gia đã gần một tháng mà vẫn chưa để dành được đồng nào vì cứ mỗi tuần lĩnh tiền xong, tôi lại vào Nhà Sách Tràng Tiền và mê mẩn thế nào mà mua sách hết số tiền công mới được nhận!...
3.
Trong thời gian ở nhà anh bạn ở phố Cầu Gỗ (gọi là phố Cầu Gỗ nhưng tôi chẳng thấy có cái cầu bằng gỗ nào?), tôi cũng thường xuyên đi dạo quanh Hồ Gươm và cũng thường lên cầu Thê Húc bởi mỗi khi tới cầu Thê Húc là lại nhớ đến vụ nhảy cầu năm xưa của chị phục vụ bàn nhà hàng Phú Gia. Hôm ấy, tôi vừa đặt chân lên cầu Thê Húc thì hệt như cái hồi năm 1966, tôi vụt thấy ở giữa cầu có người vừa nhảy xuống hồ! Tôi lại nhảy xuống và tóm tóc nạn nhân lôi vào bờ. Và tôi thật sự kinh ngạc khi nạn nhân lại chính là người phụ nữ đã nhảy cầu năm năm trước, tức chính là chị phục vụ bàn nhà hàng Phú Gia ngày xưa!... Chị ta cũng kinh ngạc khi nhận ra tôi rồi òa khóc, hồi lâu mới nói: “Chồng tôi bây giờ nó có nhân tình trẻ đẹp, nó không còn ngó ngàng gì đến vợ con nữa! Vậy thì tôi sống mà làm gì? Mà tại sao lại là anh? Anh cứu tôi mà làm gì?” Tôi nói: “Sao chị cũng không đi kiếm nhân tình giống như ông ấy? Chị không thể chịu thua ông ấy được, chị không biết câu “Ông ăn chả bà ăn nem” sao? Việc gì mà lại dại dột đi tìm cái chết?” Chị ta nghe nói vậy thì như là bừng tỉnh sau cơn mê ngủ, sau đó sửa sang lại nhan sắc, để trái tim hòa cùng nhịp sống! Chẳng mấy chốc ong bướm lượn lờ quanh mình, chỉ quờ tay ra là bắt được nhân tình, nhân ngãi! Từ đó mải mê với những cuộc tình gió trăng, chị ta quên luôn chuyện người chồng phụ bạc!...

Người bạn tôi ở Cầu Gỗ cũng đi lính với tôi một đợt năm 1966, học ở Khoa Lý, lại trúng tuyển vào Không quân, được sang Liên Xô học lái máy bay nhưng sau đó do sức khỏe có vấn đề nên lại trở về trường cùng một đợt với tôi, lại học ở khoa Lý. Người bạn này rất quan tâm đến cuộc sống của bạn bè và thường khuyên tôi nên cưới vợ cho ổn định cuộc sống. Một hôm, anh dẫn tôi đến nhà một người quen, trên đường đi, anh nói: “Tôi có người bà con họ hàng xa, đã một đời chồng, hiện sống với cô con gái bốn tuổi, nhà cửa đàng hoàng, làm việc ở một cửa hàng ăn uống, không lo đói! Tôi đã nói chuyện về ông với chị ta, cơ bản là xong rồi, chỉ còn ở phần của ông nữa mà thôi!”. Nhưng khi chúng tôi tới nhà người họ hàng của anh bạn thì người ở trong nhà là chủ nhà mới, người này nói chị chủ nhà cũ (tức người bà con với anh bạn tôi) đã bán nhà cho anh ta được ba ngày nay và hình như đã vào Sài Gòn rồi! Anh bạn tôi nghe nói vậy thì lẩm bẩm: “Đúng là cuộc sống luôn vận động nhanh và mạnh hơn ta nghĩ!” Còn tôi thì sực nhớ ra rằng cách đây một tháng, tôi đã đưa chị phục vụ bàn ở chân cầu Thê Húc về chính ngôi nhà này. Thì ra người bà con họ hàng xa mà anh bạn tôi định giới thiệu cho tôi lại chính là người đã hai lần nhảy cầu Thê Húc để tìm cái chết! Lần này chị ta đi vào phương Nam xa xôi ngập nắng, chắc sẽ là điều tốt bởi từ lâu chị ta thường hay nói câu: “Tôi muốn đi thật xa, đến một nơi nào đó không biết tôi là ai, tôi sẽ làm lại từ đầu!”. Tôi thường nghe câu nói này ở khá nhiều người và tôi luôn nghĩ, sao người ta không “làm lại từ đầu” ở ngay nơi đã sống, đã quen thuộc?
4.
Tám năm sau, tôi về làm việc ở Viện Văn học, ăn ngủ ngay trong phòng làm việc ở 20 Lê Thái Tổ, coi như cũng là ở cạnh Hồ Gươm. Ngày nào tôi cũng đi dạo quanh Hồ Gươm ít nhất là ba lần: sáng chạy bộ quanh Hồ Gươm hai vòng, trưa đi tới Thư viện Quốc Gia ở phố Tràng Tiền cũng phải qua Hồ Gươm và khoảng Mười giờ đêm thường đi dạo quanh Hồ Gươm vì đọc sách và viết bài gì đó xong thì… đói!

Có lẽ thời gian từ nửa đêm về sáng ở quanh Bờ Hồ là có nhiều chuyện nhất với đủ các sắc thái tình cảm khác nhau. Ở đây, tôi chỉ rút ra hai, ba chuyện có liên quan tới đề tài của Truyện ngắn này!
Một hôm, như mọi ngày, tôi vừa viết xong một bài tiểu luận bắt buộc thì đã mười một giờ đêm. Bụng đói cồn cào, tôi liền tới Phở Thìn tự thưởng cho mình một tô đặc biệt. Ăn được nửa tô thì có một người thiếu phụ khoảng hơn năm chục tuổi bước vào, ngồi xuống bàn cạnh bàn tôi. Bà ta lặng lẽ ăn phở, bình tĩnh, thong thả … Khi ăn xong tô phở, tôi nhìn lại người thiếu phụ và bỗng nhận ra bà ta chính là người đã hai lần nhảy từ cầu Thê Húc xuống Hồ mà tôi đã nói trên. Tôi định hỏi chuyện bà ta nhưng lại nghĩ, “Trời đánh còn tránh miếng ăn”, người ta đang ăn không nên làm phiền và lỡ ra nhận lầm người thì sao? Tôi liền ra khỏi quán phở và đi về phía cầu Thê Húc. Không có ai trên cầu. Tôi đi vào cầu và khi tới giữ cầu thì ngồi xuống, dựa lưng vào thành cầu. Gió nhẹ thổi, không khí mát lạnh khiến cho tôi có cảm giác buồn ngủ và cái ngủ ập tới từ lúc nào!...
Tôi đang mơ màng với những ý nghĩ và hình ảnh lộn xộn thì nghe có tiếng nói rì rầm: “Có ai đang ngồi trên cầu thế này? Đúng chỗ của chúng ta!”, “Đệ tử Cái Bang chứ còn ai nữa! Mặc kệ người ta! Chúng ta tiến hành đi!”, “Nào, ba chúng ta cầm chặt tay nhau. Đào nói trước đi!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Đào, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, vì thi trượt Đại học mà bị bố mắng nhiếc thậm tệ rồi đuổi khỏi nhà! Em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Cúc, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, bị bạn trai bỏ rơi rồi lại bị thầy giáo Chủ nhiệm cưỡng bức, có thai đã ba tháng! Em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Lan, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, em không thể học được vì khó quá, mà bố mẹ cứ bắt em học. Em bỏ nhà đi hoang nhưng đi hoang thì đói và rét, lại không có chỗ ngủ. Vậy em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”. Tôi nghe các cô bé nói khá rõ nhưng muốn mở mắt ra nhìn mà không được, muốn đứng dậy mà đôi chân như không phải của mình! Tôi thoáng nghĩ, đây hẳn là một vụ tự tử tập thể, vậy phải ngăn lại ngay! Tôi định la to “Dừng lại!” nhưng mồm lưỡi cũng như là không điều khiển được! Rồi có tiếng “ùm” rất lớn và nước từ dưới hồ văng lên người tôi như một cơn mưa bóng mây! Vừa ngớt “cơn mưa bóng mây”, mắt tôi mở ra được và nhìn rõ mọi vật xung quanh thì thấy người thiếu phụ ở quán Phở Thìn ban nãy xuất hiện và nói: “Chào cậu! Cậu bị “Đóng băng” rồi, chỉ nghe chứ không cử động gì được! Từ trong quán Phở Thìn, tôi đã nhận ra cậu, những tưởng cậu sẽ lại ngăn cản tôi xuống Thủy Cung, nhưng lần này thì cậu bị “Đóng băng”, chẳng thể làm gì được đâu! Cậu muốn biết tại sao tôi lại muốn chết chứ gì? Bởi vì thằng “Bồ” của tôi nó thật táng tận lương tâm, sau khi “no xôi chán chè”, nó bán cả hai mẹ con tôi cho một “ổ Nhện” ở tận bên Campuchia! Nói sao hết nỗi tủi nhục ê chề, con gái tôi đã mất tích! Tôi không thể bỏ xác nơi đất khách quê người được, tôi phải trở về lòng Hồ Gươm, nơi có người mẹ trẻ của tôi đã an nghỉ từ thế kỷ trước!” Tôi thoáng nghĩ, thì ra người mẹ của bà ta cũng đã trầm mình nơi đây, hèn chi cứ gọi con gái hoài! Tôi định nói lời từ biệt với người thiếu phụ nhưng bà ta đã nhảy xuống hồ từ lúc nào, nước hồ lại văng lên người tôi như cơn mưa bóng mây!...
*
Mười năm sau, tôi mới có dịp trở lại Hà Nội sau những năm dài phiêu bạt giang hồ. Đêm hôm ấy, tôi ra Hồ Gươm và vừa đặt chân lên cầu Thê Húc thì thấy một thiếu nữ chưa tới tuổi đôi mươi đang đứng khóc giữa cầu. Cô gái vừa khóc vừa nói nên nghe không rõ lắm, khi tôi lại gần mới nghe được rõ đoạn cuối: “…Mẹ ơi, con chưa thể xuống với mẹ được vì chưa tìm thấy kẻ thù của mẹ con mình! Con xin hứa là sẽ tìm bằng được dù nó có phép thăng thiên, độn thổ hay tàng hình!...Mẹ hãy phù hộ cho con, mẹ ơi!...”. Tôi đi sát tới cô gái thì giật mình kinh ngạc vì cô ta giống người thiếu phụ đã ba lần nhảy xuống hồ từ cầu Thê Húc như hai giọt nước!
Sài Gòn, tháng 11-2009
Đỗ Ngọc Thạch

Vụ Án Đêm Giao Thừa; Chuyện người Bán Thuốc - Đỗ Ngọc Thạch

VỤ ÁN ĐÊM GIAO THỪA

  Truyện ngắn của  Đỗ Ngọc Thạch 

Trần Văn Luật được điều về Tổ Trọng án, nhưng là lính mới nên anh chưa được tham gia vào việc phá án mà đang ở thời kỳ tập sự. Việc tập sự này có nhiều hình thức, với Văn Luật là nghiên cứu hồ sơ các vụ án đã xử và các vụ án còn tồn đọng . Với các vụ án đã xử thì đưa ra nhận xét toàn diện, còn với các vụ án tồn đọng thì tự đưa ra những phương án điều tra phá án! 
 Tổ trưởng Tổ Trọng án đưa cho Văn Luật một gói hồ sơ gồm mười vụ án, năm vụ đã xử và năm vụ còn tồn đọng do không có manh mối gì, cái mới nhất đã năm năm và cái lâu nhất là hai mươi năm, và nói: “Cậu hãy đọc kỹ những vụ án này và đưa ra được những nhận xét, những phương án điều tra phá án thì coi như cậu đã qua thời kỳ tập sự. Thời gian là một năm, như thế mỗi vụ án cậu có trung bình một tháng để nghiên cứu cho thật kỹ lưỡng. Chúc cậu thành công!”. Văn Luật nhìn tập hồ sơ dầy cộm mà ngao ngán, cậu uể oải nói: “Em những tưởng là sẽ được đi theo các anh đến những vụ án còn “nóng hổi” thì mới có hy vọng tiến bộ và lập thành tích. Chứ nếu chỉ chúi mũi vào những vụ án đã “chết khô” này thì làm được gì?”. Tổ Trưởng tổ Trọng án cười nói: “Thế cậu có biết chuyện những người đi học nghề thợ mộc thì thời gian đầu làm công việc gì không?”. Và Tổ trưởng nói ngay: “Sáng mài cưa, trưa mài đục”, cậu hiểu không? Đừng nghĩ đó là vô ích, bởi nếu như cậu không biết chuẩn  bị cho mình những dụng cụ, đồ nghề tốt thì làm sao mà cưa xẻ, đục đẽo? Còn trong nghề điều tra phá án của chúng ta, đừng nghĩ là những hồ sơ, tài liệu đã phủ bụi thời gian kia là vô ích. Cậu phải biết cách làm sao để nó sống lại thì cậu sẽ tìm ra cách phá án tốt nhất!”. Nghe Tổ trưởng nói vậy, Văn Luật không nói gì bởi anh bỗng nhớ tới lời mẹ dặn khi mới đi làm ngày đầu tiên: “Cách ứng xử tốt nhất là làm theo sự sắp xếp của cấp trên! Quân lệnh như sơn!”… 
*
Vài “Tiền bối” chia sẻ kinh nghiệm với Văn Luật là đọc lướt qua tập hồ sơ một lượt rồi chọn lấy một vụ nào đó cỏ vẻ “ngon ăn” để “phá án”! Song Văn Luật lại nghĩ: Ta phải làm khác những người đi trước. Và Văn Luật chọn cách làm theo kiểu “cuốn chiếu”: lấy từng hồ sơ các vụ án và giải quyết dứt điểm từng vụ án đó! 
 Ngày đầu tiên của “thời kỳ tập sự” (mà Văn Luật muốn gọi cho đúng “bản chất của vấn đề” thì phải là “thời kỳ phá án trên giấy”), Văn Luật nhắm mắt lại và rút hú họa ra một tập hồ sơ. Bên ngoài có dòng chữ “Vụ án Đêm Giao thừa”, thời gian xảy ra đã năm năm, lời nhận xét, ghi chú: Nạn nhân là cô Tú Trinh, cán bộ giảng dạy Tiếng Anh, Trường Đại học Liên tỉnh; tình trạng: mất tích (chết không tìm thấy xác); ban đầu không tìm ra manh mối; sau đó xác định thủ phạm là Văn An, sinh viên năm cuối của Trường Đại Học Liên Tỉnh. Văn An bị án mười năm tù… 
 Nghe cái tên Văn An, Văn Luật thấy ngờ ngợ, không biết nghe cái tên này ở đâu rồi? Văn Luật cố lục tìm trong trí nhớ nhưng nhất thời chưa ra. Anh bỗng nhớ đến cô bạn học cùng lớp ở trường Đại học Luật tên gọi Thiên Thư, được mệnh danh là cuốn Bách Khoa toàn thư sống, đúng như cái tên mà người bác - một học giả lớn, - đã đặt cho cô: Thiên Thư – ngàn cuốn sách!... 
Phải mất gần một ngày, Văn Luật mới tìm được cô bạn học cũ Thiên Thư: thì ra cô được vào làm việc ở một cơ quan “đầu não” của Thành phố, công việc rất nhiều và nói chung là phải “Bí mật tuyệt đối” nên không được giao du, tiếp xúc với … người bình thường!
Vừa nhìn thấy Văn Luật, Thiên Thư đã hỏi:
 -“Cậu mê phá án lắm, giờ thì mãn nguyện rồi nhé! Đã phá được mấy vụ rồi?”.
Văn Luật khẽ thở dài rồi nói:
-“Phá phách gì  đâu cơ chứ!... Nhưng thôi, tớ có việc muốn hỏi bạn: Bạn có quen ai tên là Văn An không?”.
 – “Văn An hả? Rồi, tớ nhớ ra rồi: đó là một anh chàng sinh viên Khoa Tiếng Anh, học trò của đứa bạn học thời Trung học của tớ tên là Tú Trinh. Anh ta dám yêu cô giáo Tú Trinh và không hiểu sao, cách đây năm năm, tớ nghe nói Tú Trinh đã bị anh ta giết rồi ném xác xuống sông? Thật ra thì thế nào, tớ cũng không hiểu nổi? Nhưng dù sao, tớ cũng nghĩ anh ta, tức cái anh chàng sinh viên Văn An ấy, không thể là thủ phạm của việc cô giáo Tú Trinh mất tích! Hơn nữa, khi chưa tìm thấy xác Tú Trinh thì không thể nói là cô ta đã chết và càng không thể nói Tú Trinh đã bị Văn An giết chết rồi quăng xác xuống sông!”
 – “Tớ cũng nhớ ra cả cô bạn Tú Trinh của cậu và cái anh chàng Văn An ấy rồi. Một lần tớ đang ngồi nói chuyện ở nhà cậu thì Tú Trinh đã dắt Văn An tới chơi, đúng không? (Thiên Thư gật đầu) Tuy chỉ gặp anh chàng Văn An ấy một lần nhưng tớ rất ấn tượng với khuôn mặt phúc hậu và có vẻ chàng Ngốc của anh ta! Và hình như cô bạn Tú trinh của cậu cũng có đáp lại tình yêu của anh ta, chứ không phải tình yêu đơn phương, đúng không?”
 – “Đúng! Cậu nhận xét cũng rất đúng!...À này, hình như cậu vẫn đang trong giai đoạn tập sự, thử việc phải không? Cậu định “làm lại” Vụ án Đêm Giao thừa này thì tớ sẽ giúp cậu một tay vì hai lý do: Nạn nhân là bạn cũ của tớ và người “phá án trên giấy” cũng là bạn học chưa cũ lắm của tớ! Tớ muốn cậu biến vụ án trên giấy, tức vụ án chết thành vụ án sống! Tớ tin là cậu sẽ làm được!”
 – “Tớ rất tin vào linh cảm của tớ rằng cái anh chàng Ngốc Văn An ấy vô tội. Rất tiếc là bây giờ, sau năm năm luôn mồm gào thét “Tôi vô tội”, anh ta đã trở thành người tâm thần! Theo cậu thì có cần tiếp xúc với cái anh chàng Văn An này nữa không?”
 – “Có chứ! Theo tớ, cứ hai, ba ngày cậu lại gặp anh ta một lần và nhớ là chụp hình, quay phim anh ta mỗi lần gặp…Tớ bỗng nghĩ ra rằng, những hình ảnh về con người anh ta sẽ nói lên điều gì đó?”
– “Ôi, sao tớ cũng nghĩ là sẽ chụp hình, quay phim anh ta rồi ngồi phân tích trên máy vi tính! Đúng là ý lớn gặp nhau! Cậu mà ở Tổ điều tra cùng tớ thì hay quá! Hồi còn đi học, chúng ta luôn cùng một tổ là gì?”
– “Nhưng chúng ta không được lựa chọn! Cứ nghĩ mà xem, đúng là Tạo hóa thích đùa: tớ chúa ghét những người phô trương thành tích, thích đeo huân chương, huy chương đầy ngực thì sắp tới sẽ phải làm trợ lý cho Trưởng Ban Thi đua; Còn cậu, rất ghét xem phim, đọc truyện hình sự, vụ án, lại rất sợ bọn tội phạm thì nay lại làm việc trong Tổ trọng án! Quả là kỳ quặc!”
 – “Không kỳ quặc đâu, đó là “Ghét của nào Trời trao của ấy”!...Thôi nhé, Bye!...”
– “Bye! Cần gì cứ gọi điện thoại vào lúc nửa đêm!”… 

Sau khi gặp Thiên Thư, Văn Luật thường xuyên tới Trại giam gặp Văn An, cách hai ngày lại gặp, dù đường đi rất xa, phải băng qua một vùng đồi hoang cháy nắng rồi lại len lỏi trong rừng rậm…Quả là Thiên Thư đã nói đúng, sau gần chục ngày quan sát những hành động, lời nói dở điên dở khùng của Văn An, Văn Luật bỗng thấy có một cái tên được nhắc lại hai lần, trong một câu nói bất chợt xuất hiện giữa vô vàn những câu nói ngớ ngẩn, vô nghĩa: “Bá Đạo! Mày đã hại tao, nhưng không được hại Tú Trinh!...Bá Đạo! Mày đã đem Tú Trinh đi đâu?” .  Đúng O giờ, Văn Luật gọi điện thoại cho Thiên Thư. Thiên Thư nghe xong câu nói ấy thì reo lên: “Ơ-rê-ca! Sao tớ lại quên béng đi cái tên Bá Đạo này nhỉ? Hắn là giáo viên cùng Khoa với Tú Trinh. Tớ chỉ
gặp hắn một hai lần gì đó khi đến Khoa Tiếng Anh thăm Tú Trinh. Vậy mà không hiểu sao, hắn có được địa chỉ nhà tớ rồi mò đến, nói là Tú Trinh hẹn gặp nhau ở nhà tớ! May mà tớ có đai đen Karatedo, không thì đã bị hắn quấy rối tình dục rồi!...Tớ dám khẳng định hắn đã đeo bám Tú Trinh rất dữ, mặc dù không thấy Tú Trinh nhắc đến hắn trong các câu chuyện!...Thế này nhé: cậu hãy điều tra thật kỹ về tên Bá Đạo này, nếu có khó khăn tớ sẽ trợ giúp! Nhất định sẽ có manh mối gì đó!”…
 Văn Luật lập tức lên kế hoạch “bám đuôi” Bá Đạo. Không khó khăn gì, Văn Luật có được những thông tin chính xác về nhân vật Bá Đạo: nhờ uy thế “con ông cháu cha” mà được đi học nước ngoài rồi về dạy ở trường Đại học, chưa tới ba mươi tuổi nhưng đã là Đại ca trong giới ăn chơi sa đọa, làm chủ một nhà hàng Karaoke, thực chất là một ổ chích hút ma túy, mại dâm cao cấp!...Nhờ có “ô dù” che chắn, Bá Đạo và cái nhà hàng Karaoke luôn tránh né được những đợt “làm sạch phố phường” của các cơ quan chức năng!... 
Đụng đến mấy chữ “con ông cháu cha”, “ô dù”, Văn Luật lại phải nhờ đến người bạn “Bà Cố vấn” Thiên Thư vì không ai am hiểu tường tận thế giới “con ông cháu cha”, không ai biết rõ cấu tạo của các loại kiểu “Ô, dù” bằng Thiên Thư vì chính Nàng là một “Cách Cách” được giới quan chức thượng lưu cưng chiều, quý nể nhất!
Khi nghe Văn Luật trình bày kế hoạch “Bám đuôi” để tìm chứng cớ phạm tội của Bá Đạo, Thiên Thư tán đồng ngay và nói:
-“Cứ bắt được hắn với tội danh mới sẽ có cơ hội lòi đuôi tội cũ! Tiến hành tới đâu rồi?”
 – “Mới tiếp cận được đối tượng ở vòng ngoài, đã thấy nhan nhản “Cá chìm” bao bọc cho hắn!”
– Thiên Thư cười khanh khách rồi nói: “Cá chìm” cái con khỉ!...Sếp của bố hắn còn là lính của bố tớ! Để tớ “dọn sạch” đám ruồi muỗi ấy cho cậu dễ dàng hoạt động!”. 
Quả nhiên, hôm sau Văn Luật tới nhà hàng Karaoke của Bá Đạo thì thấy “trời quang mây tạnh”, các em gái chân dài lượn qua lượn lại như chim mà không hề ồn ào, náo động như mọi ngày! Văn Luật trở thành thượng khách của nhà hàng khi tới hát hò cùng với một nhân vật đặc biệt do Thiên Thư nhờ dắt tới để tiếp cận với Bá Đạo!... 
 *
Trong những lần tiếp xúc với Bá Đạo, Văn Luật đặc biệt chú ý đến câu nói của Bá Đạo khi hắn say mèm: “Tú Trinh!...Xin lỗi em, thực tình ta không muốn như thế này… Ta muốn dùng kiệu   hoa đón em, nhưng tại sao em lại từ chối ta?”. Từ câu nói đó của Bá Đạo, có thể dựng lại diễn biến của câu chuyện như sau: Bá Đạo đã tỏ tình với Tú Trinh, muốn chiếm đoạt Tú Trinh, nhưng cô gái đã cự tuyệt, đã phản kháng mãnh liệt…Rồi Bá Đạo đã dùng vũ lực để cưỡng bức Tú Trinh, gây nên cái chết của Tú Trinh. Sau đó, Bá Đạo đã đem xác của Tú Trinh đi phi tang! Câu hỏi đặt ra là: Bá Đạo đã giết Tú Trinh như thế nào và phi tang xác của Tú Trinh như thế nào? 
 … “Đêm Giao Thừa, Tú Trinh hẹn Văn An đến rồi sẽ đi chơi cùng nhau. Nhưng khi Văn An đến căn hộ độc thân của Tú Trinh ở Chung cư E2 thì không thấy Tú Trinh ở nhà, nghĩ là Tú Trinh có việc đột xuất phải đi đâu đó chưa về, liền ngồi xuống trước cửa căn phòng của Tú Trinh mà đợi cho đến khi cảnh sát hình sự tới bắt! Trong khi đó, Tú Trinh đã bị Bá Đạo lừa đến chỗ nào đó rồi làm hại…” – Văn Luật muốn dựng lại diễn biến của sự việc từ lúc cô gái Tú Trinh mất tích cho đến lúc Văn An bị bắt để chứng minh Văn An vô tội, nhưng anh cứ nghĩ mãi mà chưa trả lời được rõ ràng những câu hỏi này: Tại sao cảnh sát hình sự lại biết Tú Trinh mất tích vào đúng đêm Giao thừa và đến nhà Tú Trinh để bắt Văn An? Nếu có điện thoại nặc danh báo Cảnh sát Hình sự Tú Trinh bị mất tích vào thời điểm Giao thừa thì kẻ gọi điện thoại là ai? Hắn phải biết là Văn An đang ngồi trước cửa căn phòng của Tú Trinh và muốn đưa Văn An vào vị trí tình nghi số Một của vụ án, vì trước đó khoảng hai tháng, Văn An thường xuyên lui tới căn phòng của Tú Trinh…Càng nghĩ, Văn Luật càng thấy thủ phạm không thể là Văn An mà phải là Bá Đạo. Song,
đó mới chỉ là suy luận mà chưa có bất cứ tang vật, chứng cứ nào, ngay cả câu nói của Bá Đạo (lúc say mèm) về Tú Trinh cũng chưa ghi âm được. Tuy nhiên, Văn Luật nghĩ đã có thể dựng lại những diễn biến chính yếu của vụ án và anh muốn trình bày thử trước Bà Cố vấn Thiên Thư, nếu thuyết phục được “Bà Cố vấn” thì coi như thành công một nửa! 
*
Ngày hôm sau, Văn Luật hẹn gặp “Bà Cố vấn” Thiên Thư để nhờ góp ý những giả thuyết của mình về “Vụ án đêm Giao thừa”. Vừa gặp Văn Luật, Thiên Thư nói ngay:
-Chúng ta khoan nói chuyện về “Vụ án đêm Giao thừa”. Chúng ta ngồi uống cà phê rồi nói chuyện gì đó vui vui một chút!
-Sao vậy? – Văn Luật ngạc nhiên nói – Cậu nói sẽ trợ giúp tớ mọi lúc cơ mà? Bây giờ tớ chỉ biết nói chuyện “Vụ án đêm Giao thừa” thôi! Ngoài ra không biết nói chuyện gì nữa!
-Thôi được, bây giờ chúng ta sẽ nói chuyện về “Vụ án đêm Giao thừa”. Nhưng trước hết tớ muốn hỏi cậu: Vụ án này trước đây ai đã “phá án”?
-Thì chính là  Tổ trưởng Tổ Trọng án bây giờ!
-Có phải vì nhờ thành tích “phá án” này mà ông ta được thăng chức, thăng cấp?
-Đúng vậy!
-Nếu thế thì cậu “Xì-tốp” ngay “Vụ án đêm Giao thừa” này lại mà chỉ cần ghi nhận xét là…vụ án đã đạt kỷ lục về thời gian phá án và rất đúng người, đúng tội!
-Thôi, tớ hiểu tại sao cậu lại nói thế rồi!
-Tại sao?
-Tại cậu yêu tớ!...Đó má cậu ửng hồng, đôi mắt thì long lanh!...
-Yêu cậu?
-Không yêu thì tại sao lại phải cứu tớ thoát khỏi “tai nạn nghề nghiệp” nhãn tiền này?
-Thôi được, tớ sẽ suy nghĩ thêm về chuyện này!...Cậu tiếp tục hoàn tất mười vụ án được giao đi rồi chúng ta sẽ nói chuyện “Yêu đương”!... 
Ngày hôm sau, Thiên Thư  gọi điện thoại “hỏi thăm” Văn Luật thì anh chàng nói ngay:
-Chào! Tớ định gọi cho cậu đây! Cậu có biết tớ rút ra cái cặp hồ sơ thứ hai là vụ án gì không?
-Là vụ án gì vậy?
-Lại là “Vụ án đêm Giao thừa”!
-Rồi! Sau đó cậu lại rút tiếp cặp hồ sơ thứ ba, lại là “Vụ án đêm Giao thừa” đúng không?
-Sao cậu biết?
-Thiên cơ bất khả lộ!... 
Sài Gòn, cuối năm con Trâu, 1-2010
Đỗ Ngọc Thạch
http://suckhoe365.net/wp-content/uploads/2011/08/thu%E1%BB%91c-g%C3%A2y-b%C3%A9o-v%C3%A0-c%C3%B3-hai-cho-tim-m%E1%BA%A1ch.jpeg

CHUYỆN NGƯỜI BÁN THUỐC

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch 
Lợi là con mồ côi cả bố lẫn mẹ, được ông chủ tịch xã thương tình đem về nuôi từ năm lên sáu tuổi, lúc Lợi đang lặn lội suốt ngày ngoài đồng mò cua bắt ốc. Làm con nuôi ông chủ tịch xã, nếu Lợi chịu khó học hành có lẽ đã được đi đây đi đó, thậm chí đi học nước ngoài vì nhiều năm phân bổ tiêu chuẩn cho xã nhưng chẳng có ai. Lợi mải chơi, suốt ngày chỉ chạy lông nhông ngoài đường cho nên ông bố nuôi xếp cho Lợi làm cái chân văn thư chạy công văn giấy tờ cho xã. Làm công việc này Lợi rất thích vì được đón tiếp vui vẻ. Nhưng có người nói với Lợi : “Cậu đã đến tuổi trưởng thành mà cứ lông nhông thế này thì khi ông bố nuôi nghỉ hưu, cậu vẫn hai bàn tay trắng, biết trông cậy vào ai ? Chi bằng đi học lấy một cái nghề thời nào cũng sống được …”. Người đó lại bảo Lợi nên đi học nghề thuốc vì thời nào cũng có người đau ốm, cần có thuốc men, vả lại cái nghề này cũng sạch sẽ, nhàn hạ. Thế là Lợi nói với bố nuôi cho đi học lớp y tá, có vài tháng đã ra trường, về làm việc ngay tại Trạm Y tế xã. Từ ngày làm ở Trạm Y tế xã, Lợi được dân làng săn đón, quý nể còn hơn cả ông chủ tịch xã, Lợi thích lắm !...
Nhưng , “niềm vui ngắn chẳng tày gang” : có một lần, Lợi cho người bệnh uống nhầm thuốc, gây tử vong ! Gia đình nạn nhân kiện Lợi, Lợi sợ hãi bỏ trốn. Người nhà nạn nhân biết được, đuổi theo bắt Lợi phải đền mạng. Đuổi đến một cái cầu bắc qua con sông lớn, nước chảy xiết thì Lợi luýnh quýnh thế nào rớt xuống sông. Người nhà nạn nhân thấy vậy thì hoảng sợ, chạy về ngay…
Số Lợi còn dài nên có một ông lão đang ngồi trên thuyền câu đã nhìn thấy Lợi rớt xuống sông. Ông lão thợ câu vớt Lợi lên, hỏi rõ đầu đuôi rồi nói:
- Mày có tướng “Quý nhân phò trợ”, không những không chết mà còn có thể phát rất mạnh. Trước hết, mày hãy vào thành phố, đến mấy cái bệnh viện mà xin việc làm, chỉ thời gian sau là thành triệu phú, rồi tỷ phú không chừng !...Lúc ấy đừng quên ông già câu cá này nhá !...
Nói rồi ông lão thợ câu cho Lợi vài đồng làm lộ phí. Lợi đi một mạch tới thành phố mà chưa tiêu hết một xu nào !
*
Ngày đầu tiên ở thành phố, Lợi thuê một gường ở phòng trọ bình dân rồi thả bộ đi quan sát phố phường. Vừa đi Lợi vừa nghĩ : “Phố phường thật vui, cái gì cũng có, người xe như nước, áo quần như nêm…Suýt nữa thì ta chết già ở cái xóm nghèo heo hút !...May mà ta gặp nạn mới được tới thành phố như thế này. Đúng là trong cái rủi lại có cái may !”…
Tới một phố vắng toàn nhà cao cửa rộng, hai bên đường có hai hàng cây cổ thụ rì rào gió mát, Lợi bỗng thấy có một cánh cổng sắt bật mở, một người đang bế một đứa bé chạy vội ra, một người đàn bà to béo chạy theo vừa khóc vừa kêu la rối rít. Lợi đi lại gần thì người đàn bà tóm lấy Lợi mà rằng :
- Cậu ơi, cậu chạy đi gọi xích lô cho tôi mau lên, con bé nhà tôi nó bị đau bụng dữ dội, nhanh lên không chết mất !
Lợi nhìn đứa bé, nó khoảng năm sáu tuổi, người khỏe mạnh béo tốt, đang ôm bụng kêu la ầm ĩ. Lợi rờ tay vào bụng đứa bé và giật mình khi thấy cuộn lên một bó giun ! Giun trong bụng đứa bé nó đang nhảy múa đó mà ! Lợi nói với bà mẹ :
- Đứa bé bệnh rất nặng, nhưng tôi có thể cấp cứu và chữa được !
- Cậu chữa được à ? Cậu là bác sĩ à ? – Bà mẹ níu chặt lấy tay Lợi hỏi dồn dập.
- Bình tĩnh, bà cứ bình tĩnh…Đưa em nó vào nhà đặt lên gường, cởi hết quần áo ra…
Người ta làm răm rắp theo Lợi. Khi đứa bé nằm trên gường rồi, Lợi day mấy cái huyệt cho nó ngủ yên rồi bảo người nhà chạy ra hiệu thuốc mua thứ này một ít, thứ kia một ít…
Cuối cùng thì Lợi cũng làm được cái chuyện là lôi cổ đám giun đũa trong bụng đứa bé ra. Không hiểu tại sao lúc ấy Lợi lại nói năng, hành động rất mau lẹ, hoạt bát và nói những điều rất hay ho về bệnh tật đến nỗi bà chủ nhà cứ há mồm ra mà nghe. Bà chủ tin Lợi, phục Lợi và ơn Lợi cũng phải thôi vì chỉ hai ngày sau, đứa bé đã trở lại bình thường , chạy nhảy tung tăng rất dễ thương. Qua những câu chuyện, Lợi được biết bà chủ nhà là vợ một ông cán bộ cấp tỉnh mới được điều về thành phố khoảng năm sáu năm gì đó, hiện đang đi học thêm ở nước ngoài. Còn bà chủ nhà sáu năm trước cũng là một cô thôn nữ nhà nghèo, đọc chưa thông viết chưa thạo, ngoài nhiệm vụ đẻ con cho chồng ra thì không biết làm gì nữa. Lợi bỗng vụt ý : “Ta cứ tưởng người thành phố phải như thần thánh, tiên phật cơ chứ, hóa ra cũng vốn từ đồng ruộng mà ra cả !...Họ sống và giàu có được thì ta cũng phải sống được và làm giàu như họ…”. Thế là từ hôm đó, Lợi ao ước và dự tính sẽ phải có được một cái nhà lầu to đẹp như ông bà chủ này !...
Ơn cứu người thật là vô giá nên Lợi được bà chủ lưu lại như là thượng khách. Không hiểu tại sao Lợi lại sáng tác ra được một lý lịch rất “kịch tính” về hoàn cảnh của mình : Là sinh viên trường Y năm cuối, chuẩn bị nhận bằng bác sĩ thì “tranh chấp tình yêu” với ông thầy, và vì giận cô người yêu phụ tình, bỏ anh học trò nghèo mà theo ông thầy vừa già vừa giàu nên Lợi đã bỏ trường Y đi sống giang hồ, học thêm nghề thuốc ở trường đời !...Nghe hết câu chuyện tình đẫm lệ của Lợi, bà chủ thổn thức hàng giờ liền và sau khi lau khô những giọt lệ nóng bỏng, bà chủ thú thực với Lợi :
- Giá tôi chưa có chồng thì tôi sẽ thành người tình của cậu !...Thú thực, đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy con tim mình như có ai xé nát ! Tại sao người con gái kia lại bạc tình bạc nghĩa như thế ?...
Lợi đã đủ khôn ngoan để không bỏ lỡ cơ hội trước một con tim đang thổn thức. Lúc ôm bà chủ mập ú vào mà hôn như điên, Lợi suýt bật ra tiếng nói cứ lởn vởn trong đầu : “Ước gì ta trở thành ông chủ của tòa biệt thự này !”…Song, bà chủ nhà tỏ ra rất tỉnh trong hoàn cảnh xa chồng của mình. Bà ân ái với Lợi nhưng lại thu xếp cho Lợi đến tá túc ở nhà một bà bạn đã bỏ chồng, hiện đang bán thuốc tây ở hè đường. Trước khi chia tay Lợi, bà chủ gia hẹn : “Nếu chồng tôi có ngoại tình lăng nhăng thì tôi sẽ li hôn và chúng ta sẽ cưới nhau rồi ở trong nửa cái biệt thự này !”. Thế là từ đó, Lợi “sống chung” với một người đàn bà bán thuốc tây ở hè đường. Nhiều lúc Lợi cứ thầm nghĩ : “Sao người ta ra thành phố nhiều thế và kiếm sống khó khăn thế ? Còn ta, lại thuận lợi làm sao và nếu như lời ông thợ câu bên sông mà đúng thì ta sẽ phất lên nhờ cái nghề bán thuốc này đây ?”.
Lời ông thợ câu quả thật là thiêng : Người đàn bà “sống chung” với Lợi buôn bán thật nhẹ nhàng mà tiền vào như nước. Bà ta chỉ cần Lợi “đáp ứng về mặt tình cảm” còn mua sắm cho Lợi không thiếu thứ gì. Từ căn nhà lụp xụp nơi bãi sông, bà ta mua được căn nhà mặt tiền trên phố đông đúc. Từ khi có cửa hàng cửa hiệu, công việc mua bán càng phát triển, nhiều lúc không đủ hàng mà cung cấp cho các đầu mối từ các tỉnh về. Vào một hôm rảnh rỗi vì bán hết thuốc, bỗng Lợi nảy ra một sáng kiến : Sao ta không chủ động sản xuất ra thuốc mà cứ phải chờ đợi ở đâu đưa đến ? Thế là từ đó, Lợi cho người đi thu gom các loại bao bì, nhãn thuốc để “sản xuất” ra thuốc mới. Thuốc mới của Lợi chủ yếu là làm từ bột mì, bột sắn pha màu như thuốc thật rồi đóng lại vào trong các “con nhộng” hoặc dập thành viên. Lợi nghĩ : “thuốc của mình vô hại, trộn lẫn với thuốc thật thì chẳng ai mà biết được. Vả lại, bây giờ người ta ưa dùng thuốc liều cao gấp đôi ba lần bình thường, thì có lẫn vài viên thuốc “vô hại” vào có ăn nhằm gì ? Không ngờ Lợi lại có “hoa tay” trong cái nghề “sản xuất” thuốc giả này, phải uống thử mới có thể phân biệt được đâu là thuốc thật và đâu là “thuốc” do Lợi “sản xuất” ! Vào những đợt khan hiếm thuốc, Lợi đã phất lên như diều gặp gió. Đúng sau ba năm hành nghề. Lợi đã có thể sánh ngang với các tỉ phú của thành phố !...
*
Để ăn mừng sự thành đạt và tưởng nhớ đến người đã cứu mạng đồng thời cũng là nhà tiên tri là ông thợ câu, Lợi đã tổ chức đại tiệc. (Lợi đã cho người tìm về bến sông thì không thấy ông thợ câu đâu nữa). Nhưng sau bữa tiệc, cả nhà Lợi bỗng lăn ra đau bụng dữ dội, ai cũng ôm bụng quằn quại, riêng Lợi thì bị cấm khẩu. Người hàng xóm bảo đưa đi bệnh viện cấp cứu nhưng Lợi không chịu, viết giấy, ra hiệu nhờ đi kiếm thầy lang đông y. Một lúc sau, người hàng xóm đưa một ông lang đến. Lợi nhìn thấy ông lang thì giật mình nhận ra đó chính là ông thợ câu ở bến sông ba năm về trước ! Ông lão nói :
- Mày có quý tướng nhưng đồng thời cũng có phá tướng, tất gặp nạn lớn nếu cứ lao vào kiếm tiền bằng cái cửa hàng thuốc này. Ta sẽ chữa khỏi cho cả nhà ngươi, nhưng kèm theo một điều kiện ?
Lợi viết ra một tờ giấy : “Điều kiện gì tôi cũng xin theo nếu ông lại một lần nữa cứu mạng”.
Ông lão lại nói :
- Viết giấy hiến toàn bộ ngôi nhà lầu này cho trường nuôi trẻ tàn tật !...
Lợi viết vào tờ giấy : “Thế thì tôi sẽ ở đâu ?”
Ông lão nói liền một mạch :
- Nhà ngươi trở về làng xưa mà sống. Ông bố nuôi của mày đã nghỉ hưu ba năm nay, nhưng con trai lớn ông mới nhận chức chủ tịch xã như bố ngày xưa. Anh ta cần người chạy công văn giấy tờ cho xã và đã cho người đi tìm mày về để làm cái công việc ấy ! Chỉ có một cách duy nhất đó mà thôi. Nếu mày không nghe thì cứ nằm đấy mà đợi thần chết đón đi !
Lợi vội vàng viết vào tờ giấy : “Xin ông cứu mạng, tôi sẽ nghe theo tất cả !”
Ông lão thợ câu bèn lấy ra ba viên thuốc đen bóng nhét vào mồm Lợi rồi vạch quần đái tồ tồ vào mồm Lợi. Lợi sặc sụa rồi nuốt ừng ực. Sau một phút. Lợi nằm ngủ thiếp đi. Sau đó, ông thợ câu cho người đưa tất cả vợ con Lợi vào bệnh viện cấp cứu. Trong lúc chờ Lợi tỉnh lại, ông lão thợ câu gọi người đến cho tất cả thuốc ở cửa hàng của Lợi vào bao tải rồi đem đổ xuống sông… 
*
…Bây giờ, nếu ai đến trụ sở UBND cái xã Thủy Sơn ấy, sẽ thấy một người chạy văn thư rất khó đoán tuổi, lúc nào cũng đeo cái túi đựng công văn giấy tờ, thư báo bên sườn, đó chính là Lợi, người đã từng là một đầu nậu thuốc Tây nổi tiếng một thời. Dù ốm đau, bệnh tật thế nào, ông ta cũng cương quyết không uống thuốc và bất chợt nhìn thấy ai uống thuốc, ông ta cũng giật mình hốt hoảng rồi bỏ chạy như bị ma đuổi!...
TP.HCM, 1996-2009
Đỗ Ngọc Thạch