Thứ Ba, 22 tháng 1, 2013

Hải Thượng Lãn Ông...- Đỗ Ngọc Thạch

Hải Thượng Lãn Ông thượng kinh ký sự - Đỗ Ngọc Thạch


Đỗ Ngọc Thạch

Hải Thượng Lãn Ông (“Ông già lười Hải Thượng”) là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác (1720,1724? – 1791). Quê cha ở thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Cuộc đời Lê Hữu Trác phần nhiều gắn bó với ở quê mẹ thôn Bầu Thượng, xã Tình Diệm, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), từ năm 26 tuổi đến lúc mất. Cha là Lê Hữu Mưu (*), mẹ là bà Bùi Thị Thưởng.
 
Khi cha mất, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân. Nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một năm sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, “nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình” (Tựa Tâm lĩnh). Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và để lại bao đau thương, làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt. Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự “bẻ tên cởi giáp” theo đuổi chí hướng mới.
 
Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân đội, giải ngũ về phải gánh vác công việc vất vả “trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu” (Lời tựa Tâm lĩnh), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, nhiệt tình chữa khỏi. Trong thời gian hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường đọc Phùng thị cẩm nang và hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc thấy lạ, bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho. Vốn là người thông minh học rộng, Lê Hữu Trác mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc.
 
Ở Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu “Hải Thượng Lãn ông”. Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là xã Bầu Thượng quê mẹ. “Lãn ông” nghĩa là “ông lười”, ngụ ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó. Mùa thu năm Bính Tý (1754), Lê Hữu Trác ra kinh đô mong tìm thầy để học thêm nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn “từ khước sự giao du, đóng cửa để đọc sách” (Tựa Tâm lĩnh), vừa học tập và chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi khắp vùng Hoan Châu.
 
Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lãn ông đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ Y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng.
 
*
 
Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa Trịnh Sâm (1) triệu về kinh. Lúc này ông đã 62 tuổi, sức yếu lại quyết chí xa lánh công danh, nhưng do theo đuổi nghiệp y đã mấy chục năm mà bộ Tâm lĩnh chưa in được, “không dám truyền thụ riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết, nhưng việc thì nặng sức lại mỏng, khó mà làm được” (Thượng kinh ký sự), ông hy vọng lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ sách. Vì vậy ông nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh, rời Hương Sơn lên đường.
 
Ra kinh đô, vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán (2), Lê Hữu Trác được Trịnh Sâm khen “hiểu sâu y lý” ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu, và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn ông không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, mặt khác ông không thật nhiệt tình chữa mà chỉ một lòng muốn trở về quê nhà, sớm thoát khỏi vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi.
 
Thời gian ở kinh đô, Lê Hữu Trác nhiều lần xin về thăm cố hương Hải Dương, nhưng mãi đến tháng 9 năm 1782, chúa Trịnh mới cho phép ông về. Không lâu sau, ông lại có lệnh triệu về kinh vì Trịnh Sâm ốm nặng. Về kinh ông chữa cho Trịnh Sâm khỏi và cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại trọng thưởng cho ông. Ông bắt buộc phải nhận nhưng bụng nghĩ: “Mình tuy không phải đã bỏ quên việc ẩn cư, nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được” (Thượng kinh ký sự).
 
Sau khi Trịnh Sâm chết vì bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên thay, nhưng Trịnh Cán cũng ốm dai dẳng nên “khí lực khô kiệt”, khó lòng khỏe được. Do nóng lòng trở về Hương Sơn, nhân có người tiến cử một lương y mới, Lê Hữu Trác liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh. Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lãn Ông về đến Hương Sơn.
 
Năm 1783 ông viết xong tập Thượng kinh ký sự bằng chữ Hán tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà chúa – những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm.. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều: chữa bệnh, dạy học, nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm (tập Vân khí bí điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ Tâm lĩnh.
 
Lê Hữu Trác qua đời vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) tại Bầu Thượng, (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở khe nước cạn chân núi Minh Từ thuộc xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn.
 
*
 
Lê Hữu Trác là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc VN, kế thừa xuất sắc sự nghiệp “Nam dược trị Nam nhân” của Tuệ Tĩnh thiền sư (3). Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là công trình y học lớn nhất trong thời trung đại VN và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học.
 
Hải Thượng y tông tâm lĩnh (NXB Y học Hà Nội, 2008 – tái bản), gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm lý, pháp, phương, dược và biện chứng luận trị về nội khoa và ngoại khoa, sản phụ khoa, khoa nhi, cấp cứu… đạo đức y học, vệ sinh phòng bệnh.
 
Tuy chịu ảnh hưởng của y học Trung Hoa nhưng Lãn Ông đã có óc sáng tạo vận dụng y lí hợp với hoàn cảnh khí hậu và thể chất của người Việt Nam và đã sử dụng thuốc Nam để chữa bệnh, như ở các cuốn Lĩnh Nam Bản Thảo, Bách Gia Trân Tàng và Hành Giản Trân Nhu. Nhận định về Lĩnh Nam không có thương hàn, Lãn Ông đã lập ra nhiều phương thang mới ghi ở cuốn Ngoại Cảm Thông Trị. Đặc biệt trong 2 cuốn Dương Án và Âm Án, ghi lại những y án và phân tích về những bệnh đã chữa khỏi hoặc không chữa được. Cuốn Châu Ngọc Cách Ngôn để lại cho chúng ta những điều căn dặn rất bổ ích về chẩn đoán trị liệu và những sai lầm tai hại cần tránh.
 
Bộ sách của ông được đánh giá cao cả trong và ngoài nước. Bộ sách này đã đánh dấu bước tiến mới trong nền y học cổ truyền của Việt Nam, góp phần phát triển nền y học của đất nước.
Bộ sách Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển, nội dung gồm:
 
1. Tập đầu: Có bài Tựa, Phàm lệ mục lục và Y nghiệp phần chương nói về nghề y, thái độ tư cách, khái quát bộ sách và tập thơ Y Lí Thâu Nhàn. 2- Nội Kinh Yếu Chỉ: nêu khái quát về cuốn kinh điển Nội kinh. 3. Y Gia Quan Miện: Khái niệm về Âm dương, Ngũ hành, quẻ số, can chi, mạch yếu. 4. Y Hải Cầu Nguyên: Soạn những lời thiết yếu của các tiên hiền, chú giải kỹ để làm rõ những điều huyền bí. 5. Huyền Tẫn Phát Vi: Nói rõ công dụng mở đầu của ‘Tiên thiên’, máy Âm dương, khiếu Thủy Hỏa và cách phân biệt chứng trạng, dùng thuốc. 6. Khôn Hóa Thái Chân: gồm có công dụng nuôi sống của ‘Hậu thiên’ nguồn gốc của khí huyết, cách luận bệnh xử phương. 7. Đạo Lưu Dự Vận: đem các ý nghĩ còn nghi hoặc, chưa rõ nghĩa trong các sách, cùng với những chỗ người xưa chưa nói đến để biện luận rõ ràng mà bổ sung vào những chỗ còn thiếu sót. 8. Vận Khí Bí Điển: chọn lấy bài phú Chiêm Vận, phong giác của họ Vương và thiên Ngọc Lịch, ngũ hành, chia ra cách xem mây, xem gió, chủ vận, khách vận, chủ khí, khách khí, lập thành từng cách nghiệm đoán. 9. Dược Phẩm Vận Yếu: chọn lấy 150 vị thuốc thường dùng trong Bản thảo, chia làm 5 bộ để tiện tra khảo. 10. Lĩnh Nam Bản Thảo: soạn các vị thuốc cây cỏ ở Lĩnh Nam (bao gồm Việt Nam và miền Nam Trung quốc), chia thành môn loại, chú thích tính chất, cách chữa, cách thu hái… 11.Ngoại Cảm Thông Trị bàn về nước Nam ta không có bệnh thương hàn, mắc bệnh ngoại tà, đều là bệnh cảm mạo, tác giả không theo hình chứng lục kinh của Thương hàn luận nhưng Lãn Ông đã sáng chế ra 3 phương giải Biểu, 6 phương hòa Lý để chữa tất cả các bệnh ngoại cảm. 12. Bách Bệnh Cơ Yếu: chọn lấy các bệnh, môn trong sách kinh điển, xét nguyên nhân, cơ chế bệnh, phân biệt chứng trạng hư thực, tiên lượng cách chữa, xử phương, dụng dược. 13. Y Trung Quan Miện: soạn những điều hay mà tác giả đã lĩnh hội được ý nghĩa sâu sắc, những điểm cốt yếu. 14. Phụ Đạo Xán Nhiên chọn lọc trong các sách Phụ khoa những vấn đề về kinh nguyệt, đới hạ, thai, sản… lấy những điểm thiết thực cốt yếu, bỏ chỗ rườm rà… đồng thời bổ sung thêm những ý kiến của tác giả. 15. Tọa Thảo Lương Mô, tác giả thấy trong nhiều sách trước đó về Sản khoa viết rườm rà, được điều nọ, mất điều kia nên ông soạn, sắp xếp lại, bổ sung hoàn chỉnh hơn. 16. Ấu Ấu Tu Tri: tác giả thấy trong nhiều sách Nhi khoa trước đó viết rời rạc, không thống nhất nên tác giả đã soạn lại, xét nguyên nhân cơ chế bệnh sinh, phân biệt chứng trạng cách chữa, xử phương làm chỗ cốt yếu và thêm phần tâm đắc. 17. Mộng Trung Giác Đậu: trình bày đầy đủ các kiến thức về bệnh Đậu… và bổ sung thêm kinh nghiệm đặc sắc phong phú. 18. Ma Chẩn Chuẩn Thằng: các phương pháp và kinh nghiệm tâm đắc trong điều trị bệnh sởi. 19. Tâm Đắc Thần Phương: trong khi lâm lâm sàng, tác giả đã hết sức suy nghĩ chọn ra nhiều phương thuốc thần diệu trong Phùng Thị Cẩm Nang. 20. Hiệu Phỏng Tân Phương: trong khi lâm sàng tác giả đã hết sức suy nghĩ lập ra nhiều phương thuốc đáp ứng với tình thế khó khăn. 21. Bách Gia Trân Tàng: tiếp thu bí phương của ông ngoại truyền lại cùng thu thập các phương thuốc quý, chữa được nhiều trường hợp khó. 22. Hành Giản Trân Nhu: chọn lấy các bài thuốc có những vị thuốc Nam, thuốc Bắc thông thường, dễ kiếm, tiện dùng. 23. Y Phương Hải Hội: tập hợp soạn các thang tễ, hoàn tễ trong các sách, rườm rà thì giảm đi, thiếu thì bổ sung thêm. 24. Y Án, Dương Án: Những suy nghĩ tâm đắc về các trường hợp nguy nan mà chữa thành công. 25. Y Án, Âm Án: tập hợp những bệnh án bệnh nặng, khó, tình thế tuyệt vọng dù cố hết sức mà không kết quả để rút kinh nghiệm. 26. Truyền Tâm Bí Chỉ hoặc còn gọi là Châu Ngọc Cách Ngôn, biện luận rõ ràng đầy đủ những nghĩa lý sâu xa trong sách, những chỗ tinh hoa của y thuật.
 
27.Tập Vĩ (cuối) là cuốn Thượng Kinh Ký Sự, thuật lại cuộc lên kinh thành chữa bệnh cho Chúa Trịnh. Chỉ với giá trị sử học, văn học của cuốn ký sự này đã làm cho sự nghiệp văn hóa của Hải Thượng Lãn Ông nổi danh không kém gì sự nghiệp y học của tác giả. Về sau đã thu thập được nốt 2 cuốn là Nữ Công Thắng Lãm và Vệ Sinh Yếu Quyết.
 
28 Tập của Pho Sách Bách Khoa Thư về Đông y “Lãn ông tâm lĩnh” là 28 viên ngọc quý, 28 vị sao (nhị thập bát tú) của bầu trời Y học phương Đông.
 
*
 
Thượng kinh ký sự (Ký sự lên kinh) là tập ký sự bằng chữ Hán. Tác phẩm được ông xếp vào cuối bộ (quyển 65) Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (Những lĩnh hội tâm huyết về ngành Y của Hải Thượng) của mình, như một phụ lục, và được khắc in năm 1885. Đây là tác phẩm tiêu biểu nhất ở thế kỷ 18 thuộc Thể ký (ghi việc, kể chuyện). Năm 1924, Nguyễn Trọng Thuật dịch Thượng kinh ký sự và cho đăng trên Nam Phong tạp chí. Năm 1993, nhà xuất bản Văn Học (Hà Nội) cho in Thượng kinh ký sự do Ứng Nhạc Vũ Văn Đình dịch. Năm 1989, nhà xuất bản Thông Tin cho in Thượng kinh ký sự do Phan Võ dịch, Bùi Kỷ hiệu đính.

Thượng Kinh ký sự kể chuyện một năm Lê Hữu Trác “thượng Kinh”, đáng chú ý là những trang mô tả quang cảnh kinh kỳ, nhất là trong phủ chúa Trịnh, nơi lắm xa hoa và quyền uy. Có thể nói, đây là những hình ảnh rất sống động mà ở vào thời ông sống chưa có nhà văn nào thực hiện được: đó là những ký sự đặc sắc và những sử liệu chính xác về sự sa hoa của phủ Chúa Trịnh:
 
“Tôi ngẩng đầu lên coi thì bốn phương tám mặt, nơi nào cũng cây cối um tùm, chim kêu hoa nở, gió thoảng hương đưa. Những hành lang, những bao lơn bước bước đều liên lu, nơi nơi đều cân đối. Kẻ gác cửa có việc gì thì truyền báo, kẻ công dịch qua lại như mắc cửi. Tôi thầm nghĩ: “Mình vốn là công gia tử đệ, sinh trưởng ở kinh đô, mọi chốn trong Cấm thành đều thông thuộc; duy sự thể trong phủ chỉ được nghe nói thôi, mới hay cái giàu sang của nhà vua chẳng phải tầm thường vậy.
 
Qua dẫy hành lang về phía tây thì đi dến một ngôi nhà lớn, vừa cao vừa rộng, hai bên để hai cỗ kiệu ngự, những đồ nghi truợng đều chạm trổ thiếp vàng; ở gian giữa kê cao một cái sập ngự cũng thiếp vàng; trên sập treo một cái võng điều. Trước sập và hai bên sập có kê kỷ án, đồ đạc chẳng thường thấy ở nhân gian. Tôi chỉ liếc mắt trông qua, cúi đầu mà đi. Lại đi qua một cái cửa nách nữa thì đến một cái gác cao rộng. Trong gác những giường cột từ trên xuống dưới đều sơn son” (Thượng Kinh Ký sự).
 
Thượng kinh ký sự được tác giả viết theo thể nhật ký, không chia chương mục. Ở bản in của nhà xuất bản Thông tin, người dịch (Phan Võ) đã phân chia và đặt tên thành 10 tiểu mục: Giã nhà lên kinh ; Vào Trịnh phủ ; Nhớ quê nhà ; Làm thuốc và làm thơ ; Đi lại với các công khanh ; Tình cờ gặp người cũ ; Ngâm thơ, thưởng nguyệt ; Về thăm cố hương ;Vào phủ chúa chữa bệnh ; Trở về quê cũ. Người đọc thời nay có thể đi theo Lê Hữu Trác trên từng trang viết để được như là “tai nghe mắt thấy” rất nhiều chuyện, tiếp xúc với rất nhiều người, ở nhiều nơi của xã hội Việt Nam vào thời kỳ giữa TK18, thời kỳ có rất nhiều biến động lịch sử…
 
Chỉ nhìn vào những trang “ghi chép người thật, việc thật” của Thượng Kinh ký sự, ta đã thấy đó là một cây bút “hiện thực” đặc sắc. Song, với Lê Hữu Trác, một nhà thơ có tấm lòng ưu thời mẫn thế, có tâm hồn đa cảm thì thiên Thượng Kinh ký sự không chỉ là “hiện thực sinh động” mà hòa vào từng chi tiết hiện thực ta đều thấy tâm tư sâu lắng, tình cảm tinh tế mà chan chứa, thiết tha của một nhân cách lớn. Với những bậc đại Nho xưa, khi đã nhìn rõ sự xấu xa, thối nát của chính sự thì thường là “thoát tục” (ở ẩn, tu Tiên…). Lê Hữu Trác đã không “thoát tục” mà chọn cách xử thế là “cứu nhân độ thế”. Vì vậy, những ngày tháng phải ngồi chầu chực bên Phủ Chúa để chữa bệnh cho Trịnh Cán, mà không có hy vọng gì chữa khỏi bệnh, Lê Hữu Trác luôn đau đáu một nỗi nhớ quê nhà, nơi đó có những người thân, những người dân nghèo đang cần ông giúp đỡ. Cái tâm trạng này luôn thường trực trong suy nghĩ, cảm xúc của nhà thơ:
 
”Đêm hôm đó, tôi ngồi ngơ ngẩn một mình lại nhớ tới quê xưa. Trăng trong chiếu cửa sổ, mối tình thao thức chẳng chớp mắt được. Canh khuya mỏi mệt nằm trong cửa sổ mà ngủ. Nhưng tâm hồn sầu muộn cứ quấn quít bên gối, chợp chờn nghe tiếng chim vừa bay vừa kêu, bỗng tỉnh giấc. Một điểm sáng đèn tàn còn nguyên trên vách, tôi gọi tiểu đồng mang đàn lại chuyển điệu giờ lâu, lại sai pha trà, uống chừng vài ba chén trà cũng vô vị. Tôi ra trước sân đi tản bộ miễn cưỡng ngâm vài bài thơ nhỏ để tự an ủi:
 
Bài thứ nhất:
 
Tỉnh giấc quê đâu tá / Trước thềm nguyệt ló ra
Kêu đàn chim độc nọ / Ngắm cảnh hồ thu xa
Chơi núi thường nằm mộng / Ở Kinh vẫn thế mà
Dẫu khôn mà hóa dại / Danh nọ cứ ham a?
 
Bài thứ hai:
 
Cảnh tối ngồi nơi vắng / Từng mây lắng nhạn bay
Hồ trong trăng chiếu sáng / Cây cối hoa nở chầy
Trà cạn lòng thơ cạn / Đàn đây nỗi khách đây
Thương gà kêu nhớn nhác / Tinh tú quan hà đầy !”.
(Thượng Kinh ký sự)
 
Và hai bài thơ khác cũng ứng tác trong nỗi nhớ nhà:

Kỳ khách xá ngộ vũ cảm hoài thi văn
Cuồng phong sậu vũ hốt nhiên sinh / Khách xá tiêu tiêu vạn lũ tình
Viễn thụ hàm yên vân ngoại ám / Bình hồ suy lãng thủy trung minh
Qui sào mộ điểu phân quần khứ / Hà xứ sơ chung báo hiểu minh
Bất vị khổ trà năng khước thụy / Ưng tri thử dạ mộng nan thành.

Ở nhà trọ gặp mưa cảm hoài
Bỗng đâu gió táp lại mưa sa
Trăm mối u tình kẻ trọ xa
Mây cách hàng cây làn khói ám
Nước rung đợt sóng mặt hồ đưa
Chim chiều tìm tổ chia bầy tẽ
Chuông sớm ngờ nơi báo sáng mà
Trà đắng ai rằng không chợp mắt?
Đêm nay mộng mị dở dang a!
Kỳ đối nguyệt thư hoài thi văn
Nhận đắc Hương sơn nhất phiến nguyệt / Như hà dạ dạ chiếu thần kinh / Ỷ lâu ca quản thiên hồi túy / Cận thủy đình đài vạn sắc sinh / Đãn giác thanh thiêm diên thượng khúc/ Ưng tri đạm bức lữ trung tình / Di chân đường thượng kim tiêu hội / Mạc cổ dao cầm tác oán thanh.

Trông trăng tả nỗi lòng
Hương sơn vẫn một mảnh trăng thanh
Tối tối thường soi khắp đế kinh
Cai quản tựa lầu say túy lúy
Đình đài gần nước ánh long lanh
Thanh cao khúc nhạc người trong tiệc
Lạnh nhạt tình ai buổi lữ hành
Nhà mát Di chân đêm tại đó
Đàn kia ai oán gẩy sao đành!
 
(Thượng Kinh ký sự).
 
Ở Thượng Kinh ký sự, Lê Hữu Trác luôn tức cảnh sinh tình mà ứng khẩu thành thơ, dù ở bất kỳ trường hợp nào, vui thì có thơ vui, buồn có thơ buồn. Có thể nói, số lượng thơ trong Thượng Kinh ký sự khá nhiều và Nhà nghiên cứu văn học Tạ Ngọc Liễn đã nhận xét rất đúng về Thơ của Lê Hữu Trác trong tập Thượng Kinh ký sự này:
 
”Trong tập có những bài thơ, đã cho thấy ông có trái tim của một thi sĩ đích thực. Thơ ông có những xúc cảm nồng nàn giàu ý vị, có những cái đẹp thanh tú, diễm lệ của núi sông, của trăng gió. Dường như bài thơ nào của ông cũng có câu hay, câu lạ, hoặc về hình tượng, hoặc về lối đặt câu, đảo ngữ. Đặc biệt, ông có một bài thơ nói về mối tình lỡ dở của mình rất hay… “.
Bài thơ đó như sau:
 
Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa! / Kim nhật tương khan khổ tự ta.
Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ; / Song mâu xuân tận hiện hình hoa.
Thử sinh nguyện tác càn huynh muội,  / Tái thế ưng đồ tốn khất gia.
Ngã bất phụ nhân, nhân phụ ngã, / Túng thiên như thử nại chi hà?
 
Dịch nghĩa:
 
Vì vô tâm thành chuyện làm nhầm lỡ cho người, / Ngày nay nhìn nhau đắng cay than thở
Một nụ cười bao tình cảm, lệ tuôn chảy, / Hai tròng mắt đã hết xuân bỗng hiện hình hoa.
Kiếp này nguyện làm anh em kết nghĩa, / Kiếp sau xin sẽ thành vợ chồng.
Ta không phụ người mà người phụ ta,  / Nếu phỏng như thế thì làm thế nào đây?
 
Phan Võ dịch thơ:
 
Lầm người, sự bởi vô tâm,
Nhìn nhau, nay những luống thầm thở than!
Một cười, giọt lệ chứa chan,
Mắt trông, xuân hết hoa tàn thương thay.
Anh em kết nghĩa kiếp này,
Kiếp sau cầm sắt bén dây họa là.
Trót vì người phụ lòng ta,
Ôi thôi, đành vậy, biết là làm sao?
 
Xuất xứ của bài thơ đã được Lê Hữu Trác nói rõ trong Thượng kinh ký sự: trước đây gia đình Lê Hữu Trác có dạm hỏi một cô gái, là con quan Tả Thừa ty ở Sơn Nam, cho ông cưới làm vợ. Đã làm lễ vấn danh và ăn hỏi rồi, nhưng có việc trở ngại, khiến ông phải từ hôn, và về ở luôn quê ngoại Hương Sơn. Năm, sáu năm sau, ông lên kinh thì nghe tin vị quan trên đã qua đời, còn cô gái đau khổ kia đã thề suốt đời không lấy ai…Trong thời gian ở Kinh, tình cờ ông gặp lại người xưa, mà giờ đây đã thành một bà sư già, khổ hạnh và cô độc.
 
“Từ đó thói thường qua lại hỏi thăm nhau. Bà ấy nói là ở Nghệ An có nhiều gỗ đóng quan tài, bà xin mua cho bà một cỗ. Tôi sai người đi kiếm, nhưng chưa được. Ngày tôi được thả cho về, tôi trao cho người lo việc ấy năm quan tiền cổ để tìm mua bán mà tặng bà ta…” (Thượng Kinh Ký sự). Câu chuyện thật sự cảm động đến nao lòng!
 
*
Khi ở Kinh thành, Lê Hữu Trác thường tiếp xúc với các Quan Ngự Y và cũng đi chữa trị cho những người quen. Phần viết về những chuyện “nghề Y” này thật sinh động, thật đặc sắc bởi như là “đúng tủ” của Tác giả! Ở những trang viết này, người đọc sẽ có được những bài học quý giá không chỉ về nghề thuốc mà cả về những đạo lý nhân sinh:
 
“Hồi tôi ở trong núi cứ tưởng rằng ở đế đô có các danh y, học thuật giỏi giang, tinh diệu nhập thần. Tôi thường than là mình vô duyên nên không được cùng nhau gặp gỡ. Khi đến kinh thì thấy thầy thuốc trị bệnh không nói là phong hỏa thì cũng bảo là bệnh thấp đàm. Nếu cho là bệnh hư mà chịu dùng thuốc bổ thì chỉ phô diễn khí huyết mà thôi. Còn như chân thủy, chân hỏa là cái gốc để giữ cái mệnh, cái cốt yếu để cầu sống thì tuyệt nhiên không một chút nào coi làm trọng. Sao cái nghề thuốc lại khó đến như vậy! Nhớ xưa Tiên Chính có nói: “Người nước ta học nghề y mà không tinh là vì mắc phải hai cái bệnh: một là người trong đám nho học đọc sách thuốc từ đầu đến cuối, một lượt là xong, tuyệt nhiên không nghi ngờ nghĩa sách, tự cho là không có gì khó, dến khi dùng thuốc thì lại hấp tấp bất cẩn; hai là văn lý tự hoạch chỉ mới được nửa thôi, nếu có tập nghề thuốc thì cũng không khỏi tưởng tượng mơ hồ, nghi hoặc, như thể kẻ kéo cây cung, sức chẳng đủ thì cho là cung cứng”. Thật là lời nói đích đáng vậy. Than ôi! Kẻ bất túc là kẻ có bệnh sẵn, kẻ có dư cũng là kẻ có bệnh. Há chẳng phải là khó ru? Nhân đây tôi ngâm mấy câu rằng:
 
Cổ vân dụng dược như dụng binh / Sinh sát quan đầu hệ mi khinh
Quốc thủ do đa khuy phạp xứ / Tàm dư cô lậu lý nan minh!

Từ xưa dùng thuốc tựa dùng binh
Sinh sát ai người dám rẻ khinh
Đầu sỏ nghề y còn yếu kém
Quê mùa ta thẹn lý chưa minh!”.
 
(Thượng Kinh Ký sự).
 
 
Sài Gòn, tháng 8-2010
Đỗ Ngọc Thạch
—-
Chú thích:
(*) Lê Hữu Mưu là Danh sĩ đời Lê Dụ Tông, hiệu Phác Trai, con thứ 9 Hoàng giáp Lê Hữu Danh, quê xã Liêu Xá, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).
 
Năm Canh Dần 1710, ông đỗ tam giáp tiến sĩ, làm đến Bồi tụng, Hữu thị lang bộ Công rồi giảng sách ở tòa Kinh diên. Sau được tặng Tả thị lang, phong tước Phu Đình Bá. Ông có tiếng văn thơ, tài đức được sĩ phu kính trọng. Người con thứ 7 của ông là Lê Hữu Trác về sau được nhân dân xưng tụng là Tổ sư Đông y Việt Nam. Ông có soạn bản sách Văn Xá Lê tộc thế phả, ghi chép rõ về gia tộc ông.
 
Văn Xá Lê tộc thế phả (1 cuốn) do ông biên soạn từ tiên tổ họ Lê là Lê Phúc Tiến giữ chức Quốc tử giám vào đời Hồng Đức (1470-1497). Sách chép kĩ từ đời có ông Lê Hữu Danh đậu nhị giáp Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670) làm quan đến Hiến sát sứ được phong tước Văn Uyên Bá trong đó có 3 con và cháu đậu tiến sĩ là Hữu Hỷ, Hữu Mưu, Hữu Kiều, con thứ bảy của Hữu Mưu là Lê Hữu Chẩn, Lê Hữu Chẩn húy là Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông. Lê Hữu Trác (Chẩn) đậu nho sinh khoa Quý Hợi triều Lê (1731). Sau bỏ học khoa cử chuyên học nghề thuốc và đã thành công trong sự nghiệp y học.
 
(1) Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1739 – 1782) là vị chúa Trịnh thứ 9 thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, cai trị từ năm 1767 đến 1782; người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá..Sâm là con trưởng của Minh Đô Vương Trịnh Doanh. Năm Ất Sửu (1745), được lập làm Thế tử. Trịnh Doanh tỏ ra cẩn trọng việc nuôi dạy con, bổ dụng 2 tiến sĩ là Dương Công Chú và Nguyễn Hoàn làm tư giảng cho Trịnh Sâm. Tháng 10 năm Mậu Dần (1758), Trịnh Doanh phong cho Sâm làm Tiết chế thuỷ bộ chủ quân, Thái uý Tĩnh Quốc Công mở phủ Lượng Quốc và hết thảy công việc triều chính được giao cho Trịnh Sâm.
 
(2) Điện Đô Vương Trịnh Cán (1777 – 1782) là vị chúa Trịnh thứ mười thời Lê trung hưng, ở ngôi từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1782; là con của chúa Trịnh Sâm và tuyên phi Đặng Thị Huệ (2*). Sinh và mất tại Thăng Long. Trịnh Cán, là con thứ của chúa Trịnh Sâm, lên ngôi thế tử năm 1780 sau khi anh là Trịnh Khải bị phế truất vì vụ án năm Canh tý. Trịnh Cán là một đứa trẻ ốm yếu liên tục nên “khí lực khô kiệt”, thân hình gầy gò, xanh xao. Tháng 9 năm 1782, Trịnh Sâm mất. Đặng Thị Huệ và Huy quận công Hoàng Đình Bảo lập Trịnh Cán lên ngôi chúa với tước hiệu Điện Đô vương, lúc đó Trịnh Cán mới 6 tuổi. Tuyên phi Đặng Thị Huệ trở thành người điều khiển triều chính cùng với Huy quận công Hoàng Đình Bảo.
 
Tháng 10 nǎm 1782, Dự Vũ là tay chân của Trịnh Khải xúi kiêu binh (lính Tam phủ) nổi loạn, giết chết Hoàng Đình Bảo, truất ngôi Trịnh Cán và giáng xuống làm Cung quốc công. Tuyên phi Đặng Thị Huệ bị truất xuống thứ dân, sau tự tử. Trịnh Cán bị đưa ra ở phủ Lượng quốc rồi ốm chết, ở ngôi được gần hai tháng.
 
(2*)Đặng Thị Huệ (? - ?) là vợ chúa Trịnh Sâm. Quê ở làng Trà Hương, huyện Phù Đổng, trấn Kinh Bắc, nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Xuất thân nghèo khổ, vốn là cô gái hái chè, sau về với chúa Trịnh Sâm, được lập làm Tuyên Phi, nhưng người đời vẫn quen gọi là Bà Chúa Chè. Khi vào phủ chúa, Đặng Thị Huệ vốn chỉ là nữ tỳ. Một hôm, Tiệp dư Trần Thị Vịnh sai Huệ bưng một khay hoa đến trước nơi chúa Trịnh Sâm ngồi. Trịnh Sâm nhìn thấy Huệ thì rất bằng lòng, bèn ân ái. Từ đó Huệ ngày càng được Trịnh Sâm sủng ái, ít khi rời. Năm Đinh Dậu (1777), Đặng Thị Huệ lại sinh hạ một người con trai, tên là Trịnh Cán (1777-1782), nên càng được chúa sủng ái, lập làm Tuyên Phi. Trước đây, một cung nhân khác là Dương Ngọc Hoan, được vào hầu chúa Trịnh Sâm đã sinh một con trai là Trịnh Khải (tên cũ là Tông, 1763-1786).
Được chúa yêu, Đặng Thị Huệ bèn hỏi con gái chúa là Công nữ Ngọc Lan cho em trai mình là Đặng Mậu Lân (2*1), vốn là người có tính hung bạo, dâm dật và càn rỡ. Nhưng chúa cũng nghe theo, khiến Sử trung hầu bị Mậu Lân chém chết trong việc bảo vệ Ngọc Lan. Biết chúa rất sủng ái mình, Đặng Thị Huệ ngày đêm mưu tính việc giành lấy ngôi vị Thế tử cho con trai.
Đề cập đến chuyện này, sách Hoàng Lê nhất thống chí viết: Theo lệ cũ, người con trai nối ngôi chúa hễ đến mười hai tuổi thì phải ra ở Đông cung. Bấy giờ các quan cũng có tâu trình việc ấy; song chúa không cho, chỉ cho Thế tử (Trịnh Khải) đến ở nhà riêng của Hân quận công (Nguyễn Đĩnh). Như vậy, ngôi Đông cung vẫn bỏ trống, như có ý chờ đợi người khác.
 
Đến năm Thế tử mười lăm tuổi, thì con nhỏ là vương tử Cán ra đời, chúa hết sức yêu dấu đứa con nhỏ đó. Ba năm sau, Thế tử đúng mười tám tuổi, đáng được mở phủ riêng; nhưng bấy giờ các quan chẳng ai dám tâu bày, mà chúa cũng không hề nhắc tới việc ấy. Như thế là người nối ngôi vẫn chưa định, nên lòng người rất phân vân. Hễ ai thuộc về Thế tử Tông (tức Trịnh Khải) thì hùa theo Thế tử Tông, ai thuộc đảng Thị Huệ thì vào phe vương tử Cán. Trong phủ chúa dần dần sinh ra bè nọ cánh kia.
 
Kể từ đó, một mặt Huệ bí mật sai thuộc hạ thân tín, sớm tối thêu dệt đủ mọi chuyện xấu vu cho Trịnh Khải; mặt khác, liên kết với Huy Quận công Hoàng Đình Bảo (2*2) để cùng mưu sự. Phía Trịnh Tông cũng có lực lượng hậu thuẫn. Hậu quả của cuộc tranh giành quyền lực này đã gây ra hai vụ biến động lớn là Vụ án năm Canh Tý và cuộc nổi dậy của lính Tam phủ.
Tháng 8 năm Canh Tý (1780) lúc ấy có tin đồn rằng chúa Trịnh Sâm bị bệnh rất nặng, Trịnh Khải bèn bàn mưu với gia thần là Đàm Xuân Thụ, Thế Thọ, Thẩm Thọ và Vĩnh Vũ bí mật sắm sửa vũ khí, chiêu tập dũng sĩ, để chờ thời cơ. Ngoài ra, Trịnh Khải còn ngầm liên kết với Trấn thủ Sơn Tây là Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản, Trấn thủ Kinh Bắc là Tuân sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân để sẵn sàng hỗ trợ.
 
Việc mưu sự, bị Cấp sự trung Nguyễn Huy Bá biết được, ngầm kể với Tuyên Phi. Chớp lấy thời cơ, Huệ liền đem việc đó bàn với Quận Huy (tức Hoàng Đình Bảo). Quận Huy liền đến phủ chúa, kể sự tình cho Chúa Trịnh Sâm…Kết cuộc, phe Đặng Thị Huệ thắng thế. Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí, thì có ba đại thần theo phe Trịnh Khải đều phải mất mạng: Khê trung hầu, Tuân sinh hầu (Nguyễn Khắc Tuân) đều uống thuốc độc tự tử, Nguyễn Quốc Tuấn (thuộc hạ của Khắc Tuân) bị án chém; còn Trịnh Khải bị quản thúc ngặt trong một ngôi nhà ba gian.
Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (gọi tắt là Cương mục) thì: Đàm Xuân Thụ bị giết, Nguyễn Lệ và Nguyễn Khắc Tuân bị tống giam vào ngục, hoạn quan Nguyễn Phương Đĩnh (hoặc Định) bị kết tội nuôi dưỡng Trịnh Khải không nên người, bị lột hết chức tước và đuổi về làng; còn Trịnh Khải bị giáng xuống làm con út và bị quản thúc trong nội phủ. Ngay trong năm này, mặc dù Trịnh Cán chỉ mới 4 tuổi vẫn được lập làm Thế tử, Quận Huy được làm phò tá. Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Trịnh Cán được nối ngôi chúa, hiệu là Điện Đô Vương.Thuận theo lời tâu của Quận Huy, vua Lê Hiển Tông cho Tuyên Phi được tham dự việc quyết đoán chính sự. Kể từ đó, liên minh Tuyên Phi – Quận Huy nắm hết mọi việc trong ngoài.
 
Nạn kiêu binh: Sự kiện xảy ra vào tháng 10 năm Nhâm Dần (1782), đúng một tháng sau khi chúa Trịnh Sâm mất, và cũng đúng một tháng sau khi Trịnh Cán được đưa lên ngôi chúa. Lính kiêu binh ủng hộ Trịnh Tông cùng nhau mưu đảo chính lật đổ Trịnh Cán để lập Trịnh Tông. Họ ngầm liên hệ với mẹ Trịnh Sâm xin ý chỉ, bên ngoài dựa vào sự chi viện của Phan quận công (Nguyễn Phan), và nhờ Nguyễn Nhưng làm bài (hịch) khích lệ quân lính. Khi quân Tam phủ nổi dậy, quận Huy ra chống cự nhưng không nổi, bị kiêu binh giết chết. Lính Tam phủ rước Trịnh Tông lên nối nghiệp chúa. Các đình thần im lặng không dám chống cự.
 
Hôm việc biến xảy ra, Đặng Thị Huệ khiếp sợ quá, phải thay đổi quần áo, nấp ở hậu cung. Riêng chúa Trịnh Cán, được Quận Diễm bế đi lánh nạn. Đến đêm, bà nội Trịnh Cán (bà Sét – mẹ Trịnh Sâm) sai người tìm rước cháu về. Hôm sau, Trịnh Cán bị giáng xuống làm Cung quốc công, rồi hơn tháng sau thì bị bệnh qua đời.
 
Những ngày cuối đời của Đặng Thi Huệ, Hoàng Lê nhất thống chí chép như sau: Khi chúa nhỏ bị bỏ, Thái phi (Dương Ngọc Hoan) liền sai người bắt Tuyên phi hài tội, rồi buộc bà phải lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy, Thái phi bèn sai hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Tuyên phi rập đầu xuống đất, nhưng bà vẫn nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói nửa lời. Thái phi giận quá, đánh đập một hồi, nhỏ nước bọt vào đầu vào mặt, rồi đem giam vào nhà Hộ Tăng ở vườn sau. Tại đây, Đặng Thị Huệ bị làm tình làm tội cực kỳ khổ sở. Một bữa, bà trốn ra khỏi cửa Tuyên Vũ, chạy đến bến đò phố Khách thì bị quân lính đuổi kịp…Sau một thời gian giam giữ ngặt, Thị Huệ được cho làm cung tần nội thị, vào Thanh Hóa hầu hạ lăng tẩm chúa Trịnh Sâm. Ở đây, bà ngày đêm gào khóc xin được chết theo chồng. Đến ngày giỗ của chúa Trịnh Sâm, Tuyên phi uống thuộc độc mà chết, được táng cách Vọng lăng (lăng Trịnh Sâm) một dặm.
(2*2) Hoàng Đình Bảo (1743-1782) là Huy quận công (còn gọi là Quận Huy) thời Lê-Trịnh. Trước tên là Đăng Bảo, sau đổi là Tố Lý, lại đổi là Đình Bảo; quê ở Hoan Châu (nay thuộc huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh). HĐB đậu hương tiến, lại đậu tạo sĩ, lấy con gái chúa Trịnh Doanh.. Năm 1774, theo quận Việp Hoàng Ngũ Phúc đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chiếm được kinh thành Phú Xuân. Năm 1778, HĐB được Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm cho coi việc phủ chúa và lĩnh chức trấn thủ Sơn Nam (địa bàn của Sơn Nam thời Lê gồm: Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình).
 
Bấy giờ trong họ Trịnh xảy ra tranh chấp ngôi thế tử giữa con trưởng là Trịnh Tông và con thứ là Trịnh Cán, do người mẹ Cán là Tuyên phi Đặng Thị Huệ làm đại diện. Quận Huy từng có ý theo Trịnh Tông nhưng không được bèn ngả theo Đặng Thị Huệ giúp Trịnh Cán còn nhỏ. Nhân vụ án năm Canh tý (1780), Trịnh Tông có ý làm loạn thất bại nên bị truất làm con út, ngôi thế tử thuộc về Trịnh Cán. Sau khi Trịnh Sâm mất, Trịnh Cán mới 5 tuổi lên thay, tức là Điện Đô vương. Quận Huy được cử giữ chức phụ chính. Vì Tuyên phi còn trẻ tuổi, quận Huy thường ra vào bàn kế với Tuyên phi nên mọi người dị nghị Bảo tư thông với Tuyên phi. Người đời đồn đại câu: Trăm quan có mắt như mờ / Để cho Huy quận vào rờ chính cung!
Lính kiêu binh ủng hộ Trịnh Tông cùng nhau mưu đảo chính lật đổ Trịnh Cán để lập Trịnh Tông. Sách Lê quý dật sử chép vắn tắt chuyện như sau:
Lính trong phủ ước hẹn cùng vào núi bí mật toan định ngày giờ phế lập. Bèn bên trong theo ý quốc mẫu (mẹ Trịnh Sâm), bên ngoài dựa vào sự chi viện của Phan quận công (Nguyễn Phan), và nhờ tiến triều Nguyễn Nhưng làm bài (hịch) khích lệ quân lính, phù chính nghĩa. Lại có Thư lại đội quân Tiệp Bảo là Nguyễn Bằng (Hoàng Lê nhất thống chí ghi tên Bằng Vũ) tự xin lên gác phủ đánh trống làm hiệu.
 
(Nghe có biến) Quận Huy sai đội quản voi chỉnh đốn bành voi. Huy lên voi tuần hành để răn đe quân sĩ..Quân sĩ đập phá gạch ngói ném bừa vào Huy. Huy bị thương ngã gục trên mình voi, quân sĩ lại lấy kiếm dài đâm lên, làm Huy bị thương tiếp. Rồi (họ) lấy câu liêm lôi (Huy) xuống, băm ra từng khúc, tranh nhau ăn gan Huy… Khi đó, lính trong phủ đã rước Thế tử Trịnh Tông (tức Khải) lên nối nghiệp chúa, và dời Trịnh Cán đến ở một cung khác. Ngày hôm đó, nhà cửa dinh thự của các quan lại trong kinh đô đều bị lính phá hủy gần hết. Đình thần im hơi lặng tiếng, đứng yên một chỗ. Kể từ đó quyền hành lọt hết vào tay lính tam phủ.
 
Quận Huy bị giết, Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ bị truất, Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương.
 
(2*1) Đặng Lân hay Đặng Mậu Lân, tục gọi cậu Trời (? - ?) là em ruột Tuyên phi Đặng Thị Huệ, là Quận mã của chúa Trịnh Sâm; nổi tiếng là người càn rỡ và dâm dật trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đặng Lân, cũng như chị là Đặng Thị Huệ, các sử sách còn lưu lại đều không ghi cha mẹ họ là ai, chỉ cho biết rằng Thị Huệ sinh ra trong nhà nghèo khó ở làng Phù Đổng, huyện Đông Anh, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hà Nội). Từ khi Huệ được phong làm Tuyên phi, có quyền hành lớn, thì em là Đặng Lân cũng có chỗ dựa để lộng hành…
 
Trong sách Tang thương ngẫu lục, Nguyễn Án kể: Quận mã Đặng Lân là em bà Đặng Tuyên phi của chúa Tĩnh Vương (Trịnh Sâm), thường hay ngông càn phạm phép. Y cưỡng gian một người đàn bà không được bèn cắt vú người ta. Người chồng kiện đến quan, y bị bắt giam ở ngục Ngự sử đài rồi vì có Phi xin cho mà được tha. Tĩnh vương đem nàng Quận chúa thứ hai gả cho Lân, các đồ trang liêm và của hồi môn, so với các triều trước nhiều gấp mười lần. Phủ đệ dựng ở phía Tây nam kinh thành Thăng Long, đồ ăn thức dùng đàng hoàng như một vị vương giả. Lân càng làm nhiều sự càn rỡ, nuôi trong nhà hơn trăm gia đồng, thường cho độ mũ đeo gươm, ra ngoài chợ phố đi nhung nhăng, uống rượu say đánh người bị thương, quan Kinh doãn không kiềm chế nổi. Mỗi khi Lân đi ra, đem theo đến hàng mấy chục con chó săn, con nào cũng đeo nhạc vàng, khoác áo thêu, hét trước hò sau, lấp cả đường lối. Một lần nhân cơn tức giận, Lân giết chết nội giám là Sử thọ hầu, rồi cắm thanh gươm ở trước cửa để không ai dám vào bắt…
 
Sách Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ nhất, cũng mô tả tương tự: Đặng Mậu Lân này vốn là một tên hung bạo, từ khi Thị Huệ được chúa yêu dấu Lân lại càng ỷ vào thế chị để làm những việc càn rỡ. Hết thảy áo quần, xe kiệu của y, nhất nhất đều rập kiểu theo đúng như của vua chúa. Thường ngày, Lân vẫn đem theo vài chục tên tay sai, cầm gươm vác giáo đi nghênh ngang khắp kinh ấp. Hễ gặp xe kiệu, bất kỳ là của đám quan quân nào, Lân cũng đều cà khịa đánh nhau làm cho họ nhục nhã, rồi lấy thế làm thích thú. Gặp đàn bà con gái giữa đường, hễ người nào trông vừa mắt, tức thì Lân sai tay chân quây màn trướng ngay tại chỗ, rồi lôi người ấy vào hiếp liền. Ai không chịu, Lân xẻo luôn đầu vú. Chồng hoặc cha kẻ bị nạn, nếu dám hé răng kêu ca, lập tức Lân sai quân vặn gãy răng, hoặc cũng có người bị đánh đến chết. Người thiên hạ sợ Lân hơn sợ beo sói.
 
Tác giả sách trên còn kể, một hôm Đặng Thị Huệ hỏi con gái yêu của chúa là Ngọc Lan cho em trai mình. Chúa không bằng lòng, nhưng vì nể Tuyên phi phải nghe theo. Thế rồi, cuộc hôn nhân được tiến hành, nhưng chúa lấy cớ rằng công nữ chưa từng lên đậu lên sởi, để không cho phép Đặng Lân hợp cẩn. Vậy cho nên Đặng Lân cứ mỗi lần vào với công nữ thì lại bị nội giám Sử Trung (người được chúa cho đi theo để bảo vệ công nữ), ngăn cản. Hết sức tức giận, Lân tuốt gươm chém chết Sử Trung… Nghe tin dữ, chúa phải sai Quận Huy (Hoàng Đình Bảo) đem quân vây bắt Lân, giải về phủ, giao cho triều đình xử tội. Các quan đều nói tội giết sứ giả đáng bêu đầu. Tuyên phi nghe tin, khóc lóc xin chết thay em. Chúa bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết và giảm xuống thành tội đi đày…
 
(3) Tuệ Tĩnh Thiền sư (1330-?), thường được gọi là Tuệ Tĩnh hoặc Huệ Tĩnh , người làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (tỉnh Hải Dương), được suy tôn là ông tổ ngành dược Việt Nam và là người mở đầu cho nền y dược cổ truyền Việt Nam. Các bộ sách Nam Dược thần hiệu và Hồng Nghĩa giác tư y thư của ông không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học Việt Nam. Nhiều thế kỷ qua, Tuệ Tĩnh được tôn là vị thánh thuốc Nam. Từ bao đời nay, giới y học Việt Nam đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế Việt Nam. Câu nói của ông “Nam dược trị Nam nhân” thể hiện quan điểm đầy biện chứng về mối quan hệ mật thiết giữa con người với môi trường sống xung quanh.
 
Trong cuốn Hồng Nghĩa giác tư y thư, do Nhà xuất bản Y học, Hà Nội xuất bản năm1978 có hai phần: Quyển Thượng: Nam Dược Quốc Ngữ Phú ghi 590 tên vị thuốc nam và “Trực giải chỉ nam dược tính phú” gồm đặc tính của 220 vị thuốc nam. Quyển Hạ: Y luận, là sách viết về các lý luận từ âm dương ngũ hành sinh hóa vào con người trong tiết khí bốn mùa, sự ảnh hưởng vào bệnh tật, cách điều trị lâm sàng. Và “Thập tam phương gia giảm” phụ “Bổ âm đơn và dược tính phú” bằng chữ Hán. Là sách hướng dẫn gia, giảm khi dùng thuốc chữa bệnh.
 
Cuốn Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh, được NXB Y học Hà Nội, in lần thứ hai vào năm 1972. Bộ này gồm 11 quyển: Quyển đầu nói về dược tính của 119 vị thuốc nam. Mười quyển sau, mỗi quyển nói về một khoa trị bệnh…
 
Cả hai bộ sách này của Tuệ Tĩnh đều có ảnh hưởng rất sâu rộng trong y gia Việt Nam, mà cho đến hôm nay, vấn đề lý luận và thực tiễn vẫn luôn được thừa kế phát triển và phổ biến. Nhất là cuốn Nam Dược Thần Hiệu của ông, nhiều thầy thuốc từ trước đến giờ, vẫn theo phương pháp trị liệu của Tuệ Tĩnh để chữa bệnh rất hiệu quả.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét