Thứ Hai, 5 tháng 3, 2012

Nghêu, Sò, Ốc, Hến ; Có một hậu duệ... - Đỗ Ngọc Thạch


Nghêu, Sò, Ốc, Hến


Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Nghêu, Sò, Ốc, Hến là vở Tuồng Hài (còn gọi là Tuồng Đồ) thuộc vào hàng mẫu mực của nghệ thuật sân khấu Tuồng. Nếu như người ta thường nói sân khấu Tuồng bây giờ không còn khán giả, SK Tuồng là nghệ thuật của chế độ Phong kiến đã lỗi thời, nên đưa SK Tuồng vào Bảo tàng, v.v…là nói về thể loại Tuồng Pho, còn gọi là Tuồng Thầy, Tuồng Cung đình :  do các quan lại biên soạn, đề tài được “đặt hàng” là ca ngợi sự vững mạnh, trường tồn của chế độ Phong kiến cùng hệ tư tưởng của nó, nội dung là vua anh minh, quan lại, tướng sĩ trung thành, dũng cảm , liều chết trong những trận chiến chống ngoại xâm, khởi nghĩa (thường được coi là nổi loạn), và bọn gian thần phản nghịch… Các nhân vật trong Tuồng thường là những người một lòng trung quân (tận trung báo quốc), những gương anh hùng, liệt nữ, một vài tên gian thần, phản nghịch… chủ yếu diễn trong cung cho vua chúa và tầng lớp quan lại lớp trên xem, trong một “Nhà hát Tuồng” khá lớn ở trong khu vực Hoàng Cung. Còn thể loại Tuồng Hài như Nghêu, Sò, Ốc, Hến (số lượng không nhiều như Tuồng Pho) là do các nhà Nho sống trong dân gian sáng tác, lấy đề tài trong cuộc sống đời thường và để diễn cho dân chúng xem. Chính vì thế, vở Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến lúc nào cũng làm say lòng công chúng và sống mãi với thời gian…
Làng Đào Kép, xa xưa vốn chủ yếu hành nghề diễn Tuồng Hài trong dân gian, có thêm một số món hỗ trợ như Tạp kỹ, Múa võ…Trăm năm trở lại đây, trải bao vật đổi sao dời, Làng Đào Kép đã bỏ nghề cũ, chuyển sang nghề làm Hương (Nhang) và dịch vụ đám tang, chủ yếu là kèn trống và khóc mướn. Những người trong đội kèn trống vốn là con cháu của các nhạc công ngày xưa, còn những người khóc mướn vốn là con cháu của những đào kép ngày trước, nghệ thuật khóc của họ không đâu bằng…Tuy họ không còn diễn Tuồng Hài nữa, nhưng vào những dịp có Lễ hội lớn, các Bô Lão trong Làng Đào kép bao giờ cũng về Hà Nội mời bằng được một Đoàn Tuồng về Làng diễn Tuồng cho dân Làng xem hai đêm liền, một đêm là trọn vở Nghêu, Sò, Ốc, Hến, còn một đêm là các trích đoạn Tuồng đặc sắc như Hồ Nguyệt Cô hóa Cáo, Khương Linh Tá dùng đầu làm đuốc cứu bạn, Lã Bố hý Điêu Thuyền, Đào Tam Xuân loạn trào, Quan Công đơn đao phó hội, Triệu Tử Long một mình cứu Ấu Chúa, v.v… Khi xem diễn Tuồng, người dân Làng Đào Kép như được sống lại với thuở ban đầu lập Làng, lúc nào cũng rực rỡ ánh đèn sân khấu… Tất cả những hình ảnh rực rỡ của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” vẫn còn mãi trong ký ức của người dân Làng Đào kép bởi có một sợi dây nối họ với quá khứ: đó là hầu hết tên gọi của người dân Làng Đào Kép đều lấy từ tên các nhân vật trong các vở Tuồng mà họ yêu thích. Truyện ngắn này chủ yếu nói về những người có tên từ vở Tuồng Hài Nghêu, Sò, Ốc, Hến. Thời gian của câu chuyện là vào những năm hòa bình đầu tiên, khi đất nước đã Thống Nhất liền một dải từ Mục Nam quan đến Mũi Cà Mau!...
*
Những người được cha mẹ đặt tên là Nghêu, Sò, Ốc và Hến ở Làng Đào Kép khá đông và không hiểu sao, như là có sự trói buộc của sợi dây định mệnh, họ đều hành nghề đúng như các nhân vật trong vở Tuồng: tức người tên Nghêu đều làm nghề Thầy bói (và có tới nửa số người tên Nghêu bị mù như Thầy Nghêu trong vở Tuồng; người tên Sò đều thành nhà giàu, thành ông Trùm, người tên Ốc đều thành kẻ trộm và những cô gái tên Hến đều làm nghề “mua đồ ăn trộm” như Thị Hến trong vở Tuồng!
Lê Nghêu còn có tên gọi là Lêu Nghêu bởi Nghêu rất cao, cao tới l,85 mét. Ông Trời hào phóng chiều cao với Nghêu nhưng lại lấy đi của anh ta đôi mắt: Nghêu bị mù bẩm sinh! Bố Nghêu giải thích chuyện Nghêu bị mù bẩm sinh như sau: Khi Nghêu đã được gần tám tháng thai, bố Nghêu vẫn liên tục đòi “dưỡng thai”. Mỗi lần bố Nghêu “dưỡng thai”, Nghêu rất khó chịu và có cảm giác như bị một cái búa gõ vào đầu, song không làm gì được mà chỉ biết đạp lung tung. Mỗi lần như thế, bố Nghêu đều hô to: “Nghêu con, nhắm mắt vào kẻo mù mắt đấy!” Và quả nhiên, khi Nghêu chui từ bụng mẹ ra thì đôi mắt đã bị mù vĩnh viễn! Tuy bị mù, nhưng Nghêu vẫn có thể đi lại bình thường trong nhà cũng như trong Làng nhờ có đôi tai cực thính và cái mũi có tài ngửi mùi còn hơn cả những con chó ngửi mùi giỏi nhất! Nghêu nhanh chóng học thuộc tất cả những thuật tử vi, tướng số của người bố và mới chỉ mười tuổi, danh tiếng bói toán của Nghêu đã vượt xa người bố! “Con hơn cha là nhà có phúc” – ông bố Nghêu thường an ủi cho thân phận mù lòa của Nghêu như vậy!
Nhân vật Trần Sò là con Trưởng Làng. Nhà Trưởng Làng chuyên làm Hương mà giàu có nhất nhì không chỉ trong Làng mà cả trong phủ, huyện. Nhờ có bí quyết gia truyền làm Hương Trầm đã từ ba đời, Nhang của Trưởng Làng có mùi hương thơm đặc biệt nên rất đắt hàng, kẻ ăn người ở trong nhà có đến gần trăm người. Trần Sò được cha gửi học những ông Thầy Đồ danh tiếng trong vùng nên giữa đám đông những người nông dân đa phần mù chữ do đói nghèo, Trần Sò là người danh giá số một. Cái biệt hiệu “Trùm Sò” cũng là sự chuyển dịch thuận chiều từ vở Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến sang Trần Sò! 
Nhân vật Ốc vốn là trẻ mồ côi sống vạ vật ngoài chợ Huyện. Lúc Ốc gần mười tuổi thì được Ốc bố, đang là một tay trộm nổi tiếng nhất Làng Đào Kép đem về nuôi và truyền hết bí quyết của nghề ăn trộm, cho nên Ốc con cũng nhanh chóng nổi tiếng như Ốc bố.
Nhân vật Hến có phần đặc biệt hơn cả. Tất cả những người lấy tên Hến của Làng Đào Kép đều là con nhà khá giả nhưng sau khi trải qua vài lần gia đình đổ vỡ, vài cuộc tình ngang trái, éo le thì đều bỏ nhà ra ở riêng và sống độc thân với nghề Cầm đồ. Thời nào cũng vậy, lúc thịnh cũng như lúc suy, nghề Cầm đồ tuy có lên bổng xuống trầm nhưng không bao giờ mất đi mà luôn tồn tại dai dẳng, thiên hình vạn trạng. Nhân vật Hến trong Truyện ngắn này còn có một điểm đặc biệt là một cô gái xinh đẹp, quyến rũ vào loại “Chuẩn”, tức không chê vào đâu được. Ngoài nhan sắc Trời cho, Hến còn được thừa hưởng của người mẹ năng khiếu diễn Tuồng, nhất là khi vào vai Đào Lẳng thì người xem bị cuốn hút tuyệt đối! Tuy Làng Đào Kép không còn hành nghề diễn Tuồng nhưng thỉnh thoảng Hến vẫn cùng với vài người tập hợp lại thành một Đoàn, diễn vài trích đoạn Tuồng nếu như đâu đó yêu cầu!...
*
Vào một ngày đẹp trời, Hến dọn dẹp nhà cửa, thấy đồ đạc người ta đem cầm đã bán hết thì lại nghĩ đến chuyện du hành. Bao giờ cũng vậy, khi giải quyết hết “hàng”, Hến thường thích đi ngao du “đổi gió”. Lần này, Hến muốn làm một cuộc đi xa – Hành Phương Nam, bởi từ ngày giải phóng đến nay, người ta đua nhau đi chơi Miền Nam và khi về thì đồ đạc lỉnh kỉnh cùng với những câu chuyện kể không bao giờ kết thúc về một Miền Nam cái gì cũng khác lạ! Hến nghĩ, cuộc Hành Phương Nam này sẽ thật thú vị nếu như ta lại lập một đoàn Tuồng nhỏ, diễn luôn vở Nghêu, Sò, Ốc, Hến và những người sắm vai các nhân vật trong vở Tuồng chính là những người có thật ở ngoài đời. Thầy Nghêu và thằng cha Ốc thì chắc là OK ngay, còn Trùm Sò không biết thế nào, lão ta mới nạp thiếp, chắc còn đang mê mẩn mỹ nhân, khó mà dứt ra được!...Chà, giá như có hai thầy trò Nghêu và Ốc tới đây mà bàn bạc thì hay quá!
Hến vừa nghĩ tới đó thì đã thấy Ốc đang dắt thầy Nghêu đã tới trước cái cổng làm bằng tre già chắc chắn của nhà Hến. Hến chạy ngay ra mở cổng, nói: “Vừa nhắc tới Tào Tháo thì Tào Tháo đã xuất hiện! Các người đến đúng lúc lắm!”. Thầy Nghêu nghe Hến nói vậy thì dừng lại trước cổng, nói: “Khoan vào! Để tôi đoán xem Thị Hến muốn chúng ta đến làm gì? – Thầy Nghêu hít hít hai cái rồi nói tiếp – Rượu thịt thì không phải, chẳng ngửi thấy gì cả! Để tôi ngửi mùi người Hến thì sẽ biết ngay!”. Hến thấy thầy Nghêu nói vậy thì thò tay vào bụng xoa xoa mấy cái rồi đưa lên mũi thầy Nghêu. Thầy Nghêu lại hít hít hai cái và nói ngay: “Cái bụng Hến muốn đi xa, xa lắm, chắc là Hành Phương Nam! Đúng không?”. Hến cười khanh khách rồi nói: “Thầy Nghêu đã bói thì chẳng sai bao giờ! Hôm nay Hến tôi muốn bàn với các chư vị chuyện lưu diễn Phương Nam! Ốc đi mua chai rượu và cân thịt về đây, chúng ta vừa nhâm nhi vừa nói chuyện!”. Hến moi ruột tượng trong bụng lấy tiền đưa Ốc nhưng vừa định đưa thì Trùm Sò xuất hiện thật bất ngờ! Trùm Sò vừa cười vừa nói: “Ốc khỏi phải đi mua! Tôi đã cho người làm hẳn một mâm đàng hoàng, lát nữa sẽ bưng tới! Mọi người thấy tôi đoán chuyện đâu có thua thầy Nghêu?”. Thầy Nghêu liền nói: “Nhà ông vừa giết lợn mừng Đại thọ mẹ ông chứ gì? Chỉ là nhân tiện mà thôi! Nếu ông không thấy tôi và Ốc đi ngang qua cổng nhà ông thì làm sao mà ông biết tới đây?”. Hến thấy vậy thì nói ngay: “Thôi được, tôi cũng muốn nói chuyện với cả ba người!”. Tất cả bốn người liền đi vào nhà Hến…
*
Cuối cùng thì việc thành lập một đoàn Tuồng, dù nhỏ cũng không thành vì thực ra có rất ít người rảnh rỗi như Hến để có nhiều thời gian làm một chuyến Hành Phương Nam với Hến. Quả nhiên Trùm Sò cũng không thể đi cùng. Thực ra thì hôm ấy Trùm Sò bám theo thầy Nghêu và Ốc là để “theo dõi” vì nghi hai người sẽ ăn trộm ở nhà mình, vì nếu không thì tại sao lại đi qua cổng nhà mình? Rút cục, chỉ có thầy Nghêu và Ốc là sẵn sàng đi theo Hến bất cứ lúc nào, bất cứ đâu. Nhìn cung cách của thầy Nghêu và chàng Ốc, Hến có thể “đi guốc trong bụng” họ: Ốc thì từ lâu đã thầm yêu trộm nhớ Hến nhưng không biết bày tỏ tình cảm của mình như thế nào, vào dịp nào? Và chính vì cứ lần khân như thế mà thời gian cứ vùn vụt trôi đi mà Ốc không nói nổi một chữ Yêu với Hến! Song, khi quyết định tình nguyện làm Vệ sĩ cho Hến trong chuyến du hành Phương Nam này, Nghêu nghĩ bụng sẽ phải tìm một dịp nói hết tình cảm của mình với Hến và nói xong sẽ ôm chặt lấy Hến, không cho ai đụng vào Hến nữa! Còn thầy Nghêu, tuy đã có hai đám tình nguyện làm vợ thầy bói mù này nhưng thầy Nghêu chưa quyết đám nào vì một người thì cơ thể khỏe mạnh, các bộ phận cơ thể có đầy đủ và rất sung mãn nhưng người rất hôi, kiểu như người có Xú khí, mà cánh thầy bói như thầy Nghêu thì rất kỵ xú khí; còn một người kia thì quá khô gày, tìm mãi cũng chẳng thấy ngực, thấy mông đâu cả, kiểu người này gọi là “trước sau như một”, hoặc “mô-đen tấm phản”,  không thể tạo hứng khởi khi muốn làm chuyện vợ chồng! Với Hến, thầy Nghêu rất ít hy vọng, nhưng nếu trong vòng năm nay mà Hến không có ai tới cầu hôn thì nhất định thầy Nghêu sẽ tới cầu hôn, bởi Tử vi của Hến là cuối năm nay sẽ lên xe hoa lần thứ hai! Gần đây, thầy Nghêu thấy cái anh chàng Ốc hay có những thái độ, hành động khác thường mỗi khi tiếp cận Hến… Chẳng lẽ nó cũng thích Hến như mình? Đúng là “Lòng vả cũng như lòng sung”! Thôi được, ta sẽ cạnh tranh công bằng với ngươi, anh chàng Ngốc ạ! Thầy Nghêu nghĩ như vậy thì rất yên tâm vì những thằng Ngốc thường rất nhát gái, mỡ có dâng tới miệng mèo cũng không biết cách mà ăn! Song, một lúc sau thì thầy Nghêu lại nghĩ thấy có câu “Thánh nhân thường đãi  kẻ khù khờ” thì thầy lại lo ngại thực sự! Vì thế, trong chuyến du hành Phương Nam này, thầy Nghêu dự tính nhất định sẽ có ít nhất một lần Ốc phải chiến đấu cật lực để bảo vệ Hến trước bọn đàn ông đểu cáng có ở khắp nơi, và Ốc thế nào cũng bị thương nặng và phải đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện. Lúc ấy, chỉ có thầy Nghêu và Hến ở cùng nhau, thầy Nghêu sẽ…
*
Chuyến du hành Phương Nam diễn ra thật thuận buồm xuôi gió, ba người Nghêu, Ốc và Hến đã đi một vòng hết lượt tất cả các các nơi nổi tiếng cả về người và đất của Miền Nam tràn ngập nắng và gió, mà chẳng hề gặp bất cứ khó khăn, trở ngại gì khiến cho cả Ốc và thầy Nghêu vẫn chưa thể “Tỏ tình” với Hến... Tới bất cứ đâu, Hến cũng ngỡ ngàng, đắm say trước cảnh vật tràn đầy sức sống của những vùng đất mới. Hồi còn nhỏ, Hến chỉ biết Miền Nam qua những câu hát “Miền Nam em dừa nhiều/ Miền Nam em dứa nhiều/Miền Nam em xoài thơm / Miền Nam em khoai bùi…”. Giờ thì Miền Nam đã ở ngay trước mặt Hến, đang từng phút từng giây, từng ngày chinh phục Hến và cuối cùng thì Hến đã bị chinh phục hoàn toàn: Hến quyết định vào hẳn Miền Nam sinh sống nốt nửa đời còn lại!
Người đầu tiên Hến nói rõ ý định của mình và muốn cùng chia sẻ chính là chàng Ngốc Tạ Ôn Đình Ốc. Cái tên Tạ Ôn Đình Ốc là do Hến đặt cho Ốc vì thực ra Ốc là trẻ mồ côi sống bụi đời ngoài chợ Huyện, có ai biết con cái nhà nào mà cho mang họ gì? Hến đặt cho Ốc cái tên ấy là muốn Ốc sẽ có lúc hoàn lương, không làm nghề ăn trộm nữa mà làm người anh hùng như nhân vật  Tạ Ôn Đình trong Tuồng. Chuyến du hành Phương Nam vừa rồi, tuy Ốc chưa phải “đấu quyền” với ai nhưng cung cách xử lý của Ốc rất tốt, vì thế đã tránh được rất nhiều lần có thể xảy ra ẩu đả. Nguyên việc đó Ốc đã giành được cảm tình đặc biệt của Hến và Hến đã quyết định rủ Ốc vào Miền Nam sinh sống. Khi nghe Hến nói xong, Ốc sung sướng còn hơn nhặt được vàng. Ốc nói: “Nhưng chúng ta phải danh chính ngôn thuận, thành vợ thành chồng thì mới làm được mọi thứ thủ tục giấy tờ để chuyển vùng chứ?”. Hến cười nói: “Xong xuôi mọi thứ giấy tờ rồi! Giờ chỉ còn bái đường thành thân rồi chúng ta sẽ hưởng tuần trăng mật trên Tàu Thống Nhất!”. Hến nói đến đó thì ngất ngây sung sướng nhưng khi Ốc ôm chặt lấy Hến đòi “Động phòng” trước thì Hến nói: “Khoan đã, đi đâu mà vội mà vàng / mà vấp phải đá mà quàng phải dây! Còn một chuyện rất quan trọng là Tiền bạc cho mọi việc, Tướng công có nghĩ tới không? Chuyến du hành Phương Nam vừa rồi chúng ta đã tiêu sạch, chỉ còn một ít gửi Quỹ Tiết Kiệm của Ngân hàng…”. Hến vừa nói đến đó thì Ốc đã hiểu ngay và nói: “Vậy thì ta làm một vụ nữa cho thật đậm rồi rửa tay gác kiếm cũng chưa muộn!”. Ốc vừa dứt lời thì đã thấy thầy Nghêu cầm cái gậy dò đường gõ cộc cộc vào bậu cửa mà nói: “Nhà Trùm Sò vừa thắng lớn hai chuyến hàng liên tiếp từ Miền Nam ra! Hai bao tải tiền của hắn còn để ở ngay dưới gầm giường của vợ chồng hắn!”…
Đêm đó, hai thầy trò Nghêu và Ốc quyết ra tay bằng tuyệt chiêu của Thần Trộm! Kết quả của vụ này ra sao, đến nay công an xã, và cả công an Huyện vẫn chưa điều tra ra… Một năm sau đó, người làng Đào Kép mới vô tình, ngẫu nhiên thấy Hến và Ốc trong một tiệm cầm đồ loại vừa ở Quận 11, Sài Gòn – nơi có rất nhiều người Miền Bắc sinh sống. Người này chính là bà vợ gày đét trước sau như một của thầy Nghêu. Thầy Nghêu sau khi cưới bà vợ gày đét đã quyết định vào sài Gòn tìm vợ chồng Hến bởi từ khi vợ chồng Hến vào Sài Gòn, thầy Nghêu thấy buồn vì …nhớ Hến và Ốc! Mặc dù bà vợ thầy Nghêu từ khi có “hơi trai” cơ thể đã phổng phao lên và sắp đẻ cho thầy Nghêu đứa con nối nghiệp, nhưng thầy Nghêu không thể không thôi nhớ Hến, bởi như thầy Nghêu thú thật với vợ: Ở Hến có một mùi gì đó thật kỳ lạ, nó khiến con người ta như là có thêm sức sống, sự khát khao điều gì đó!...
Thầy Nghêu cuối cùng đã tìm được vợ chồng Hến. Sau đó họ có “liên kết làm ăn” với nhau nữa hay không thì phải chờ bộ tiểu thuyết “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” của chính bà vợ thầy Nghêu, sắp hoàn thành. Ở đây chỉ cung cấp thêm một chi tiết là: bà vợ của thầy Nghêu cũng có tên khai sinh là Sò và sau khi vào Sài Gòn, bà Sò đã lột xác thành một Trùm Sò được các Đại gia có máu mặt rất kính nể!.../.
Sài Gòn, 2010
Đỗ Ngọc Thạch

Có một hậu duệ của nhà Hậu Lê


Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Lê Phong Trần tự nhận là dòng dõi vua chúa, thuộc chi nhánh của Lê Chiêu Thống (*). Có người hỏi, tại sao lại nhận cái ông vua bán nước “cõng rắn cắn gà nhà” ấy làm cụ Tổ thì Lê Phong Trần nói: “Tôi không có quyền lựa chọn tổ tiên! Bố tôi bảo vậy thì tôi biết vậy.Ai cũng chê bai, chửi rủa, phỉ nhổ, thật tội nghiệp cho ông vua bạc mệnh này! Tôi cố gắng hương khói đều đặn cho linh hồn ông khỏi cô quạnh!”. Lại hỏi: “Nhưng theo như sử sách đã ghi thì cả hai cha con Lê Chiêu Thống đều chết bên Tàu, làm sao mà còn lại con cháu nữa?”. Trả lời: “Sử sách đâu có ghi lại được hết mọi chuyện? Bậc vua chúa ngày xưa đâu có ít con, đâu có chịu tuyệt tự? Thời gian từ năm 1787 đến năm 1789, vua Lê Chiêu Thống chạy lên mạn Kinh Bắc, rồi Cao Bằng, Thái Nguyên… tập hợp lực lượng để chống lại quân Tây Sơn của Vũ Văn Nhậm (**). Thời gian này, vua sống hòa đồng trong dân gian, đã có bao nhiêu cô thôn nữ được vua ban ân sủng, làm sao mà biết được? Tôi chỉ biết bà cố của tôi là một cô gái Kinh Bắc rất xinh đẹp và đã được hầu hạ bên cạnh vua Lê Chiêu Thống tới chục ngày và sau đó bà đã mang Long thai! Ông của tôi còn giữ được nhiều kỷ vật của bà cố tức của vua Lê Chiêu Thống ban cho bà!”. Khi Lê Phong Trần nói đến đây thì dường như người nghe không còn thắc mắc gì nữa. Gần hai năm lăn lộn khắp mấy tỉnh phía Bắc Thăng Long, Vua Lê Chiêu Thống đã ban ân sủng cho bao nhiêu cô gái và bao nhiêu cô gái đã mang Long thai thì không một sử gia nào trả lời được!
Khi nói đến thời gian vua Lê Chiêu Thống chạy loạn tới vùng Kinh Bắc, Lê Phong Trần còn say sưa kể: “Người dân ở vùng này còn lưu truyền rất nhiều những câu chuyện dã sử gần giống như chuyện về Nguyên Phi Ỷ Lan. Chẳng hạn như chuyện Thứ Phi Ỷ Mít: một lần , vua đang trên đường chiêu tập binh mã thì bị lạc đường, bụng lại đói cồn cào, khiến vua ngất xỉu. Trong giấc ngủ mơ màng, vua thấy Thổ Địa hiện ra nói: “Nhà vua đi về hướng Bắc, chỉ một khắc, sẽ thấy một cây mít cổ thụ đã có ba quả chín thơm phức, đã có người ngồi đợi bổ mít cho nhà vua thưởng lãm!”. Vua nghe theo, tới nơi quả nhiên thấy có một cây mít cực lớn, dưới gốc mít có ba quả rất to, đã chín mõm, tỏa hương thơm phức và có một cô gái rất xinh đẹp, thân hình nở nang cân đối, tràn trề sinh lực, đang tựa gốc mít lim dim ngủ! Khi vua đi lại gần thì cô gái bừng tỉnh, nói giọng như tiếng chuông ngân: “Thần thiếp đợi Bệ hạ đã lâu, xin được phụng mệnh!”. Vua rất mừng, cùng ăn mít với cô gái rất thân mật. Vua ăn mít xong thì không những hết đói mà sức lực như tăng lên bội phần, cùng cô gái ân ái mười phần mãn nguyện. Sau đó, vua phong cho cô gái là Thứ Phi Ỷ Mít, tức bà Thứ Phi tựa cây mít! Tương truyền về sau, bà Thứ Phi sinh đôi được hai hoàng tử, nhưng do phải chạy trốn sự truy sát của quân Tây Sơn nên đã mai danh ẩn tích, không biết lưu lạc nơi nào? Mấy ngày sau chuyện Thứ Phi Ỷ Mít, Vua đi đến một vườn vải thì cũng gặp một thôn nữ đang tựa gốc vải và sau đó cũng phong cho thôn nữ này là Đệ Nhị Thứ Phi Ỷ Vải, tức bà Thứ phi thứ hai, tựa gốc cây vải! Tương truyền bà Phi tựa cây vải này ăn vải nhiều nên sinh hạ tới ba hoàng tử, nhưng sau đó cũng phải mai danh ẩn tích lưu lạc tứ phương!”.
Nghe Lê Phong Trần kể chuyện Thứ Phi Ỷ Mít và Thứ Phi Ỷ Vải, lúc đầu tôi không thể tin được và nghĩ chắc là anh ta sáng tác ra mà thôi. Nhưng khi được mục kích sở thị mít và vải ở vùng này thì quả là không thể không tin vì khi ăn mít và vải ở đây, ta chỉ có thể nói: Không thể ngon hơn được nữa!
*
Lê Phong Trần học cùng khóa với tôi ở Đại học, nhưng khác Khoa, tôi học Khoa Toán còn anh ta học Khoa sử. Chúng tôi chỉ biết nhau khi cùng nhập ngũ một đợt. Khi biết tôi rất thích đọc sách về các nhân vật lịch sử, Phong Trần đã cho tôi hai cuốn sách viết về Napoleon Bonapac, một cuốn viết về Thành Cát Tư Hãn và một cuốn viết về mười ba triều đại Nhà Thanh là “Thanh cung mười ba triều”. Khi đưa sách cho tôi, Phong Trần nói: “Cho cậu những cuốn sách này vì tôi đã đọc nhiều lần và thuộc lòng rồi. Cậu đọc đi rồi sẽ thấy rất thích làm vua, huống hồ là hậu duệ của vua chúa như tôi!”. Tôi hỏi: “Cậu thích làm vua sao không tìm cái trường nào dạy làm vua? Vả lại ở nước ta đâu còn chế độ vua chúa như xưa? Chỉ có vài nước như Thái Lan, Anh…mà thôi!”. Phong Trần bình thản nói: “Đối với lịch sử, không thể nói trước được điều gì, nó đầy bất ngờ như…bóng đá!”. Tôi thầm nghĩ thằng cha này thuộc loại tâm thần, nhưng sau khi đọc xong mấy cuốn sách mà anh ta đưa thì quả là tôi rất thích … làm vua và còn nghĩ rằng nếu mình làm vua thì không thể dẫn đến những kết cục bi thảm như vậy! Trở lại với ý nghĩ về anh chàng Lê Phong Trần, tôi cứ băn khoăn không hiểu anh ta sẽ làm vua như thế nào? Hay là miễn có chữ “Vua” là được chẳng hạn như “Vua bóng đá Pê-lê”? Khi gặp nhau, tôi đem sự băn khoăn ấy ra hỏi thì Phong Trần nói: “Tớ đã làm vua là phải có triều đình với hai hàng bá quan văn võ nghiêm chỉnh chứ đâu phải là chỉ có chữ “Vua” như “Vua bóng đá Pê-lê?”. Khi nghe Phong Trần nói vậy, tôi khẳng định dứt khoát là anh chàng Phong Trần này bị bệnh tâm thần, hoang tưởng hay đại loại như vậy! Song, khi có sự việc sau đây thì tôi lại phải tự “đính chính” là Phong Trần không hề có bệnh tật gì cả!
Sau khi nhập ngũ được khoảng ba tháng, năm người lính chúng tôi được điều động đến một đơn vị mới hiện đang đóng quân trên đồi Đồng Lư, thuộc huyện Quốc Oai, lúc đó là tỉnh Hà Tây. Từ chỗ đơn vị chúng tôi đang đóng quân đến chỗ đơn vị mới là khoảng năm mươi cây số và chúng tôi sẽ phải tự đi đến chứ không có xe pháo đón rước gì cả!
 Khi ra đến đường Quốc lộ số 5, Phong Trần nói là nên vào ngồi trong một quán nước ven đường, ăn uống gì đó thoải mái, khi thấy có xe ô tô mà thùng phía sau trống thì chặn lại xin đi nhờ, cứ nối tiếp từng chặng như thế, khi nào tới nơi thì thôi! Khi vào ngồi trong một quán nước rồi, Phong Trần kêu nước thuốc, kẹo lạc…thoải mái và nói: “Các cậu cứ ăn uống thoải mái, hôm nay tớ đãi!”. Trong khi ăn uống, một người tên là Hận Sĩ, học cùng Khoa Sử với Phong Trần, nói: “Trước khi chia tay nhau, tớ xin đọc tặng những chàng “Sin sin Cos cos” (mấy khoa khác thường gọi dân Khoa Toán như vậy, ba người còn lại chúng tôi đều học Khoa Toán) các cậu ba bài thơ tình, coi như ba người ba bài, mỗi người một bài!”. Tôi liền nói ngay: “Tại sao lại là chia tay, chẳng phải là chúng ta cùng được lệnh đến đơn vị mới sao?”. Phong Trần trả lời ngay: “Đúng là có lệnh ấy nhưng chúng tớ còn có lệnh của Trái tim. Chúng tớ phải về nhà thăm vợ (cả Phong Trần và Hận Sĩ đều là người Hà Bắc, nơi có truyền thống lấy vợ sớm), chưa biết bao giờ mới có thể gặp lại!”. Tôi nói nhỏ: “Như thế chẳng phải là đào ngũ sao? Chúng tớ sẽ nói thế nào với thủ trưởng đơn vị mới?”. Phong Trần nói tỉnh khô: “Thì các cậu cứ nói là chúng tớ bị trúng bom, hy sinh rồi! Các cậu không thấy là mấy hôm nay bom nổ râm ran khắp nơi à?”. Nghe Phong Trần nói vậy, tôi vụt hiểu ra chuyện gì đang xảy ra và thấy câu thơ dân gian đang lưu truyền về tình trạng đào ngũ của bộ đội ta lúc đó thật là đúng: Hà chuồn, Nam trốn, Thái Bình bay / Hà Bắc anh dũng trốn ban ngày / Thanh Hóa mất mùa xin ở lại / Nghệ An, Hà Tĩnh có ai hay?
*
Sau khi chia tay ở cái quán nước ven quốc lộ số 5 đó, phải đến năm 1976, tức mười năm sau, tôi mới có dịp gặp lại Phong Trần, và thật bất ngờ khi gặp lại cả anh chàng nhà thơ Hận Sĩ luôn cặp kè bên cạnh Phong Trần. Thì ra tổ tiên của Hận Sĩ chính là viên quan Tri huyện huyện Yên Dũng, xứ Kinh Bắc, đã có công hộ giá Lê Chiêu Thống khi bị quân Tây Sơn của Vũ Văn Nhậm đánh đuổi khỏi thành Thăng Long, dần dần khôi phục lại được lực lượng ở mạn Cao Bằng, Thái Nguyên. Khi biết chuyện ấy, nhìn lại Hận Sĩ thì quả là anh ta rất có phong cách quan Huyện, lại có cả phong thái thi nhân (các quan tri Huyện thời xưa phần lớn rất giỏi thi phú). Và điều thật bất ngờ đối với tôi là : Hiện Hận Sĩ đang là Chánh Văn phòng UBND Huyện quê hương, và cái ghế Chủ tịch Huyện đã trong tầm tay, chỉ còn là thời gian, sớm hay muộn! Khi biết Phong Trần vừa tốt nghiệp một khóa diễn viên Chèo ở Trường Nghệ thuật Sân Khấu Mai Dịch, đang chờ về đoàn chèo của tỉnh nhà, hiện đang sống “lưu vong” ở nhà Chánh văn phòng UBND Hận Sĩ, tôi ngạc nhiên hết sức mà nói: “Nhìn hai người bên nhau, tớ cứ ngỡ là cái hình ảnh vua Lê Chiêu Thống chạy loạn về Kinh Bắc ngày xưa hiện về! Thật kỳ lạ! Chẳng lẽ lịch sử luôn có những sự trở lại kỳ quặc như thế?”. Phong Trần nói: “Có người muốn mời tớ tham gia một vở chèo lớn và vào vai vua Quang Trung đại phá quân Thanh, nhưng tớ không nhận lời mà sẽ tự làm một vở về thời kỳ gian khó nhất của vua Lê Chiêu Thống, tớ sẽ vào vai vua Lê Chiêu Thống!”. Tôi nghĩ bụng cho là anh ta nói khoác nên không để ý.
Song, khoảng hơn một năm sau thì tôi nhận được lời mời tới xem Phong Trần chạy đường dây một vở chèo viết về vua Lê Chiêu Thống do anh ta vừa viết kịch bản, vừa đạo diễn và vào vai chính là vua Lê Chiêu Thống. Hỏi kỹ thì vở diễn không phải được dàn dựng ở đoàn chèo của Tỉnh mà chỉ do một đội chèo bán chuyên nghiệp của Huyện do Phong Trần và Hận Sĩ gầy dựng, trong đó hơn nửa số diễn viên là nghiệp dư, số còn lại là bạn bè, chiến hữu của Phong Trần và Hận Sĩ, đều là con cháu của những cựu thần nhà Lê mà tụ họp đến giúp. Tuy chỉ là một “đội quân không chính quy”, nhưng khi xem Phong Trần chạy đường dây lần cuối thì quả là không có thể làm tốt hơn. Tuy nhiên, vào thời điểm lúc đó, một vở diễn chỉ tập trung vào việc thể hiện nhân vật Lê Chiêu Thống thì quả là rất khó được duyệt để công diễn. Tôi nói ý ấy với Phong Trần thì anh ta nói: “Buổi tổng duyệt sẽ rất đông người xem, như vậy là tớ mãn nguyện rồi!”. Quả nhiên, buổi tổng duyệt có số người tới xem chật kín cả Hội trường của Ủy Ban Huyện. Khi Phong Trần xuất hiện trên sân khấu trong vai Lê Chiêu Thống, nhìn anh ta không còn là Phong Trần nữa mà là đã trở thành Lê Chiêu Thống của hơn 200 năm trước!
Sau buổi tổng duyệt, tôi tìm gặp Phong Trần thì không thấy đâu cả. Hỏi mấy người thì họ nói Chánh Văn phòng UB Huyện Hận Sĩ đã đưa Phong Trần về nhà anh ta. Tới nhà Hận Sĩ thì thấy anh ta đang ngồi uống rượu một mình. Nhìn thấy tôi, Hận Sĩ nghẹn ngào nói: “Phong Trần không còn là Phong Trần nữa, anh ta đã đã hóa thành Lê Chiêu Thống của hơn 200 năm trước rồi! Anh ta cứ luôn mồm nói những lời thoại của vở chèo, tôi phải điểm huyệt cho anh ta ngủ rồi!”. Nghe Hận Sĩ  nói vậy, tôi không biết là nên vui hay buồn đây? 
Sài Gòn, 2005-2010
Đỗ Ngọc Thạch
------------
(*) Lê Chiêu Thống (tên huý: Duy Khiêm, Duy Kỳ; 1765 - 1793), vua cuối cùng của nhà Hậu Lê. Cháu nội vua Lê Hiển Tông, con của thái tử Duy Vĩ, bị Trịnh Sâm giam cầm hơn 10 năm. Năm 1786, quân Tây Sơn ra Bắc lần thứ nhất diệt Trịnh, Lê Hiển Tông mất, Lê Chiêu Thống được đưa lên làm vua. Tính khí nhu nhược. Bị Trịnh Bồng lấn át, Lê Chiêu Thống gọi Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra phò giúp. Năm 1787, khi quân Tây Sơn ra Bắc lần thứ hai diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống phải trốn chạy, cho người sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh.
Tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc Hà, chỉ một trận quét sạch 29 vạn quân Thanh, Lê Chiêu Thống lại phải theo bại quân nhà Thanh chạy sang Trung Quốc. Chiêu Thống lại tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không cho quân. Thân vương nhà Thanh là Phúc Khang An hứa giúp quân cho Chiêu Thống, nhưng lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về. Tháng tư năm đó, theo lời tâu của Hòa Thân và Phúc Khang An, Càn Long phong Nguyễn Huệ là An Nam quốc vương và nhận tiếp sứ của nhà Tây Sơn. Tháng 5 năm Nhâm Tý, tức năm Càn Long thứ 57 (1792), con trai chết, Chiêu Thống thất vọng và chán nản, lâm bệnh rồi qua đời ngày 16 tháng 10 (âm lịch) năm 1793 tại Yên Kinh. Nhà Thanh chôn Lê Chiêu Thống theo nghi thức tước công.
Năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, mở đầu thời kỳ nhà Nguyễn, đã cho sứ giả sang thông hiếu và quy phục nhà Thanh. Nhân đó các bầy tôi nhà Hậu Lê dâng biểu xin trở về nước nhà. Năm 1804, vua Gia Khánh nhà Thanh cho phép đưa linh cữu vua Lê, thái hậu và con trai Chiêu Thống về nước. Tháng 11 cùng năm táng nhà vua ở lăng Bàn Thạch.
(**) Tháng 11 năm Đinh Mùi, Chiêu Thống thứ nhất (1787). Quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy tấn công Bắc Hà. Chiêu Thống sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân chống cự, nhưng trong trận đánh lớn trên sông Thanh Quyết, bị Văn Nhậm đánh tan. Hữu Chỉnh và em là Hữu Du chỉ kịp đem vài trăm quân chạy về Thăng Long.
Tháng 12 năm đó, Văn Nhậm kéo quân tới Thăng Long, Chiêu Thống nghe lời Hữu Chỉnh, bỏ Thăng Long chạy đi Kinh Bắc. Lúc đi, thị vệ và các bầy tôi tản mát bỏ trốn hết. Vua lại phải cho người sang nhờ Hữu Chỉnh đi hộ giá. Khi vua đến Kinh Bắc, trấn thủ là Nguyễn Cảnh Thước, vốn đã bí mật đầu hàng Tây Sơn, đóng cửa thành cáo bệnh không đón. Vua cùng Hữu Chỉnh qua đò sông Nguyệt Đức, đi theo chỉ còn sáu, bảy người, lại bị bọn vô lại cướp mất áo bào. Tình cảnh hết sức thê thảm. Khi Chiêu Thống tới huyện Yên Dũng mới được tri huyện huyện ấy giúp đỡ, xin hộ giá, rồi dần dần khôi phục lại được lực lượng ở mạn Cao Bằng, Thái Nguyên.
Sau đó, Nguyễn Văn Hòa, bộ tướng của Văn Nhậm, đuổi kịp quân nhà Lê. Chiêu Thống thân chinh cầm quân ngự chiến, nhưng thua trận, Nguyễn Hữu Du chết tại trận, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt giải về kinh, rồi bị Văn Nhậm xử tử, quân nhà vua tan vỡ, Dương Đình Tuấn hộ vệ vua chạy sang trại Sơn Lộc. Các bầy tôi khác đều tan tác hết.
Sau đó, Chiêu Thống lẩn quất chạy trốn quân Vũ Văn Nhậm ở mạn bắc sông Nguyệt Đức, khi thì ở huyện Gia Định, lúc lại đi Chí Linh, Thủy Đường, Vị Hoàng. Tháng tư năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ lại ra bắc, vào thành Thăng Long, bắt giết Vũ Văn Nhậm, cho Ngô Văn Sở cai quản binh quyền, đặt Lê Duy Cận làm giám quốc coi việc thờ cúng tôn miếu nhà Lê. Chiêu Thống chạy ra Kinh Bắc lần thứ hai.
Trước kia, khi Thái hậu là mẹ vua đến Cao Bằng, bị các thế lực cát cứ địa phương uy hiếp, bầy tôi nhà Lê là Đốc đồng Nguyễn Huy Túc, phiên thần Địch quận công Hoàng Ích Hiểu, tụng thần Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống bảo vệ Thái hậu và con trai Chiêu Thống qua cửa ải Thủy Khẩu chạy sang Long Châu nhà Thanh, gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh cầu xin cứu viện.
Đỗ Ngọc Thạch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét