Thứ Sáu, 1 tháng 6, 2012

Ô Quan Chưởng; Thượng Kinh Ký Sự - Đỗ Ngọc Thạch


Ô Quan Chưởng

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
Có bốn người thường xuất hiện ở Ô Quan Chưởng, khá đều đặn, ngày ngày, có khi vào buổi sáng, có khi vào lúc xế chiều. Đó là một ông già, khoảng ngoài sáu mươi tuổi, tóc đã bạc trắng nhưng từ khuôn mặt đến dáng người đều thấy rõ sự rắn chắc của người đã kinh qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian. Ông già thường đem theo một cái giá vẽ, kẹp giấy và trong cái túi bằng vải chàm có thêu hoa văn của người vùng cao, là đủ các loại hộp màu và bút vẽ. Còn có một cái máy ảnh Canon đã cũ. Ông già thường vẽ cái cửa ô Quan Chưởng, vẽ từ nhiều phía từ đằng trước cái cửa ô. Thỉnh thoảng ông lại lấy cái máy ảnh Canon ra chụp vài kiểu. Không biết ông đã vẽ bao nhiêu bức tranh cái cửa Ô Quan Chưởng này, chỉ biết việc làm của ông đều đặn, bền bỉ, kiên nhẫn như chính cái cửa Ô Quan Chưởng hơn hai trăm năm nay vẫn đứng đó thi gan cùng tuế nguyệt!  
Người thứ hai là một bà già, chưa tới sáu mươi tuổi nhưng tóc đã bạc trắng. Tuy nhiên, cũng giống như ông già, từ khuôn mặt đến dáng người đều thể hiện một thể lực còn mạnh mẽ, như là sự thách thức với tuổi già, với thời gian. Bà già thường đem theo một tấm gỗ bằng cái mặt bàn nhỏ và một cái giá đỡ cũng bằng gỗ. Khi bà già dựng cái giá đỡ bằng gỗ ấy lên, đặt tấm ván gỗ lên trên thì nó thành một cái bàn bán vé xổ số. Những xếp vé số nhỏ được ghim vào mặt tấm ván thành hàng lối như một đội quân nhỏ! Việc bán vé số của bà già đều đặn hàng ngày, sáng từ bảy giờ sáng đến khoảng mười giờ, chiều từ bốn giờ đến giờ quay số. Bán vào buổi chiều có khi còn được nhiều hơn cả buổi sáng bởi vào lúc giờ tan tầm, những viên chức Nhà nước muốn cầu may vào “phút thứ 89” cho nên không tiếc tiền! Tuy nhiên, việc bán được nhiều hay ít cũng đều không có ý nghĩa gì đối với bà già bởi cứ hai hoặc ba ngày, bà lại bị kẻ gian lừa (đổi vé giả hoặc lấy trộm vé trên bàn). Tổng kết hàng tuần, chưa tuần nào bà có lãi mà chỉ từ hòa vốn xuống lỗ vốn! Tuy thế, bà không thể bỏ công việc bán vé số này bởi việc bà có mặt ở trước cửa Ô Quan Chưởng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khác!  
Người thứ ba là một thiếu phụ khoảng năm mươi tuổi, nhưng khuôn mặt còn tròn trịa, nhuận sắc như khuôn mặt của một thôn nữ. Người thiếu phụ này thường xuất hiện vào buổi sáng, từ sáu giờ tới hơn tám giờ với một thúng xôi gấc đo đỏ và thơm ngậy, khiến ai đã chót ngó nhìn thúng xôi thì không thể không ăn một gói!  
Người thứ tư là một người đàn ông, rất khó đoán tuổi, áng chừng trên dưới sáu mươi, có khuôn mặt và thân hình xương xương, gày guộc nhưng rắn chắc như một pho tượng. Và Người thứ tư này xuất hiện ở Ô Quan Chưởng rồi đứng ở trên vọng lâu, trên nóc cửa chính của Ô Quan Chưởng như một bức tượng: một tay dơ cao như vẫy chào ai, một tay che ngang mày như muốn dõi nhìn ai? Mỗi ngày “Người – Tượng” xuất hiện khoảng bốn giờ đồng hồ, chỉ vắng mặt khi trời mưa to gió lớn.
Người thứ năm, khi thì là một bé trai, khi thì là một bé gái, chưa tới hai mươi tuổi, thường đi theo “Người – Tượng” như một vệ sĩ. Hẳn đó là những đứa cháu của “Người – Tượng”.  
Người thứ sáu và thứ bảy là hai bố con người hát xẩm. Người bố, nhìn hao hao giống như Người-Tượng, chỉ khác là đã bị mù cả hai mắt, luôn đeo cái kính râm đã cũ, “hành lý” chỉ có cây đàn nhị cũng cũ kỹ. Người con gái khoảng hơn hai mươi tuổi, rõ là một cô gái xinh đẹp với nét u buồn thăm thẳm luôn phảng phất trên gương mặt phúc hậu. Cô gái cầm cái song loan nhỏ, vai đeo một cái túi vải bạt. Hai cha con thường xuất hiện ở Ô Quan Chưởng cùng thời điểm với bà bán vé số. Thường là người cha vừa kéo nhị vừa hát, cô con gái điểm nhịp bằng tiếng song loan. Thi thoảng người cha mới để cho cô gái hát thay… 
*  
Ông già “Người-Tượng” mỗi khi tới trước cửa Ô Quan Chưởng thường đứng ngắm nhìn cái cửa ô cũ kỹ, già nua này một lúc rồi nói với người cháu:
- “ Ô Quan Chưởng hay còn gọi là Ô Đông Hà, tên chữ là Đông Hà môn ( 東河門 , tức cửa Đông Hà ), là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm ở phía Đông của tòa thành đất bao quanh Kinh thành Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba (1817) được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay. Đây là một trong 21 cửa ô còn sót lại của thành Thăng Long cũ:
Long Thành bao quản nắng mưa
Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây (*).
Người cháu bao giờ cũng nói:
-Ông nói về Ô Quan Chưởng như kể chuyện cổ tích…
Người ông, tức ông già “Người -Tượng” mỉm cười phúc hậu nhìn cháu rồi lại nói:
- Hiện nay, cửa ô còn nguyên một cửa chính và hai cửa con hai bên. Trên nóc cửa chính là một vọng lâu. Ngày xưa có lính tuần canh gác ở đây. Bên tường phía trái có gắn một tấm bia khắc năm 1882 ghi lệnh của Tổng đốc Hoàng Diệu cấm bọn lính sách nhiễu những đám tang qua lại cửa ô. Từ phố Ô Quan Chưởng có thể dẫn ra 4 phố Hàng Chiếu, Đào Duy Từ, Thanh Hà và Trần Nhật Duật. Thời xưa, ô Quan Chưởng nằm trên đường từ trong thành phố đi ra bờ sông, thuộc địa phận thôn Thanh Hà tổng Hậu Túc (sau đổi là Đồng Xuân), huyện Thọ Xương cũ, cho nên gọi là cửa ô Thanh Hà. Từ cửa ô ra đến bờ sông Hồng là con đường dài tám chục mét. Phía ngoài cửa ô trước kia coi như đất ngoại thành. Phố Ô Quan Chưởng được tính từ đường Trần Nhật Duật đến cửa ô Đông Hà, nối với phố Hàng Chiếu và nối ra phía đê sông Hồng. Phố được hình thành từ thời Pháp thuộc, có tên là Rue des Nattes en joncs (nghĩa là phố Chiếu Cói), chuyên buôn các loại chiếu cói từ Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình chở lên.
-   Tại sao chỉ còn sót lại một cửa ô và tên gọi lại có tên là Ô Quan Chưởng vậy ông? - Người cháu lại hỏi.
  - Sau khi chiếm Hà Nội, người Pháp cho phá hết các cửa ô cùng với một phần các con đê để mở rộng Hà Nội. Còn riêng ô Đông Hà, nhờ có sự đấu tranh kiên trì của nhân dân và của ông cai tổng Đồng Xuân Đào Đăng Chiểu (1845 – 1916), người làng Khúc Thủy (Hà Đông), nên chủ trương đó không thực hiện được. Vì ông Cai tổng cùng với dân chúng nhất định không chịu ký tên vào tờ trình xin phép phá cửa ô nên cuối cùng người Pháp phải nhượng bộ. Nhờ vậy mà đến nay Ô Quan Chưởng vẫn còn giữ nguyên vẹn như kiến trúc xưa.
Còn tại sao Ô Thanh Hà lại được gọi là Ô Quan Chưởng? Theo những điều còn ghi lại trong gia phả của họ Đào thì năm 1873, có một viên quan Chưởng cơ người Bắc Ninh nổi tiếng đánh Pháp, chẳng may bị bắt ở Gia Lâm, quân Pháp giải về Hà Nội chém đầu và đem bêu bên bờ sông Cái phía trước cửa ô Thanh Hà, giao cho Cai tổng Đồng Xuân canh giữ.
Ngay đêm đầu tiên, ông Cai tổng nghe tiếng chó sủa ngoài sông vọng về, cho tuần đinh ra tra xét thì thấy có hai chiếc đò cứ lởn vởn ở khúc sông gần chỗ bêu đầu quan Chưởng cơ. Sợ có người đến lấy đầu của quan Chưởng cơ, ông Cai tổng bèn cho đem thủ cấp vào treo trong cửa ô Thanh Hà.
Hôm sau người nhà quan Chưởng cơ đến thương lượng, xin ông Cai tổng cho chuộc lại thủ cấp. Biết đây là một nghĩa cử phải làm, nhưng để khỏi mang tội với quan trên, ông Cai tổng bèn lên bẩm báo với quan Đốc lý thành phố, xin cho đem thủ cấp trôi sông để giữ vệ sinh trong khu dân cư và được chấp thuận.
Đêm hôm đó, ông Cai tổng trao trả thủ cấp cho gia đình quan Chưởng cơ, rồi sáng sớm hôm sau sai tuần đinh tin cẩn lấy một hòn đất to bọc vải cho vào một cái rọ đem ra giữa sông. Trước khi ném cái rọ xuống sông phải hô to cho mọi người trong bờ nghe rõ: “Theo lệnh quan trên, thủ cấp này phải trầm hà!”. Câu chuyện quan Chưởng cơ bị bêu đầu được lan truyền trong tổng Đồng Xuân, từ đấy ai đi qua cửa ô cũng gọi là ô Quan Chưởng, dần dần về sau cái tên cũ Thanh Hà không được nhắc đến nữa.
- Vậy tại sao trong bài hát Tiến về Hà Nội của nhạc sĩ Văn Cao lại có câu: "Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về, như đài hoa đón mừng nở năm cánh vàng...". Cho nên khi hỏi Hà Nội có bao nhiêu cửa ô, nhiều người đã trả lời 5 và cũng dễ dàng gọi tên 5 cửa ô đó là: ô Cầu Dền, Cầu Giấy, Yên Phụ, Đống Mác, Quan Chưởng …- Người cháu định nói gì nữa nhưng khi thấy người ông đứng lặng thì cũng ngừng lại. Đúng lúc đó, có tiếng đàn nhị réo rắt, nỉ non cất lên rồi vang lên giọng hát trầm buồn của người hát xẩm: đó là những lời thơ đầy cảm khái và bi tráng của bài “ Hà Thành chính khí ca ”(**), như đoạn nói về cái chết bi hùng của Tổng đốc Hoàng Diệu:
... Một cơn gió thảm mưa sầu,
Đốt nung gan sắt, giãi dầu lòng son,
Chữ trung còn chút con con,
Quyết đem gởi cái tàn hồn gốc cây.
Trời cao biển rộng đất dày,
Non Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi!
Thương thay trong buổi gian nguy,
Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung!
Rủ nhau tiền góp của chung,
Rước người ra táng ở trong học đường.
Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường,
Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa...
Khi cha con người hát xẩm hát hết một lượt bài “ Hà Thành chính khí ca ” thì đã thấy “Người-Tượng” đứng trên vọng lâu… 
*  
Thông thường, vào những ngày thời tiết bình thường, thì vào khoảng sáu giờ sáng, người thiếu phụ bán xôi gấc xuất hiện và đến bảy giờ thì lần lượt là bà bán vé số, ông họa sĩ, hai ông cháu Người-Tượng và cuối cùng là hai cha con người hát xẩm. Tất cả sáu người kia, khi đến cửa Ô Quan Chưởng thì chỗ đầu tiên họ tới là thúng xôi gấc của bà bán xôi. Như là có sự chuẩn bị từ trước, có sáu cái ghế con được đặt xung quanh thúng xôi. Song, sáu người kia ngồi ăn xôi như những khách hàng bình thường khác, họ không hề biết nhau. Nhưng người thiếu phụ bán xôi thì biết rõ cả sáu người kia và hiện nay, thúng xôi gấc là nguồn “kinh phí” chủ yếu để nuôi cả sáu người kia!... 
Vào một buổi sáng mùa đông năm 2009, vào lúc bảy giờ, như thường lệ, người thiếu phụ bới xôi gấc cho sáu người kia ăn xong thì nói: “Chúng ta vốn là những người thân thiết mà giờ như những người xa lạ, số phận thật khéo đùa dai. Ông họa sĩ, bà bán vé số và ông “Người – Tượng” vốn là ba người bạn thân cùng học lớp Mười thời Trung học, là bộ ba “Xe Pháo Mã” rất tuyệt vời. Vậy mà mười năm nay, vẫn ngày ngày nhìn thấy nhau mà không nhận ra nhau, coi nhau như người xa lạ…Hôm nay, nhân kỷ niệm mười năm ngày chúng ta hội ngộ, tôi muốn mời tất cả đến gặp một vị bác sĩ thần kinh lừng danh, sẽ có thể giúp chúng ta chữa được cái bệnh quên quái ác này!”.  
Người thiếu phụ bán xôi vừa dứt lời thì có một người gần bảy mươi tuổi, dáng vẻ như một vị giáo sư xuất hiện. Đó chính là vị Bác sĩ thần kinh lừng danh mà người thiếu phụ bán xôi vừa nói, và đó cũng chính là Bác sĩ phụ trách Đội điều trị dã chiến hồi chiến tranh mà cô Y tá Hiền, giờ là người bán xôi từng phục vụ. Vị Giáo sư, Bác sĩ thần kinh ấy nói: “Tôi đã tới rồi đây. Gặp mọi người ở đây mới thật đúng người đúng cảnh. Có phải vậy không?”. Tức thì ông họa sĩ già nói: “Phải rồi! Chính nơi đây, bốn mươi năm trước, tức năm 1969, ba người bạn chúng tôi đã chia tay nhau, tiễn đưa tôi vào chiến trường, khi chưa kịp bảo vệ Luận văn Tốt nghiệp Đại học. Lúc chia tay, tôi và Hoa đã có đính ước và hẹn nhau sẽ gặp lại nhau tại đây, ngày trở về!”. Ông họa sĩ già như chưa nói hết, thì bà bán vé số đã nói át đi: “Ông có biết tôi đã đợi ông suốt ba mươi năm qua ở đây không? Đến lúc gặp lại thì ông lại không nhận ra tôi! Ông có biết cả Hải cũng đã tới đợi cùng tôi vì anh ấy lo sợ cho sự an toàn của tôi đó! Giờ thì anh ấy thành “Người-Tượng” rồi, không biết đến bao giờ mới nhận ra chúng ta?”. Người thiếu phụ bán xôi gấc định nói gì thì vị Giáo sư Bác sĩ Thần kinh ra hiệu xin nói trước: “Bây giờ tôi có thể tuyên bố với mọi người: Chỉ có ông Người -Tượng là chưa có biến chuyển. Bà Hoa bán vé số đã hồi phục trí nhớ tới 99, coi như là khỏi. Còn ông Hà họa sĩ thì đã hồi phục trí nhớ được 80 đến 90, có dấu hiệu rất tốt. Tôi có thể kiểm tra lại ngay bây giờ”, và quay sang hỏi ông Họa sĩ: “Ông Hà, ông có biết người kéo nhị hát xẩm kia là ai không?”. Ông họa sĩ nhìn người kéo nhị khoảng hai, ba phút thì reo lên: “Thằng Cao Sơn, cây ghi-ta của Đại đội tôi chứ còn ai nữa!”. Hai người bạn lính ôm chầm lấy nhau mà không nói nên lời. Hồi lâu, ông họa sĩ Hà mới nói: “Tại sao lại phải đi hát xẩm, tội nghiệp quá trời?”. “Thì để được gặp lại thằng bạn khói lửa là mày mà thôi!”- Người hát xẩm không nói gì nữa mà lấy cây nhị ra kéo một bản nhạc “Ngày trở về”.
Nghe xong bản nhạc, ông họa sĩ già nói: “Mười năm nay, tôi loay hoay vẽ chưa xong bức tranh Ô Quan Chưởng vì bức tranh của tôi luôn thiếu một cái gì đó rất hệ trọng mà tôi không nhận ra. Giờ thì tôi đã nhận ra rồi. Đó chính là bà Hoa, người ngồi đợi tôi suốt bốn mươi năm qua ở cái cửa Ô Quan Chưởng này!”. Và chỉ trong khoảng thời gian hai mươi phút, một bức tranh Ô Quan Chưởng mới đã hình thành: trên hình nền là cái cửa Ô Quan Chưởng, có một cô gái lúc ẩn lúc hiện, lúc già lúc trẻ, đó chính là bà Hoa bán vé số của bốn mươi năm trước cho đến ngày hôm nay!...
Mãi cho tới lúc mọi người ra về để chuẩn bị cho buổi gặp mặt vào buổi tối, vừa là để kỷ niệm 40 năm ngày xa nhau, mười năm ngày gặp lại và 60 năm ngày sinh nhật của ba người, người kéo nhị hát xẩm mới níu vị Giáo sư – Bác sĩ Thần kinh lại mà hỏi: “Vậy trong mười năm qua, ông đã dùng phương pháp gì, thuốc gì để chữa bệnh mất trí nhớ của bộ ba ấy?”. Vị Giáo sư-Bác sĩ Thần kinh cười phúc hậu, nói hồn nhiên như trẻ nhỏ: “Rất đơn giản: Phương pháp là ghi khắc lại những hình ảnh đẹp của quá khứ và thuốc duy nhất là xôi gấc đó!”…/.
Sài Gòn, 2009-2010
Đỗ Ngọc Thạch
 (*) Ca dao. Hiện nay, Ô Quan Chưởng đã “được” tân trang, dáng vẻ cổ kính xưa chỉ còn trong ký ức Người Hà Nội.
(**) Tác giả là Ba Giai – Nguyễn Văn Giai.
 **
Thượng Kinh ký sự (Hay là Ba lần tới Thủ đô)  

Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch

1. Giáo đầu
Cứ tưởng cái đầu mình là “Của kho vô tận”, tôi thả phanh viết búa xua đủ các kiểu, bỗng một hôm ghé mắt nhìn vào cái “Kho” thấy trống trơn! Hốt hoảng, tôi thu dọn tất cả tài liệu, sách vở vào trong cái thùng giấy cứng (vốn là cái hộp giấy đựng tivi to tướng) rồi định đi “bụi đời” tìm cảm hứng! Ai dè vừa bước ra cửa, đụng ngay mấy người hàng xóm đang cãi lộn dữ dội, xem chừng muốn chuyển qua đánh lộn! Nhớ lời mẹ dặn lúc còn nhỏ rằng, thấy đám cãi lộn, đánh lộn là phải tránh xa, tôi vội quay trở lại, trèo lên gác… ngồi Thiền!

Ngồi được ba phút thì Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt, râu tóc trắng như mây trắng, không khác gì Đại Tiên Thái Thượng Lão Quân. Tôi chưa kịp hỏi thì Hải Thượng Lãn Ông nhẹ nhàng nói: “Con mở thùng sách của con ra, trong đó có cuốn “Thượng Kinh Ký sự” của ta, con hãy đọc kỹ lại thì sẽ tỉnh ngộ!” Đoạn Hải Thượng Lãn Ông ghé tai tôi nói nhỏ một câu, dặn phải giữ bí mật, nên tôi không thể ghi ra đây được!
Tôi ngồi đọc lại cuốn Thượng Kinh ký sự một ngày… Những gì tôi viết dưới đây là do cuốn Thượng Kinh Ký sự gợi ý!

2. Về Thủ đô lần thứ nhất

Đó là những ngày đầu giải phóng Thủ đô… Bố tôi hồi đó ở Quân Y của Sư đoàn 308, đã về Hà Nội trước cùng với đơn vị, mấy chị em chúng tôi (lúc đó chúng tôi đã có 5 chị em, 2 chị đầu) và mẹ đi sau. Tuy bố tôi đi trước nhưng mọi việc của cuộc di chuyển “bầu đoàn thê tử” bố tôi đã xếp đặt ổn thỏa: chuyến ô tô cuối cùng của Quân Y sẽ đón 6 mẹ con chúng tôi từ Phú Thọ về Hà Nội.

Lúc đó, tôi mới có hơn sáu tuổi, chưa biết Thủ đô Hà Nội như thế nào nên rất háo hức, muốn chiếc ô tô có cái dấu “Hồng Thập Tự” chở chúng tôi phóng thật nhanh! Và quả là xe chạy rất nhanh, tôi chưa kịp nhận biết là đã tới Hà Nội chưa thì xe dừng, mấy chú Quân Y đi cùng xe nói “Tới Thủ đô rồi!”, rồi nhấc bổng mấy chị em chúng tôi xuống đường! Tôi cũng chưa kịp quan sát kỹ con phố mà chúng tôi đứng chân lần đầu tiên nó như thế nào (sau này tôi mới biết đó là đoạn đầu Phố Tràng Thi, phía gần Cửa Nam, còn đi ngược lên là tới Hồ Hoàn Kiếm), thì mẹ tôi đã dắt tay hai chị tôi và bảo tôi dắt tay hai đứa em trai đi theo (Năm chị em chúng tôi sàn sàn tuổi nhau, sinh từ 1945 đến 1951)...Đi được khoảng chục bước thì cậu em sát tuổi tôi giằng tay ra khỏi tay tôi, có lẽ do tôi nắm tay em tôi quá chặt? Thấy người em giằng tay ra, tôi cũng thả luôn bàn tay của người em kế sau ra và đứng lại…sửa sang lại y phục! Cúi xuống chân, thấy dây giày bị tuột (tôi đang đi loại giày Ba-ta của Pháp, khá phổ biến lúc đó), tôi liền ngồi xuống buộc lại dây giày. Buộc xong, tôi đứng lên nhìn quanh thì không thấy hai cậu em trai của tôi đâu! Nhìn ra phía mẹ tôi vừa dắt hai người chị cũng không thấy ai!

Lúc đó là thời khắc chuyển giao giữa ban ngày và ban đêm, vào khoảng gần sáu giờ chiều. Người đi lại trên phố đang nhiều dần lên, chắc dân thành phố thích đi chơi ban đêm? Nếu như ở quê thì giờ này chúng tôi đang ăn cơm tối. Nghĩ tới hai từ “ăn cơm”, lập tức tôi thấy đói bụng, cái bụng như đang réo sôi! Tôi liền mở cái túi vải đeo bên sườn, có dòng chữ thêu trên nắp túi “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, thò tay vào đụng phải cái nắm cơm to bằng quả bưởi. Tôi tính lấy nắm cơm nắm ra ăn thì chợt nghĩ, ai lại ăn giữa đường thế này? Vả lại, phải đi tìm Mẹ và các chị, các em chứ đứng mãi ở đây không phải là cách tốt nhất! Đi vài bước tôi lại nghĩ, nếu lát nữa mẹ quay lại tìm thì sao, với lại tôi đã biết đường phố Hà Nội như thế nào? Nghĩ vậy, tôi quyết định đứng đợi…

Khoảng một khắc, tức mười lăm phút trôi qua, đường phố đã sáng đèn, tôi đang đứng nhìn về phía Cửa Nam có ánh đèn điện nhấp nháy rất vui mắt thì bỗng có một thằng bé trạc tuổi tôi, không biết từ đâu tới và đứng sát trước mặt tôi từ bao giờ, dùng một bàn tay xoa đầu tôi và nói một câu gì đó bằng tiếng Pháp rồi co chân phải định đá đít tôi. Không ngờ tôi lại phản ứng rất nhanh, dùng một tay hất bàn chân của thằng bé lên và tay kia đấm thẳng vào mặt, tức thì nó ngã té ngửa trên hè phố! Thằng bé kêu ối một tiếng và lập tức ngồi bật dậy, tính lao vào tấn công tôi! Nhưng nó chưa kịp hành động gì thì thì bị một cô bé cũng trạc tuổi cản lại với giọng nói rõ ràng, dứt khoát: “Bạn không được đánh nhau! Đó là bài học cho bạn đừng có thấy ai cũng bắt nạt!” Dường như tiếng nói của cô bé có uy lực đặc biệt nên cậu bé kia không nói gì mà chuồn mất tăm!

Nhìn thằng bé đi như chạy về phía Cửa Nam, tôi giật mình khi nghe tiếng cô bé nói: “Hình như bạn lần đầu tới Hà Nội?”. Tôi gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Cô bé lại nói: “Hành động vừa rồi của đứa bạn tôi thật là mất lịch sự, tôi thay mặt Người Hà Nội xin lỗi bạn!”. Tôi nói lí nhí: “Không sao!... Không dám!...”. Cô bé lại nói: “Bạn đứng chờ người nhà hay là bị lạc đường?”. Tôi ngạc nhiên trước cách nói năng rất nhẹ nhàng, dịu dàng của cô bé và nói: “Tôi đứng chờ mẹ tôi! Vì tôi chưa đi khỏi chỗ này nên không thể gọi là bị lạc đường được!”. Cô bé bỗng bật cười, tiếng cười như tiếng chuông ngân! Vừa nghĩ như vậy, tôi liền nói với cô bé: “Bạn có tiếng cười rất hay! Tiếng cười như tiếng chuông ngân!...”. Cô bé nhìn tôi bằng ánh mắt lấp lánh như hai hòn bi ve…Tôi lại nói ra ý nghĩ ấy thì cô bé lại cười và nói: “Bạn nói năng như người lớn!... Nếu bạn đồng ý thì tôi sẽ là Người Hà Nội đầu tiên để lại trong bạn ký ức đẹp về Hà Nội: Tôi sẽ dẫn bạn đi dạo vòng quanh Hồ Gươm, ăn Kem ở Nhà Thủy Tạ và tới Nhà Kèn nghe hòa nhạc!...”. Câu nói ấy cứ trở đi trở lại bên tai tôi và quay như đèn kéo quân trước mắt tôi khi chúng tôi đã nghe xong buổi hòa nhạc đặc biệt ở Nhà Kèn!... Đến khi Cô bạn gái dẫn tôi tới địa chỉ mà tôi đoán rằng bố tôi sẽ ở đó là Bệnh viện Đồn Thủy (sau là Bệnh viện Quân đội 108), tôi vẫn chưa kịp hỏi tên và bất cứ một thông tin gì về cô bé!

3.Về Thủ đô lần thứ hai

Tôi đã đi khỏi Hà Nội rồi lại trở về Hà Nội có đến gần trăm lần. Chẳng hạn như thời kỳ tại ngũ đóng quân ở mấy tỉnh xung quanh Hà Nội, thi thoảng lại được các thủ trưởng cho “tranh thủ” về Hà Nội thăm gia đình, họ hàng hoặc “công cán” gì đó cho đơn vị. Hoặc khi học Đại Học phải đi sơ tán ở Hà Bắc, Hà Nam tôi thường xuyên đạp xe đi đi về về mỗi tuần một lần, nhân lên với bốn năm thì không biết là bao nhiêu lần? Khi đi tới các tỉnh phía Bắc tôi đi qua Cửa Bắc, khi đi về phía Nam tôi đi qua Cửa Nam, qua ga Hàng Cỏ rồi xuôi xuống ga Giáp Bát, khi đi về phía Đông, tôi qua cầu Long Biên, khi đi về phía Tây, tôi đi qua Cầu Giấy…Lối đi nào cũng có nhiều điều thú vị, những kỷ niệm khó quên, nhưng vui ít buồn nhiều, không hiểu tại sao?

Lần ấy, tôi đi cùng Trung đội trưởng, làm một cuộc hành trình dài từ Nghệ An ra Hà Nội. Đó là vào thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ đối với miền Bắc rất ác liệt. Đơn vị Ra-đa của tôi lúc đó đang hoạt động ở chiến trường Khu Bốn. Việc tôi được đi cùng Trung đội trưởng về Hà Nội, lúc đó tôi chỉ được biết là: do tôi thông thuộc Hà Nội nên có nhiệm vụ làm người dẫn đường cho Trung đội trưởng, còn Trung đội trưởng ra Hà Nội làm gì thì tôi không được biết vì đó là “Bí mật quân sự”!

Thực ra, tuyến đường mà chúng tôi đi thẳng một mạch từ ga Vinh tới ga Hàng Cỏ là xuống tàu, vào ngay phố phường Hà Nội. Nhưng tôi thích được đi tàu qua cầu Long Biên nên khi tàu tới ga Hàng Cỏ, tôi lôi Trung đội trưởng qua tàu đi Hải Phòng. Lúc đó, Trung đội trưởng đang ngủ gà ngủ gật, không biết mô tê gì, thấy tôi nói phải chuyển tàu thì đi theo mà không hỏi han gì!... Khi con tàu đưa chúng tôi qua cầu Long Biên thì cũng là lúc bình minh hé rạng. Đằng đông, những ngón tay hồng của Nàng Bình Minh đang như mơn trớn trần gian, vạn vật! Nhìn xa xa, dòng sông Hồng uốn lượn như một dải lụa lớn, màu hồng ấm áp, còn hai bên bờ là những vạt ngô đang trổ bắp xanh rờn, như đang nhẹ trôi theo dòng sông!...Một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà không một họa sĩ tài ba nào có thể vẽ nổi!

 Song, khoảng thời gian tuyệt vời đó đã qua mau khi tàu đỗ ở ga Gia Lâm. Lúc đó, nắng vàng đã rực rỡ mà chưa có tàu Hải Phòng – Hà Nội. Chúng tôi đành ngồi đợi trên sân ga. Trung đội trưởng dường như đã tỉnh táo, vươn vai ngáp dài một cái rồi hỏi: “Đang ở ga nào vậy? Sắp tới Hà Nội chưa?” Tôi nói: “Chúng ta đang ở ga Gia Lâm! Gia Lâm là huyện ngoại thành của Hà Nội, chỉ qua cầu Long Biên là vào ngay trong ḷòng Thủ đô!” Trung đội trưởng gắt: “Thôi, đừng dài dòng nữa! Bao giờ mới có tàu vào Thủ đô!” Tôi nói: “Anh hỏi em, em biết hỏi ai? Hình như đầu máy bị hỏng, họ đang sửa, không biết đến bao giờ!” Tôi vừa dứt lời thì tiếng còi báo động vang lên, kèm theo là tiếng nói rất to từ hai cái loa trên sân ga đồng thanh phát ra: “Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội một trăm cây số về hướng Đông! Các lực lượng phòng không sẵn sàng chiến đấu! Người không có nhiệm vụ xuống ngay hầm trú ẩn!...” Tôi vừa nghe xong câu nói, ngoảnh lại không thấy Trung đội trưởng đâu cả! Tôi ngồi ôm hai cái ba lô con cóc, nhìn lên sân thượng của mấy cái nhà lầu cạnh ga, đã thấy những khẩu súng 12,7 ly và cả súng trường của dân quân hướng nòng về phía Đông, sẵn sàng nhả đạn!... Tôi rất thích cái hình ảnh đặc trưng này của Thủ đô Hà Nội, và cũng có ở các thành phố khác trên Miền Bắc những năm chiến tranh chống Mỹ, bởi mỗi khi có còi báo động máy bay địch như thế, là chúng tôi – những trắc thủ Ra-đa đang phải ngồi trong xe hiện sóng kín mít, và cái tin có máy bay địch kia chính là do những trắc thủ Ra-đa sinh ra!...Tôi đang mơ màng suy nghĩ về một trận bắn máy bay địch ác liệt, nòng súng 12,7 ly của tôi đã đỏ rực thì có ai đó đá vào chân tôi, hỏi: “Tại sao đồng chí không vào hầm trú ẩn?” Tôi ngẩng nhìn, thì ra là một cô nàng nhân viên nhà ga. Tôi nói ngay: “Tôi mới bị thương ở chân, không đi được! Trung đội trưởng của tôi đã đi thay xuất của tôi rồi!” Cô gái bật cười khanh khách rồi nói: “Cái anh lính binh nhất này coi thường mạng sống lại còn hài hước nữa chứ, định rỡn mặt Tử Thần hả? Tôi sẽ dìu anh vào hầm trú ẩn!” Cô gái cầm cánh tay tôi định kéo lên thì tôi nắm lấy cánh tay cô gái, thay vì đứng lên, tôi kéo mạnh, khiến cô gái bị bất ngờ, ngã đè xấp lên người tôi!...
Chúng tôi đang lúng túng trong tình huống bất ngờ thì tiếng còi “Báo an” vang lên, cùng với tiếng nói đều đều, chứ không gấp gáp như lúc báo động, của hai cái loa phóng thanh:” Đồng bào chú ý! Máy bay địch đã đi xa!...Mọi sinh hoạt trở lại bình thường!” Cô gái nhân viên nhà ga đứng được lên thì xấu hổ chạy vút đi!...

Khoảng năm phút sau, trung đội trưởng mới quay lại, lấy ba-lô đeo lên vai rồi nói: “Chúng ta đi ra cầu phao! Chưa có tàu thì đi cầu phao! Ngồi chờ ở đây rất nguy hiểm vì nhà ga là mục tiêu ném bom của máy bay Mỹ!” Tôi nghĩ, không hiểu sao Trung đội trưởng lại “Nhát chết” như thế? Lại còn là người rất thích chải chuốt nữa chứ! Là nông dân vùng chiêm trũng Hà Nam đã năm đời, nhưng trong hai cái túi ngực áo lính của anh ta lúc nào cũng có tới hai cái gương và hai cái lược! Hai cái gương để có thể nhìn được phía sau gáy, còn hai cái lược là để “sơ-cua”, lỡ quên ở đâu mà mất thì có cái dùng thay thế ngay, bởi cứ khoảng mười phút là anh ta phải chải đầu một lần, mỗi lần phải hơn chục nhát lược!...

Chúng tôi đi dọc theo bờ sông Hồng… Những vạt ngô đang kỳ trổ bắp thật là ngoạn mục! Ra tới cầu phao mới biết là ban ngày thì tháo ra năm phao cho thuyền bè đi lại, đến tối mới nối cho xe pháo và người bộ hành qua lại. Chúng tôi chui vào một vạt ngô, trải tấm ni-lông dã chiến ra và ngồi ăn lương khô! Trung đội trưởng ăn xong thì lăn ra ngủ ngon lành, lại còn ngáy nữa chứ! Tôi vốn không thích nằm cạnh người ngủ ngáy nên đứng dậy, tính đi dạo một lúc trên bờ bãi Sông Hồng đẹp như mơ này thì một cô gái bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt! Tôi vừa kịp định thần nhận ra chính là cô gái nhân viên nhà ga ban nãy thì cô gái lừ lừ nhìn tôi nói: “Thì ra là anh lính ở trên sân ga!...” Tôi làm điệu bộ chào lễ phép rồi nói: “Thì làm sao ạ? Có phải chúng ta có duyên nợ hay không mà lại gặp nhau nơi phong cảnh hữu tình này?” Cô gái trợn mắt la to: “Duyên nợ cái con khỉ! Anh đừng hòng dở trò ra với tôi lần nữa! Cuốn gói đi ngay chỗ khác để tôi chăm sóc bãi ngô của tôi!” Tôi cũng lấy giọng nghiêm nghị đáp lại: “Chúng tôi, chiến sỹ lực lượng Phòng không – Không quân đang trên đường làm nhiệm vụ, không ai được gây trở ngại! Tôi đề nghị được người dân hỗ trợ, giúp đỡ, cho chúng tôi nằm ngủ trên vạt ngô chờ nối cầu phao!” Cô gái khẽ nhếch mép cười, liếc nhìn Trung đội trưởng đang ngủ ngon lành, rồi hạ giọng: “Thôi được, cho các nghỉ nhưng phải chuyển cho tôi thư và quà tới bố của tôi đang chiến đấu ở chiến trường Khu 4 ác liệt, tên là Trần Đình Hợi, hòm thư X”. Nghe xong tên và hòm thư của bố cô gái, tôi reo lên: “Trời!...Đó là Thủ trưởng Trung đoàn của tôi! Ông thường xuống đơn vị tôi mỗi khi đơn vị có nhiệm vụ đặc biệt!” Cô gái còn tỏ vẻ bất ngờ hơn tôi và thế là chúng tôi trở nên thân mật như…cá với nước! Cô gái nói đã ba năm bố cô chưa về thăm nhà, cô rất muốn gặp bố mà không biết làm sao! Tôi nhận lời chuyển thư và quà cho bố cô, cô liền chạy về nhà, chỉ mười phút sau đã quay lại, thì ra nhà cô gần đó và cô đã chuẩn bị từ trước! Nhìn tên cô gái trên phong thư “Trần Thị Ga” tôi thoáng nghĩ, chắc là cô gái đẻ rơi trên sân ga! Khi hỏi chuyện thì quả nhiên là như vậy! Thấy tôi giỏi “đoán mò”, Ga nói: “Anh có biết xem tướng không? Em sẽ lấy chồng làm gì và bao giờ thì cưới?” Tôi làm bộ lẩm nhẩm bẩm đốt ngón tay rồi nói: “Cô có tướng vượng phu ích tử, chồng cô sẽ là người tài và thành đạt. Có lẽ chỉ hai năm nữa là cô sẽ lên kiệu hoa lấy được chồng như ý!”…Tôi vừa ngừng lời thì Trung đội trưởng ngồi bật dậy, nói: “Ai đã phá giấc ngủ của ta, sẽ bị phạt!...À, thì ra là anh chàng Binh nhất láu tôm láu cá! Đi mua ngay cho ta một chai rượu!” Tôi đã quen với “cái vụ sai vặt” nên chạy đi ngay!

Tôi đi dạo một vòng phố xá thị trấn Gia Lâm, ăn một bát phở gà thơm phức rồi mới xách chai rượu trở về ruộng ngô cho Trung đội trưởng, nếu tính thời gian thì phải gần một giờ đồng hồ. Về tới nơi, tưởng rằng sẽ được nghe Trung đội trưởng kể lại “chiến tích chinh phục người đẹp” ai ngờ thấy Trung đội trưởng hai tay ôm “hạ bộ” đang rên i ỉ!...

Đến tối, cầu phao vẫn chưa được nối, hỏi ra mới biết có hai cái phao cầu do không neo buộc kỹ đã bị nước cuốn trôi mất tiêu! Người ta đang khắc phục sự cố! Trung đội trưởng sốt ruột nói: “Chờ cả ngày, giờ lại chờ cả đêm thì biết đến bao giờ? Cậu đi hỏi xem có thuyền nào nhận chở ta qua sông không?” Tôi liền đi hỏi những người dân xung quanh thì họ đều nói, hôm nay có lũ ở thượng nguồn, nước sông dâng cao và chảy xiết, không ai muốn mạo hiểm cả. Tôi bèn nghĩ bụng, mình chưa bao giờ đứng trước sự nguy hiểm thực sự, vậy lần này thử xem sao? Không đả động gì đến chuyện nước lũ kéo về, nước sông chảy siết và dâng cao, tôi nói với Trung đội trưởng: “Không có thuyền nào nhận chở người ban đêm. Tôi thấy chúng ta có thể bơi qua sông!” Trung đội trưởng tròn mắt, nói: “Bơi qua sông? Cậu có điên không đấy?” Tôi bình thản nói: “Lúc nước cạn, cát nổi lên giữa dòng sông, chúng tôi còn ra đá bóng vui lắm! Chúng ta sẽ bơi qua sông ở chỗ có cát nổi lên đó!...Chúng ta đã cùng bơi vượt sông La ở Đức Thọ (Hà Tĩnh), rồi sông Lam ở Nam Đàn (Nghệ An), rồi sông Gianh ở Quảng Bình, chẳng lẽ lại sợ Sông Hồng của Hà Nội, như thế thì làm sao mà dám ngẩng mặt nói chuyện với Người Hà Nội? Anh có biết hồi tôi mới học lớp Một, nhà ở Quân Y viện 103, chỉ vì tôi bơi vượt qua sông Nhuệ mà đám trẻ con trong vùng gặp tôi là cúi rạp chào Đại ca đấy!” Hình như lời “khích tướng” của tôi có tác dụng tức thì, Trung đội trưởng và tôi đi ra ngay bờ sông, cởi quần áo cho vào ba-lô rồi lấy tấm vải ni-lông buộc túm lại thành một bọc lớn, đó sẽ là cái phao cho chúng tôi vượt sông. Khi chúng tôi, chỉ mặc cái quần đùi, vác bọc đồ ni-lông trên vai, bước xuống sông, trông không khác gì đặc công thủy xuất quân! Khi nước tới rốn, tôi quay lại thì thấy Trung đội trưởng vẫn đang ở chỗ nước tới đầu gối! Thấy tôi nhìn lại, Trung đội trưởng xốc lại bọc đồ trên vai rồi bước tới! Nghĩ tới câu thành ngữ “Khi nước đã tới rốn thì cho ngập luôn”, tôi nhào ra giữa dòng nước…

4.Về Thủ đô lần thứ ba

Sau lần tôi và trung đội trưởng bơi vượt sông Hồng thành công, mọi việc dường như xảy ra rất tốt đẹp khiến Trung đội trưởng lại đề nghị cho tôi được đi cùng ra Hà Nội lần nữa, chỉ cách lần trước ba tháng. Lúc tàu dừng ở ga Hàng Cỏ (Ga Hà Nội), Trung đội trưởng mới nói với tôi: “Tớ cho cậu đi “Tranh thủ” lần này là để thưởng công cho cậu đã góp phần vào kết quả rất tốt đẹp của chuyến đi lần trước: Bộ Tư Lệnh Binh chủng đã quyết định điều tớ ra Phòng Tham mưu, từ Thiếu úy phong vượt cấp lên Thượng úy. Cứ cái đà này, chẳng mấy chốc mà lên tá, rồi lên tướng là cái chắc! Vì thế, tớ sẽ vào thẳng Bộ Tư Lệnh. Còn cậu, có thể tới nhà người quen hoặc về gia đình ở Hải Phòng tùy ý! Chủ nhật tới, nếu rảnh thì vào BTL kêu tớ, chúng ta lại đi dạo Hồ Gươm rồi ăn kem Nhà Thủy Tạ, sau đó đi bơi thuyền Hồ Tây!... Nhưng đừng dắt tớ vào mấy chỗ Thư viện Quốc Gia, Bảo Tàng Mỹ thuật hay Văn Miếu gì đó nữa nhé!...Mấy chỗ đó chẳng có gì thú vị cả!...”

Không biết Trung đội trưởng còn nói gì nữa hay không mà tôi thì bàng hoàng, sửng sốt và “Chết đứng như Từ Hải” bởi, thì ra Trung đội trưởng đang thực hiện một âm mưu “chạy chọt” để được ra Hà Nội, như ngoài đời dân sự thường xảy ra! Tôi ngạc nhiên bởi không nghĩ một người lính thời chiến, một sĩ quan – đảng viên – tấm gương cho bọn lính tráng chúng tôi noi theo hàng ngày, lại có hành động “đào ngũ” một cách tinh vi đến như thế! Tôi chỉ ước mình có được đôi cánh để bay trở vào đơn vị, lúc này đơn vị đang ở Nghi Lộc, Đô Lương (Nghệ An) hay Can Lộc, Đức Thọ (Hà Tĩnh)? Khi tôi kịp định thần thì không thấy Trung đội trưởng đâu nữa mà mấy người xích lô xúm vào lôi lôi, kéo kéo! Đúng lúc tâm trạng hỗn độn như vậy, tôi vụt nhớ đến cái lần về Hà Nội đầu tiên, gặp em ở đầu phố Tràng Thi!... Tôi liền nói với người xích lô chở tôi tới đầu phố Tràng Thi. Khi tôi và người xích lô đang cò cưa về tiền công chở tôi từ Ga về thì một cô gái xuất hiện, như một Nàng Tiên, chợt hóa thành cái cô gái bé nhỏ mà tôi đã gặp 14 năm trước!...Thật khó mà tin được đó lại là sự thật: đó chính là cô bé đã gặp tôi ở chính chỗ này khi tôi tới Hà Nội lần đầu 14 năm trước! Chỉ nhìn tôi khoảng một hay hai phút, cô gái nói: “Anh chính là cậu bé tôi đã gặp 14 năm trước ở đây!...”.

Giải quyết xong “vụ xích lô”, cô gái mời tôi vào nhà, chỉ cách “điểm dừng lịch sử” vài bước chân. “Em đã nằm mơ thấy người bạn bé nhỏ là anh của 14 năm trước hoài! Đêm qua cũng vậy, còn thấy rất rõ ràng là sẽ gặp lại ở chính chỗ này! Vì thế, suốt ngày hôm nay, em cứ ngóng nhìn ra đây và quả nhiên đã “tóm” được anh!...Em đã là cô giáo, còn anh chỉ là một anh lính Binh Nhất, vì thế anh phải nghe theo sự sắp đặt của em!...” – cô gái nói một tràng mà tôi nghe như là cô đang hát những liên khúc dài bất tận, bởi khi cô ngừng nói – thì tôi đã thấy mình đã tắm rửa sạch sẽ, ngồi bên một mâm cơm hương thơm ngào ngạt!... Hương, tên cô gái, ngồi tiếp tôi ăn cơm và kể cho tôi nghe biết bao nhiêu chuyện. Thì ra, Hương cùng tuổi với tôi, là người Hà Nội đã ba đời, cha mẹ đều là nhà giáo từ thời Pháp thuộc, hiện vẫn còn dạy ở trường Chu Văn An. Hết lớp 10, Hương học ở Trường Sư Phạm 10+3 rồi dạy cấp 2 ở ngoại thành…

Hôm sau, Hương dẫn tôi tới những chỗ lần đầu tiên tôi đến Hà Nội, Hương đã dẫn tôi tới: Hồ Hoàn Kiếm, rồi vào nhà Hàng Thủy Tạ, rồi Nhà Kèn, v.v.…

Ở nhà Hương một ngày, tôi qua cầu Long Biên tới Ga Gia Lâm tìm cô gái có tên Ga để báo tin rằng bố cô đã hy sinh. Nhưng khi tới Ga thì chỉ gặp mẹ cô, cũng làm việc ở Ga. Bà nói cô đã tình nguyện vào chiến trường chiến đấu, sau khi gia đình nhận được giấy báo tử!

Khi người ta không giải thích được nhiều nỗi buồn cùng đến một lúc thì người ta thường trở về với cái nơi người ta đang sống. Vì thế, tôi chỉ ở lại Hà Nội thêm một ngày, đi lang thang khắp nơi, rồi trở về đơn vị…Hương tiễn tôi ra ga, khi gần chia tay, Hương nói: “Nếu chúng ta có duyên thì chỉ một, hai năm nữa là sẽ gặp lại. Ông bố mình rất giỏi xem tướng, nhìn tướng bạn, ông bảo chỉ hai năm nữa là bạn sẽ trở lại con đường học hành mà thôi!” Nghe Hương nói vậy, tôi nghĩ là cô nói đùa cho vui, ai ngờ đúng hai năm sau, tôi trở lại trường cũ thật. Nghĩ tới lời nói của Hương khi chia tay, tôi tới phố Tràng Thi tìm Hương, nhưng thấy cửa nhà đóng khóa im ỉm. Người hàng xóm cho biết Hương đã đi lấy chồng được một tháng!...

*
Được trở lại học, đó là điều không phải dễ dàng, vì thế tôi lấy đó làm vui và quyết “Làm lại từ đầu”. Tuy nhiên, cũng có lúc buồn chán, tôi thường thả bộ dọc con đường Nguyễn Trãi trước cổng trường (là Khu Thượng Đình – đối diện nhà máy Cao-Xà-Lá Hà Nội)… Một hôm, đi mãi, qua Ngã Tư Sở thì tôi rẽ vào đường Sân Bay từ lúc nào không hay! Đây là con đường dẫn vào Bộ Tư Lệnh Binh chủng Ra-đa, có những ngôi nhà mới xây rất đẹp, hình như đang cùng nhau “ăn tân gia”. Và thật bất ngờ, đứng ở trước cổng một ngôi nhà hoành tráng đó là cô gái Hương Tràng Thi và bên cạnh là một viên sĩ quan đeo lon Thiếu Tá, và tôi không thể gọi một cái tên khác mà phải thốt lên: “Trung đội Trưởng của tôi!”.

Sài Gòn, 2008-2009
Đỗ Ngọc Thạch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét