Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

75 truyện ngắn ĐNT trên vanchuongviet - Trích:...mùa đông; ...Hậu Lê




75 Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên vanchuongviet.org
 Trích: Cánh đồng Mùa Đông;...Hậu Lê

Tổng số : 75
 
Đấu trường 100 (truyện ngắn)
Địa sứ (truyện ngắn)
Đám Cưới Vàng (truyện ngắn)
Anh hùng thọ nạn (truyện ngắn)
Ô Đống Mác (truyện ngắn)
Ô Chợ Dừa (truyện ngắn)
Ô Quan Chưởng (truyện ngắn)
Băng nhân (truyện ngắn)
Bạn học đại học (truyện ngắn)
Bạn học lớp hai (truyện ngắn)
Bạn học lớp năm (truyện ngắn)
Ba chìm bảy nổi (truyện ngắn) 
Ba Lần Thoát Hiểm (truyện ngắn)
Bà Nội (truyện ngắn)
Bà Ngoại (truyện ngắn)
Bác Sĩ Thú Y (truyện ngắn) 
Báo hiếu (truyện ngắn)
Cắm sừng (truyện ngắn)
Cánh đồng mùa đông (truyện ngắn)
Cô Dâu Gặp Nạn (truyện ngắn)
Cô giáo mầm non (truyện ngắn)
Chị em sinh ba (truyện ngắn)
Chuyện một nhà báo (truyện ngắn)
Chuyện ngày tết (truyện ngắn) 
Dòng Sông Ám Ảnh (truyện ngắn)
Em ở Tây hồ (truyện ngắn)
Giai Điệu Mùa Hè (truyện ngắn)
Hai lần bác sĩ (truyện ngắn)
Kén vợ kén chồng (truyện ngắn)
Ký Ức Làm Báo - 2 (truyện ngắn)
Ký Ức Làm Báo - 3 (truyện ngắn)
Ký ức làm báo (truyện ngắn)
Kiếm sống (truyện ngắn)
Kiếm Sống 2 (truyện ngắn)
Lấy Vợ Xấu (truyện ngắn)
Lệnh Phải Thi Đỗ (truyện ngắn)
Làng nói trạng (truyện ngắn)
Lý Toét (truyện ngắn)
Ma lai (truyện ngắn)
Mùng ba tết thầy (truyện ngắn)
Nữ võ sĩ huyền đai (truyện ngắn)
Núi lở (truyện ngắn)
Người chép sử (truyện ngắn)
Nghêu, Sò, Ốc, Hến (truyện ngắn) 
Nhà tiên tri (truyện ngắn)
Quận He (truyện ngắn)
Sự tích chim đa đa (truyện ngắn)
Tướng sát phu (truyện ngắn) 
Tam Thập Lục Kế (truyện ngắn)
Táo quân truyện (truyện ngắn)
Trộm long tráo phụng (truyện ngắn)
Y tá xã (truyện ngắn)
Trích đăng: 
Có một hậu duệ của nhà Hậu Lê 



Cánh đồng mùa đông Đỗ Ngọc Thạch

Chử Đồng Tử và người cha nghèo đến nỗi hai cha con chỉ có một cái “quần đùi”, ai có việc đi ra ngoài thì mới mặc, còn người ở nhà thì “khỏa thân”. Khi người cha sắp chết, người cha đã đã dặn giữ lấy cái “quần đùi” đó mà mặc, nhưng Hiếu Tử Chử Đồng Tử đã mặc “quần đùi” cho cha rồi mới chôn, nên không còn gì mà mặc nữa! Nếu không có chuyện gặp Công chúa Tiên Dung trong cảnh ngộ “trần như nhộng” thì có lẽ Chử Đồng Tử sẽ “khỏa thân” suốt đời!...
Khi còn nhỏ, đọc cái chuyện về Chử Đồng Tử, tôi không tin lại có người nghèo đến như thế. Nhưng sau này, có nhiều dịp sống ở những vùng nông thôn, tôi đã gặp không ít những “Cha con Chử Đồng Tử” như thế. Chỉ có điều khác là không có cái đoạn gặp Công chúa Tiên Dung đi tắm! 

Tôi nhập ngũ vào Mùa Đông, tháng 12 năm 1966, được biên chế vào một Đại đội Ra-đa độc lập. Trung đội chúng tôi đặt máy Ra-đa trên một con đê của một con sông đào, vốn là thuộc hệ thống của công trình Đại Thủy Nông Bắc Hưng Hải nổi tiếng một thời. Con đê lúc này đã cây cối xanh tốt, trên mặt đê từng thảm cỏ xanh rờn. Nếu không giới thiệu thì không thể hình dung ra chỉ mấy năm trước đây còn là Đại Công trường đào sông đắp đê nhộn nhịp chấn động cả vùng đồng bằng Bắc Bộ. Phải nói sơ qua về cái Đại Công trường Thủy Nông này bởi nhân vật của truyện ngắn “Cánh đồng Mùa Đông” này chính là người đã từng được phong danh hiệu “Kiện tướng” của công trường Đại Thủy Nông này: ông Trần Phu. Song, không biết có phải cái danh hiệu “Kiện tướng” kia đã hại ông hay không mà vừa được phong danh hiệu “Kiện tướng” hôm trước thì hôm sau ông bị tai nạn: Khi đang gánh đất từ dưới hố sâu lên bờ đê thì Trần Phu bị trượt chân, lăn ngược trở lại dưới đáy hố và thật rợn người khi người xắn đất ở dưới hố vừa phóng lưỡi mai xuống đất thì bàn chân của Trần Phu lao tới, lãnh trọn nhát mai sắc lẹm và sức phóng rất mạnh của người thủ mai! Trần Phu đã bị mất gọn cả bàn chân!...

*
Những người lính Ra-đa chúng tôi dựng nhà bạt trên mặt đê, chỉ cách ụ máy phát sóng khoảng 50 mét. Ăn uống thì cử người đi vào nhà bếp của Đại đội ở đầu làng, cách bờ đê khoảng nửa cây số, gánh cơm nước về (những người tân binh chúng tôi thường được vinh dự làm việc này!). Tắm rửa, giặt rũ thì ra bờ con sông đào, nước thì thoải mái dùng không hết nhưng “phù sa” đỏ ngầu, cái khăn mặt chỉ dùng tới ngày thứ ba là đỏ màu phù sa! Điều kiện sinh hoạt ăn ở tuy có khó khăn nhưng hình như đối với những người lính trẻ, chuyện đó không quan trọng. Quan trọng nhất là mùa Đông gió lạnh, sống trên bờ đê cao là lãnh đủ mọi đợt gió mùa Đông Bắc! Song, cái lạnh của Mùa Đông sẽ tan biến hết nếu như trái tim được sưởi ấm!


Vì thế việc quan trọng nhất là lúc nào được vào Làng để gặp gỡ, tâm tình với các thôn nữ mười phần thùy mị, nết na và xinh đẹp!...
Việc vào Làng lúc đó được gọi là “Dân vận”. Mục đích của công tác Dân vận là làm sao để “Đi dân nhớ, ở dân thương”. Song, khẩu hiệu đó không cần phải hô lên vì lúc đó, người dân, mà chủ yếu là các cô gái quê, biết thương ai ngoài mấy anh lính trẻ, biết nhớ ai ngoài mấy anh lính đáng yêu! Mà thực ra, quân đội ta đã có truyền thống “Quân với dân như cá với nước” từ khi mới ra đời! …

Mỗi lần đi Dân vận là chúng tôi phải đi thành từng tổ Ba người, đây có lẽ là tổ chức nhỏ nhất trong quân đội, có từ thời kháng chiến chống Pháp, lúc đó gọi là “Tổ Tam tam”. Có lẽ việc hình thành hình thức tổ chức Tổ Ba người xuất phát từ câu ca dao cổ “Một cây làm chẳng nên non / Ba cây chụm lại nên hòn núi cao!” Nếu đúng là như thế thì công tác chính trị tư tưởng trong quân đội đã làm được một điều kỳ diệu: Tổ Ba người - Đó chính là hạt nhân tạo nên sức mạnh bách chiến bách thắng của quân đội ta! Tổ Ba người của chúng tôi gồm có ba người, gọi theo tên Khoa mà lúc người đó nhập ngũ thì là: Toán, Lý và Hóa, trong đó Lý là Tổ trưởng, Hóa Tổ phó và Tôi – Toán, tổ viên. Khi đi dân vận, Lý thường ngồi trò chuyện tâm tình với gia chủ, Hóa chăm lo việc thăm hỏi người già, Toán lo chuyện trẻ em!

Lần đi Dân vận đầu tiên, chúng tôi được giao nhiệm vụ giúp nhân dân làm vệ sinh nhà cửa, có nghĩa là nếu thấy nhà nào sống không hợp vệ sinh thì vận động sống cho hợp vệ sinh. Thời gian là cả buổi sáng ngày Chủ nhật, từ bảy giờ sáng đến 12 giờ trưa! Xin nói thêm là cho đến lúc chúng tôi đi làm công tác Dân vận vận động nhân dân sống hợp vệ sinh (những năm cuối thập niên 1960) thì về cơ bản mà nói, ở nông thôn vẫn còn nhiều nơi sống chưa hợp vệ sinh như dùng nước tắm rửa nơi Cầu ao (đó chính là nguyên nhân làm cho cả làng mắt toét), chuồng trâu, chuồng lợn liền kề với nhà ở, có nhiều nơi nhà bếp chung một chỗ với chuồng lợn (đó chính là nguyên nhân ruồi muỗi đầy nhà, cộng với việc ngủ không có màn mùng khiến các cô gái và trẻ em trên mặt luôn có vết muỗi đốt lấm tấm đỏ), đại tiểu tiện lung tung, ỉa cầu ao (gọi là “Cầu Tõm”), ỉa ngoài đồng (sướng nhất Quận Công, sướng nhì ỉa đồng), vẫn là phổ biến,v.v…

Nhà đầu tiên mà Tổ ba người chúng tôi vào là nhà ông Trần Gian, nguyên Chủ tịch Xã, Thương binh Chống Pháp. Hai vợ chồng ông Trần Gian đều đã ngoài sáu mươi tuổi, ông đi lại phải dùng nạng vì đã mất một chân, bà đi lại phải chống gậy vì lưng đã còng! Nhìn hai ông bà không còn mấy sức sống này, không ai dám nghĩ là ông bà lại có hai cô con gái xinh đẹp như Tiên nữ giáng trần! Ông Trần Gian nói ngay với Tổ Trưởng Lý: “Nhà tôi có cái việc rời chuồng Lợn ra góc vườn mà lần khân mãi vẫn chưa làm được, chỉ tại vợ chồng tôi đều già yếu, mà có hai đứa con gái lớn thì hai năm nay lại đi trực chiến bắn máy bay Mỹ hoài, không có lúc nào rảnh!...Các chú làm giúp nhà tôi được việc này thì tôi gả ngay hai cô con gái mà không thách cưới gì cả!” Tổ trưởng Lý nói ngay: “Bác nhớ giữ lời nhé!” và ra hiệu cho chúng tôi làm việc ngay!...Chỉ hơn một giờ đồng hồ, cái chuồng lợn nằm sát góc vườn đã hoàn thành giống như trong chuyện Thần Tiên! Khi chúng tôi làm xong cái chuồng Lợn thì đúng lúc hai cô con gái ông Trần Gian đi chợ đã trở về! Ông Trần Gian nói ngay: “Đó, hai đứa con gái tôi đã hứa gả cho các chú đó! Các chú hỏi em nào ưng ai thì ta làm đám cưới ngay!”. Tổ Trưởng Lý hội ý chớp nhoáng và đi đến quyết định: “Tổ trưởng Lý cô chị, Hóa cô em, còn Toán dự bị!”. Khi hai cô gái biết được quyết định đó thì cô chị nói: “Để em dẫn anh Toán sang nhà ông chú Trần Phu, cô con gái ông Trần Phu còn đẹp hơn chúng em nhiều!”. Nói rồi cô chị, tên Nụ dẫn chúng tôi sang nhà ông Trần Phu.

Nhà ông Trần Phu ở sát hàng rào nhà ông Trần Gian. Ông Trần Phu chính là người được phong danh hiệu kiện tướng rồi bị tai nạn cụt mất bàn chân đã nói ở trên. Sau khi ông Trần Phu bị tai nạn, vợ  ông cũng đột ngột qua đời, khiến cho gia cảnh trở nên vô cùng túng quẫn. Để có tiền làm đám ma cho vợ, ông Trần Phu phải cho hai thằng con trai mới hơn mười tuổi đi ở đợ cho hai nhà giàu trong vùng. Nhà chỉ còn hai cha con – ông Trần Phu và cô con gái Trần Thị Lụa đã 17 tuổi. Ông Trần Phu sau tai nạn, sức khỏe chỉ còn non nửa trước đây, giờ ông chỉ quanh quẩn ở cánh đồng gần nhà, hôm thì mò cua, hôm thì bắt ốc. Lụa có cố gắng hết sức thì cũng không thể làm thay đổi được gia cảnh nhà cô!
  
Khi chúng tôi sang nhà ông Trần Phu thì chỉ có ông ta đang ngồi uống rượu với …mấy quả ổi xanh lăn lóc trên hè! Cô Nụ nói: “Có mấy anh bộ đội sang thăm chú đây! Cái Lụa nhà chú nó đâu rồi?” Ông Trần Phu như không hề say rượu (thực ra mỗi lần gọi là uống rượu, ông chỉ có thể mua được một chén sành nhỏ, có khi phải mua chịu, thì làm sao mà say!), ngồi nói chuyện với chúng tôi rất cởi mở. Ông nói, khi ông chưa bị tai nạn, ông là lực điền khỏe nhất làng, vợ ông là gái đẹp nhất Huyện, anh trai ông là chủ tịch Xã, nhà ông tuy không giàu nhưng kinh tế rất vững! Giờ ông chỉ ao ước tìm chỗ tốt lành cho con gái lấy chồng rồi ông đi gặp bà vợ xinh đẹp của mình nơi Chín Suối, chứ sống mà lắt lay thế này thì chết cho nhẹ gánh! Chúng tôi xúm vào động viên ông, thấy ông ngồi co ro, khoác tấm chiếu rách như người ăn mày, tôi cởi ngay cái áo Đông Xuân cho ông mặc (Mùa đông, mỗi người lính chúng tôi được phát thêm một áo dệt kim Đông Xuân và một áo trấn thủ. Có lẽ tôi còn trẻ khỏe nên thường không thấy lạnh, chưa bao giờ phải mặc cả áo Đông Xuân và áo Trấn thủ. Chỉ mặc một áo lót cổ vuông cũng bằng vải, một áo Đông Xuân và một áo quân phục hai túi ngực là thấy đủ ấm). Ông Trần Phu nhận áo mặc ngay và cám ơn rối rít.

Đang nói chuyện vệ sinh nhà cửa, ( Thực ra nhà ông Trần Phu chẳng có gì để mà mất vệ sinh cả, chuồng lợn, chuồng gà đều không có. Nhà có ba gian thì bố ở một đầu, con gái ở một đầu, gian giữa chỉ chỏng trơ cái phản gỗ lim là có giá. Bàn không, ghế không!) thì cô Lụa, con gái ông Trần Phu đi chợ về. Theo như cô Nụ nói thì sáng sáng, cô Lụa tranh thủ ra chợ bán mớ ốc mà ông bố Trần Phu mò bắt suốt đêm ngoài đồng lấy tiền đong gạo, mua mắm muối là vừa đủ “lương thực” một ngày cho hai bố con! Nhìn thấy cô Lụa đi từ ngoài cổng vào, thật là cảm động: đầu cô đội cái nón đã bong cái vành ngoài cùng, lớp lá mất vành bờm xơm như cỏ mới mọc, như muốn che đi một khuôn mặt xinh đẹp đến ngỡ ngàng! Chiếc áo tơi ngắn có lẽ là vật gia truyền của người mẹ đã chết sớm, choàng lên con trẻ nỗi bất hạnh truyền đời! Thấy tôi nhìn Lụa với vẻ xúc động, cô Nụ nói thật: “Ai cũng bảo hai bố con nhà này như ăn mày! Mà quả là thế, con Lụa nó chưa từng bao giờ mặc áo mới! Nó bây giờ chỉ có ba cái áo vải là mặc được mà đã vá trước vá sau! Đi đâu nó cũng phải khoác cái áo tơi ra ngoài! Thật tội nghiệp!...” Nghe cô Nụ nói đến đấy, mắt tôi thấy cay xè, miệng thấy đắng ngắt! Tôi cởi ngay cái áo sơ-mi quân phục đang mặc, đưa cho Nụ và nói: “Nụ đưa cái áo này cho cô Lụa, tôi mới nhận quân trang hôm qua đấy!”. Tổ Trưởng Lý thấy tôi cởi gần hết áo (chỉ còn cái áo lót cổ vuông – khi phát quân trang, ai cũng chê và chỉ thích áo lót ba lỗ, nhưng tôi lại thích vì có thể mặc thay áo sơ-mi quân phục khi đi ra ngoài vì nó không hở nách, có tay ngắn), Tổ Trưởng Lý cởi chiếc áo Đông Xuân đang mặc đưa tôi mà nói: “Mặc ngay vào kẻo lạnh lại sưng phổi bây giờ!” Cả Lý và Hóa cùng cười (vì tôi thường nói câu “sưng phổi”) nhưng không hiểu sao tôi lại bật khóc!...
  
*

Lần thứ hai đi Dân vận, chúng tôi được giao nhiệm vụ làm Tổng vệ sinh những nơi công cộng: đường đi lối lại trong Làng, Bệnh xá của Xã, Trường Tiểu học của Xã và cuối cùng là Ủy ban Nhân dân Xã. Cùng làm có cả một số thanh niên của địa phương, chuyện trò râm ran như pháo cho nên trời có gió mùa Đông Bắc mà không thấy giá lạnh, rét mướt gì cả… Gần trưa thì chúng tôi làm xong, mọi con đường đi lại trong Làng như mang một bộ mặt mới, quang đãng, sạch sẽ. Chúng tôi vào chơi nhà ông Trần Gian thì thật bất ngờ khi thấy cả ông bố của Tổ Trưởng Lý và bà mẹ của Tổ phó Hóa đang ngồi nói chuyện với nhau rất vui vẻ. Thì ra họ đã bàn bạc và thống nhất với nhau là vào dịp Tết Âm lịch sắp tới sẽ tổ chức đám cưới cho hai cô con gái ông Trần Gian với Lý và Hóa!...

Một lúc sau, Nụ mới “nháy” tôi ra nói nhỏ: “Mấy ngày nay, hai cha con ông Trần Phu đi mò cua bắt ốc ở tận cánh đồng làng bên, ngày nào cũng tối mịt mới về mà cũng không được là bao! Xem chừng  mấy ngày không có gạo mà  ăn rồi!...”. Nghe Nụ nói vậy, tôi chạy ngay về đơn vị, tới nhà bếp nói với Bếp Trưởng Tỷ: “Anh Tỷ ơi, cho tôi xin suất gạo của Tổ ba người Toán Lý Hóa đến nhà ông Trần Gian nấu món cháo Lươn đãi người nhà của Lý Hóa đến hỏi cưới con gái ông Trần Gian cho Lý và Hóa!”. Bếp Trưởng Tỷ nghe nói vậy thì nói : “Chúc mừng các cậu. Con gái ở đây đẹp nổi tiếng, lấy được vợ ở đây là tốt rồi!” Bếp Trưởng Tỷ xúc cho tôi một Ký gạo, rồi lại hỏi: “Cần nữa không?”. Tôi gật đầu thì lại xúc thêm một Ký nữa. Sở dĩ Bếp Trưởng Tỷ dễ dãi với tôi như vậy vì tôi thường được cử xuống phụ giúp nhà bếp những lúc nhà bếp có người ốm đau hoặc đi lấy gạo ở kho…Xách hai Ký gạo, tôi chạy một mạch đến nhà ông Trần Phu. Vẫn chưa thấy hai bố con ông Trần Phu về! Tôi để hai Ký gạo vào trong bếp rồi chạy tới cánh đồng Tam Thiên Mẫu, nơi tôi đoán là cha con ông Trần Phu sẽ tới đó mò cua bắt ốc vì nghe nói cánh đồng này rất nhiều loài vật sống dưới nước sinh sống!...

Đáng lẽ gần trưa thì trời phải hửng nắng và ấm lên một chút nhưng vì có đợt gió mùa Đông Bắc tăng cường cho nên trời lại lất phất mưa mà gió lạnh như quất vào mặt. Cũng vậy, như mọi khi, tôi chỉ chạy bộ khoảng năm phút là người nóng dần lên, có thể cởi dần cho tới hết quần áo rồi nhảy ùm xuống con sông đào, bơi qua bơi lại hai lần, nhưng hôm nay không hiểu sao càng chạy càng thấy lạnh!...

Khi chạy tới gần khu vực cánh đồng Tam Thiên Mẫu, tôi bỗng thấy một đám hơn chục người đang xúm xít xung quanh cái gì đó. Tôi chạy lại đám đông hỏi thì có người nói: “Có hai người đi mò cua bắt ốc bị cảm lạnh đột ngột, đã tắt thở!”. Tôi giật mình, vội lách đám đông vào thì bàng hoàng khi nhìn thấy cả hai người đều mặc áo tơi, người đàn ông thì bên trong mặc chiếc áo Đông Xuân màu xanh của bộ đội, còn cô gái thì mặc chiếc áo quân phục của bộ đội bằng vải Tô Châu vẫn còn mới!...


Sài Gòn, ngày 21,22 -11-2009
Đỗ Ngọc Thạch
Ngày đăng: 27.11.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]











Có một hậu duệ của nhà Hậu Lê Đỗ Ngọc Thạch

Lê Phong Trần tự nhận là dòng dõi vua chúa, thuộc chi nhánh của Lê Chiêu Thống (*). Có người hỏi, tại sao lại nhận cái ông vua bán nước “cõng rắn cắn gà nhà” ấy làm cụ Tổ thì Lê Phong Trần nói: “Tôi không có quyền lựa chọn tổ tiên! Bố tôi bảo vậy thì tôi biết vậy.Ai cũng chê bai, chửi rủa, phỉ nhổ, thật tội nghiệp cho ông vua bạc mệnh này! Tôi cố gắng hương khói đều đặn cho linh hồn ông khỏi cô quạnh!”. Lại hỏi: “Nhưng theo như sử sách đã ghi thì cả hai cha con Lê Chiêu Thống đều chết bên Tàu, làm sao mà còn lại con cháu nữa?”. Trả lời: “Sử sách đâu có ghi lại được hết mọi chuyện? Bậc vua chúa ngày xưa đâu có ít con, đâu có chịu tuyệt tự? Thời gian từ năm 1787 đến năm 1789, vua Lê Chiêu Thống chạy lên mạn Kinh Bắc, rồi Cao Bằng, Thái Nguyên… tập hợp lực lượng để chống lại quân Tây Sơn của Vũ Văn Nhậm (**). Thời gian này, vua sống hòa đồng trong dân gian, đã có bao nhiêu cô thôn nữ được vua ban ân sủng, làm sao mà biết được? Tôi chỉ biết bà cố của tôi là một cô gái Kinh Bắc rất xinh đẹp và đã được hầu hạ bên cạnh vua Lê Chiêu Thống tới chục ngày và sau đó bà đã mang Long thai! Ông của tôi còn giữ được nhiều kỷ vật của bà cố tức của vua Lê Chiêu Thống ban cho bà!”. Khi Lê Phong Trần nói đến đây thì dường như người nghe không còn thắc mắc gì nữa. Gần hai năm lăn lộn khắp mấy tỉnh phía Bắc Thăng Long, Vua Lê Chiêu Thống đã ban ân sủng cho bao nhiêu cô gái và bao nhiêu cô gái đã mang Long thai thì không một sử gia nào trả lời được!

Khi nói đến thời gian vua Lê Chiêu Thống chạy loạn tới vùng Kinh Bắc, Lê Phong Trần còn say sưa kể: “Người dân ở vùng này còn lưu truyền rất nhiều những câu chuyện dã sử gần giống như chuyện về Nguyên Phi Ỷ Lan. Chẳng hạn như chuyện Thứ Phi Ỷ Mít: một lần , vua đang trên đường chiêu tập binh mã thì bị lạc đường, bụng lại đói cồn cào, khiến vua ngất xỉu. Trong giấc ngủ mơ màng, vua thấy Thổ Địa hiện ra nói: “Nhà vua đi về hướng Bắc, chỉ một khắc, sẽ thấy một cây mít cổ thụ đã có ba quả chín thơm phức, đã có người ngồi đợi bổ mít cho nhà vua thưởng lãm!”. Vua nghe theo, tới nơi quả nhiên thấy có một cây mít cực lớn, dưới gốc mít có ba quả rất to, đã chín mõm, tỏa hương thơm phức và có một cô gái rất xinh đẹp, thân hình nở nang cân đối, tràn trề sinh lực, đang tựa gốc mít lim dim ngủ! Khi vua đi lại gần thì cô gái bừng tỉnh, nói giọng như tiếng chuông ngân: “Thần thiếp đợi Bệ hạ đã lâu, xin được phụng mệnh!”. Vua rất mừng, cùng ăn mít với cô gái rất thân mật. Vua ăn mít xong thì không những hết đói mà sức lực như tăng lên bội phần, cùng cô gái ân ái mười phần mãn nguyện. Sau đó, vua phong cho cô gái là Thứ Phi Ỷ Mít, tức bà Thứ Phi tựa cây mít! Tương truyền về sau, bà Thứ Phi sinh đôi được hai hoàng tử, nhưng do phải chạy trốn sự truy sát của quân Tây Sơn nên đã mai danh ẩn tích, không biết lưu lạc nơi nào? Mấy ngày sau chuyện Thứ Phi Ỷ Mít, Vua đi đến một vườn vải thì cũng gặp một thôn nữ đang tựa gốc vải và sau đó cũng phong cho thôn nữ này là Đệ Nhị Thứ Phi Ỷ Vải, tức bà Thứ phi thứ hai, tựa gốc cây vải! Tương truyền bà Phi tựa cây vải này ăn vải nhiều nên sinh hạ tới ba hoàng tử, nhưng sau đó cũng phải mai danh ẩn tích lưu lạc tứ phương!”.

Nghe Lê Phong Trần kể chuyện Thứ Phi Ỷ Mít và Thứ Phi Ỷ Vải, lúc đầu tôi không thể tin được và nghĩ chắc là anh ta sáng tác ra mà thôi. Nhưng khi được mục kích sở thị mít và vải ở vùng này thì quả là không thể không tin vì khi ăn mít và vải ở đây, ta chỉ có thể nói: Không thể ngon hơn được nữa!

*
Lê Phong Trần học cùng khóa với tôi ở Đại học, nhưng khác Khoa, tôi học Khoa Toán còn anh ta học Khoa sử. Chúng tôi chỉ biết nhau khi cùng nhập ngũ một đợt. Khi biết tôi rất thích đọc sách về các nhân vật lịch sử, Phong Trần đã cho tôi hai cuốn sách viết về Napoleon Bonapac, một cuốn viết về Thành Cát Tư Hãn và một cuốn viết về mười ba triều đại Nhà Thanh là “Thanh cung mười ba triều”. Khi đưa sách cho tôi, Phong Trần nói: “Cho cậu những cuốn sách này vì tôi đã đọc nhiều lần và thuộc lòng rồi. Cậu đọc đi rồi sẽ thấy rất thích làm vua, huống hồ là hậu duệ của vua chúa như tôi!”. Tôi hỏi: “Cậu thích làm vua sao không tìm cái trường nào dạy làm vua? Vả lại ở nước ta đâu còn chế độ vua chúa như xưa? Chỉ có vài nước như Thái Lan, Anh…mà thôi!”. Phong Trần bình thản nói: “Đối với lịch sử, không thể nói trước được điều gì, nó đầy bất ngờ như…bóng đá!”. Tôi thầm nghĩ thằng cha này thuộc loại tâm thần, nhưng sau khi đọc xong mấy cuốn sách mà anh ta đưa thì quả là tôi rất thích … làm vua và còn nghĩ rằng nếu mình làm vua thì không thể dẫn đến những kết cục bi thảm như vậy! Trở lại với ý nghĩ về anh chàng Lê Phong Trần, tôi cứ băn khoăn không hiểu anh ta sẽ làm vua như thế nào? Hay là miễn có chữ “Vua” là được chẳng hạn như “Vua bóng đá Pê-lê”? Khi gặp nhau, tôi đem sự băn khoăn ấy ra hỏi thì Phong Trần nói: “Tớ đã làm vua là phải có triều đình với hai hàng bá quan văn võ nghiêm chỉnh chứ đâu phải là chỉ có chữ “Vua” như “Vua bóng đá Pê-lê?”. Khi nghe Phong Trần nói vậy, tôi khẳng định dứt khoát là anh chàng Phong Trần này bị bệnh tâm thần, hoang tưởng hay đại loại như vậy! Song, khi có sự việc sau đây thì tôi lại phải tự “đính chính” là Phong Trần không hề có bệnh tật gì cả!

Sau khi nhập ngũ được khoảng ba tháng, năm người lính chúng tôi được điều động đến một đơn vị mới hiện đang đóng quân trên đồi Đồng Lư, thuộc huyện Quốc Oai, lúc đó là tỉnh Hà Tây. Từ chỗ đơn vị chúng tôi đang đóng quân đến chỗ đơn vị mới là khoảng năm mươi cây số và chúng tôi sẽ phải tự đi đến chứ không có xe pháo đón rước gì cả!

 Khi ra đến đường Quốc lộ số 5, Phong Trần nói là nên vào ngồi trong một quán nước ven đường, ăn uống gì đó thoải mái, khi thấy có xe ô tô mà thùng phía sau trống thì chặn lại xin đi nhờ, cứ nối tiếp từng chặng như thế, khi nào tới nơi thì thôi! Khi vào ngồi trong một quán nước rồi, Phong Trần kêu nước thuốc, kẹo lạc…thoải mái và nói: “Các cậu cứ ăn uống thoải mái, hôm nay tớ đãi!”. Trong khi ăn uống, một người tên là Hận Sĩ, học cùng Khoa Sử với Phong Trần, nói: “Trước khi chia tay nhau, tớ xin đọc tặng những chàng “Sin sin Cos cos” (mấy khoa khác thường gọi dân Khoa Toán như vậy, ba người còn lại chúng tôi đều học Khoa Toán) các cậu ba bài thơ tình, coi như ba người ba bài, mỗi người một bài!”. Tôi liền nói ngay: “Tại sao lại là chia tay, chẳng phải là chúng ta cùng được lệnh đến đơn vị mới sao?”. Phong Trần trả lời ngay: “Đúng là có lệnh ấy nhưng chúng tớ còn có lệnh của Trái tim. Chúng tớ phải về nhà thăm vợ (cả Phong Trần và Hận Sĩ đều là người Hà Bắc, nơi có truyền thống lấy vợ sớm), chưa biết bao giờ mới có thể gặp lại!”. Tôi nói nhỏ: “Như thế chẳng phải là đào ngũ sao? Chúng tớ sẽ nói thế nào với thủ trưởng đơn vị mới?”. Phong Trần nói tỉnh khô: “Thì các cậu cứ nói là chúng tớ bị trúng bom, hy sinh rồi! Các cậu không thấy là mấy hôm nay bom nổ râm ran khắp nơi à?”. Nghe Phong Trần nói vậy, tôi vụt hiểu ra chuyện gì đang xảy ra và thấy câu thơ dân gian đang lưu truyền về tình trạng đào ngũ của bộ đội ta lúc đó thật là đúng: Hà chuồn, Nam trốn, Thái Bình bay / Hà Bắc anh dũng trốn ban ngày / Thanh Hóa mất mùa xin ở lại / Nghệ An, Hà Tĩnh có ai hay?

*

Sau khi chia tay ở cái quán nước ven quốc lộ số 5 đó, phải đến năm 1976, tức mười năm sau, tôi mới có dịp gặp lại Phong Trần, và thật bất ngờ khi gặp lại cả anh chàng nhà thơ Hận Sĩ luôn cặp kè bên cạnh Phong Trần. Thì ra tổ tiên của Hận Sĩ chính là viên quan Tri huyện huyện Yên Dũng, xứ Kinh Bắc, đã có công hộ giá Lê Chiêu Thống khi bị quân Tây Sơn của Vũ Văn Nhậm đánh đuổi khỏi thành Thăng Long, dần dần khôi phục lại được lực lượng ở mạn Cao Bằng, Thái Nguyên. Khi biết chuyện ấy, nhìn lại Hận Sĩ thì quả là anh ta rất có phong cách quan Huyện, lại có cả phong thái thi nhân (các quan tri Huyện thời xưa phần lớn rất giỏi thi phú). Và điều thật bất ngờ đối với tôi là : Hiện Hận Sĩ đang là Chánh Văn phòng UBND Huyện quê hương, và cái ghế Chủ tịch Huyện đã trong tầm tay, chỉ còn là thời gian, sớm hay muộn! Khi biết Phong Trần vừa tốt nghiệp một khóa diễn viên Chèo ở Trường Nghệ thuật Sân Khấu Mai Dịch, đang chờ về đoàn chèo của tỉnh nhà, hiện đang sống “lưu vong” ở nhà Chánh văn phòng UBND Hận Sĩ, tôi ngạc nhiên hết sức mà nói: “Nhìn hai người bên nhau, tớ cứ ngỡ là cái hình ảnh vua Lê Chiêu Thống chạy loạn về Kinh Bắc ngày xưa hiện về! Thật kỳ lạ! Chẳng lẽ lịch sử luôn có những sự trở lại kỳ quặc như thế?”. Phong Trần nói: “Có người muốn mời tớ tham gia một vở chèo lớn và vào vai vua Quang Trung đại phá quân Thanh, nhưng tớ không nhận lời mà sẽ tự làm một vở về thời kỳ gian khó nhất của vua Lê Chiêu Thống, tớ sẽ vào vai vua Lê Chiêu Thống!”. Tôi nghĩ bụng cho là anh ta nói khoác nên không để ý.

Song, khoảng hơn một năm sau thì tôi nhận được lời mời tới xem Phong Trần chạy đường dây một vở chèo viết về vua Lê Chiêu Thống do anh ta vừa viết kịch bản, vừa đạo diễn và vào vai chính là vua Lê Chiêu Thống. Hỏi kỹ thì vở diễn không phải được dàn dựng ở đoàn chèo của Tỉnh mà chỉ do một đội chèo bán chuyên nghiệp của Huyện do Phong Trần và Hận Sĩ gầy dựng, trong đó hơn nửa số diễn viên là nghiệp dư, số còn lại là bạn bè, chiến hữu của Phong Trần và Hận Sĩ, đều là con cháu của những cựu thần nhà Lê mà tụ họp đến giúp. Tuy chỉ là một “đội quân không chính quy”, nhưng khi xem Phong Trần chạy đường dây lần cuối thì quả là không có thể làm tốt hơn. Tuy nhiên, vào thời điểm lúc đó, một vở diễn chỉ tập trung vào việc thể hiện nhân vật Lê Chiêu Thống thì quả là rất khó được duyệt để công diễn. Tôi nói ý ấy với Phong Trần thì anh ta nói: “Buổi tổng duyệt sẽ rất đông người xem, như vậy là tớ mãn nguyện rồi!”. Quả nhiên, buổi tổng duyệt có số người tới xem chật kín cả Hội trường của Ủy Ban Huyện. Khi Phong Trần xuất hiện trên sân khấu trong vai Lê Chiêu Thống, nhìn anh ta không còn là Phong Trần nữa mà là đã trở thành Lê Chiêu Thống của hơn 200 năm trước!

Sau buổi tổng duyệt, tôi tìm gặp Phong Trần thì không thấy đâu cả. Hỏi mấy người thì họ nói Chánh Văn phòng UB Huyện Hận Sĩ đã đưa Phong Trần về nhà anh ta. Tới nhà Hận Sĩ thì thấy anh ta đang ngồi uống rượu một mình. Nhìn thấy tôi, Hận Sĩ nghẹn ngào nói: “Phong Trần không còn là Phong Trần nữa, anh ta đã đã hóa thành Lê Chiêu Thống của hơn 200 năm trước rồi! Anh ta cứ luôn mồm nói những lời thoại của vở chèo, tôi phải điểm huyệt cho anh ta ngủ rồi!”. Nghe Hận Sĩ  nói vậy, tôi không biết là nên vui hay buồn đây? 
  

Sài Gòn, 2005-2010
Đỗ Ngọc Thạch
------------
(*) Lê Chiêu Thống (tên huý: Duy Khiêm, Duy Kỳ; 1765 - 1793), vua cuối cùng của nhà Hậu Lê. Cháu nội vua Lê Hiển Tông, con của thái tử Duy Vĩ, bị Trịnh Sâm giam cầm hơn 10 năm. Năm 1786, quân Tây Sơn ra Bắc lần thứ nhất diệt Trịnh, Lê Hiển Tông mất, Lê Chiêu Thống được đưa lên làm vua. Tính khí nhu nhược. Bị Trịnh Bồng lấn át, Lê Chiêu Thống gọi Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra phò giúp. Năm 1787, khi quân Tây Sơn ra Bắc lần thứ hai diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống phải trốn chạy, cho người sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh.
Tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc Hà, chỉ một trận quét sạch 29 vạn quân Thanh, Lê Chiêu Thống lại phải theo bại quân nhà Thanh chạy sang Trung Quốc. Chiêu Thống lại tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không cho quân. Thân vương nhà Thanh là Phúc Khang An hứa giúp quân cho Chiêu Thống, nhưng lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về. Tháng tư năm đó, theo lời tâu của Hòa Thân và Phúc Khang An, Càn Long phong Nguyễn Huệ là An Nam quốc vương và nhận tiếp sứ của nhà Tây Sơn. Tháng 5 năm Nhâm Tý, tức năm Càn Long thứ 57 (1792), con trai chết, Chiêu Thống thất vọng và chán nản, lâm bệnh rồi qua đời ngày 16 tháng 10 (âm lịch) năm 1793 tại Yên Kinh. Nhà Thanh chôn Lê Chiêu Thống theo nghi thức tước công.
Năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, mở đầu thời kỳ nhà Nguyễn, đã cho sứ giả sang thông hiếu và quy phục nhà Thanh. Nhân đó các bầy tôi nhà Hậu Lê dâng biểu xin trở về nước nhà. Năm 1804, vua Gia Khánh nhà Thanh cho phép đưa linh cữu vua Lê, thái hậu và con trai Chiêu Thống về nước. Tháng 11 cùng năm táng nhà vua ở lăng Bàn Thạch.
(**) Tháng 11 năm Đinh Mùi, Chiêu Thống thứ nhất (1787). Quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy tấn công Bắc Hà. Chiêu Thống sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân chống cự, nhưng trong trận đánh lớn trên sông Thanh Quyết, bị Văn Nhậm đánh tan. Hữu Chỉnh và em là Hữu Du chỉ kịp đem vài trăm quân chạy về Thăng Long.
Tháng 12 năm đó, Văn Nhậm kéo quân tới Thăng Long, Chiêu Thống nghe lời Hữu Chỉnh, bỏ Thăng Long chạy đi Kinh Bắc. Lúc đi, thị vệ và các bầy tôi tản mát bỏ trốn hết. Vua lại phải cho người sang nhờ Hữu Chỉnh đi hộ giá. Khi vua đến Kinh Bắc, trấn thủ là Nguyễn Cảnh Thước, vốn đã bí mật đầu hàng Tây Sơn, đóng cửa thành cáo bệnh không đón. Vua cùng Hữu Chỉnh qua đò sông Nguyệt Đức, đi theo chỉ còn sáu, bảy người, lại bị bọn vô lại cướp mất áo bào. Tình cảnh hết sức thê thảm. Khi Chiêu Thống tới huyện Yên Dũng mới được tri huyện huyện ấy giúp đỡ, xin hộ giá, rồi dần dần khôi phục lại được lực lượng ở mạn Cao Bằng, Thái Nguyên.
Sau đó, Nguyễn Văn Hòa, bộ tướng của Văn Nhậm, đuổi kịp quân nhà Lê. Chiêu Thống thân chinh cầm quân ngự chiến, nhưng thua trận, Nguyễn Hữu Du chết tại trận, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt giải về kinh, rồi bị Văn Nhậm xử tử, quân nhà vua tan vỡ, Dương Đình Tuấn hộ vệ vua chạy sang trại Sơn Lộc. Các bầy tôi khác đều tan tác hết.
Sau đó, Chiêu Thống lẩn quất chạy trốn quân Vũ Văn Nhậm ở mạn bắc sông Nguyệt Đức, khi thì ở huyện Gia Định, lúc lại đi Chí Linh, Thủy Đường, Vị Hoàng. Tháng tư năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ lại ra bắc, vào thành Thăng Long, bắt giết Vũ Văn Nhậm, cho Ngô Văn Sở cai quản binh quyền, đặt Lê Duy Cận làm giám quốc coi việc thờ cúng tôn miếu nhà Lê. Chiêu Thống chạy ra Kinh Bắc lần thứ hai.
Trước kia, khi Thái hậu là mẹ vua đến Cao Bằng, bị các thế lực cát cứ địa phương uy hiếp, bầy tôi nhà Lê là Đốc đồng Nguyễn Huy Túc, phiên thần Địch quận công Hoàng Ích Hiểu, tụng thần Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống bảo vệ Thái hậu và con trai Chiêu Thống qua cửa ải Thủy Khẩu chạy sang Long Châu nhà Thanh, gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh cầu xin cứu viện.
Đỗ Ngọc Thạch
Ngày đăng: 16.03.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
nguồn: vanchuongviet.org 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét