Hải Thượng Lãn Ông thượng kinh ký sự - Đỗ Ngọc Thạch
Đỗ Ngọc Thạch
Hải Thượng Lãn Ông (“Ông già lười Hải Thượng”) là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác
(1720,1724? – 1791). Quê cha ở thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường
Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên
Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Cuộc đời Lê Hữu Trác phần nhiều gắn bó với ở quê mẹ
thôn Bầu Thượng, xã Tình Diệm, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn
Nghệ An (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), từ năm 26
tuổi đến lúc mất. Cha là Lê Hữu Mưu (*), mẹ là bà Bùi Thị Thưởng.
Khi cha mất, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời
kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách,
mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân. Nhưng xã hội
bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một năm
sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, “nghiên cứu
trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí
nghiệm sức học của mình” (Tựa Tâm lĩnh). Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra
xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và để lại bao đau thương, làm
ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt.
Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về
nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự “bẻ tên
cởi giáp” theo đuổi chí hướng mới.
Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân đội, giải
ngũ về phải gánh vác công việc vất vả “trăm việc đổ dồn vào mình, sức
ngày một yếu” (Lời tựa Tâm lĩnh), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ
ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ
lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, nhiệt tình chữa khỏi.
Trong thời gian hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường đọc
Phùng thị cẩm nang và hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc
thấy lạ, bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho. Vốn là người
thông minh học rộng, Lê Hữu Trác mau chóng hiểu sâu y
lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích
cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc.
Ở Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu “Hải Thượng Lãn ông”.
Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha
và cũng là xã Bầu Thượng quê mẹ. “Lãn ông” nghĩa là “ông lười”, ngụ ý
lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc
của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng
mà mình yêu thích gắn bó. Mùa thu năm Bính Tý (1754), Lê Hữu Trác
ra kinh đô mong tìm thầy để học thêm nhưng không gặp được thầy giỏi,
ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn
“từ khước sự giao du, đóng cửa để đọc sách” (Tựa Tâm lĩnh), vừa học tập
và chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi khắp vùng Hoan Châu.
Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lãn ông
đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh,
Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân
tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa
tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp
dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ
truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ Y tông tâm lĩnh gồm 28
tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược,
Di dưỡng.
*
Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác
nhận được lệnh chúa Trịnh Sâm (1) triệu về kinh. Lúc này ông đã 62
tuổi, sức yếu lại quyết chí xa lánh công danh, nhưng do theo đuổi nghiệp
y đã mấy chục năm mà bộ Tâm lĩnh chưa in được, “không dám truyền thụ
riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết, nhưng việc
thì nặng sức lại mỏng, khó mà làm được” (Thượng kinh ký sự), ông hy vọng
lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ sách. Vì vậy ông nhận
chiếu chỉ của chúa Trịnh, rời Hương Sơn lên đường.
Ra kinh đô, vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán (2), Lê Hữu Trác
được Trịnh Sâm khen “hiểu sâu y lý” ban thưởng cho ông 20 xuất lính
hầu, và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại.
Nhưng ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai
điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn ông
không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế tử không khỏi, ông biết thế
nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, mặt khác
ông không thật nhiệt tình chữa mà chỉ một lòng muốn trở về quê nhà, sớm
thoát khỏi vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi.
Thời gian ở kinh đô, Lê Hữu Trác nhiều lần xin về
thăm cố hương Hải Dương, nhưng mãi đến tháng 9 năm 1782, chúa Trịnh mới
cho phép ông về. Không lâu sau, ông lại có lệnh triệu về kinh vì Trịnh
Sâm ốm nặng. Về kinh ông chữa cho Trịnh Sâm khỏi và cũng miễn cưỡng chữa
tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại trọng thưởng cho ông. Ông bắt buộc
phải nhận nhưng bụng nghĩ: “Mình tuy không phải đã bỏ quên việc ẩn cư,
nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được” (Thượng
kinh ký sự).
Sau khi Trịnh Sâm chết vì bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên
thay, nhưng Trịnh Cán cũng ốm dai dẳng nên “khí lực khô kiệt”, khó lòng
khỏe được. Do nóng lòng trở về Hương Sơn, nhân có người tiến cử một
lương y mới, Lê Hữu Trác liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh. Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lãn Ông về đến Hương Sơn.
Năm 1783 ông viết xong tập Thượng kinh ký sự bằng chữ Hán tả quang
cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế
lực của nhà chúa – những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến
đi từ Hương Sơn ra Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa
Trịnh Sâm.. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều: chữa bệnh, dạy học,
nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm (tập Vân khí bí
điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ Tâm lĩnh.
Lê Hữu Trác qua đời vào ngày rằm tháng giêng năm
Tân Hợi (1791) tại Bầu Thượng, (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn,
tỉnh Hà Tĩnh), thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở khe nước cạn chân núi
Minh Từ thuộc xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn.
*
Lê Hữu Trác là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y
học dân tộc VN, kế thừa xuất sắc sự nghiệp “Nam dược trị Nam nhân” của
Tuệ Tĩnh thiền sư (3). Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y
tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ
truyền, được đánh giá là công trình y học lớn nhất trong thời trung đại
VN và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự không chỉ có giá trị
về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học.
Hải Thượng y tông tâm lĩnh (NXB Y học Hà Nội, 2008
– tái bản), gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm lý, pháp, phương, dược và biện
chứng luận trị về nội khoa và ngoại khoa, sản phụ khoa, khoa nhi, cấp
cứu… đạo đức y học, vệ sinh phòng bệnh.
Tuy chịu ảnh hưởng của y học Trung Hoa nhưng Lãn Ông đã có óc sáng
tạo vận dụng y lí hợp với hoàn cảnh khí hậu và thể chất của người Việt
Nam và đã sử dụng thuốc Nam để chữa bệnh, như ở các cuốn Lĩnh Nam Bản
Thảo, Bách Gia Trân Tàng và Hành Giản Trân Nhu. Nhận định về Lĩnh Nam
không có thương hàn, Lãn Ông đã lập ra nhiều phương thang mới ghi ở cuốn
Ngoại Cảm Thông Trị. Đặc biệt trong 2 cuốn Dương Án và Âm Án, ghi lại
những y án và phân tích về những bệnh đã chữa khỏi hoặc không chữa được.
Cuốn Châu Ngọc Cách Ngôn để lại cho chúng ta những điều căn dặn rất bổ
ích về chẩn đoán trị liệu và những sai lầm tai hại cần tránh.
Bộ sách của ông được đánh giá cao cả trong và ngoài nước. Bộ sách
này đã đánh dấu bước tiến mới trong nền y học cổ truyền của Việt Nam,
góp phần phát triển nền y học của đất nước.
Bộ sách Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển, nội dung gồm:
1. Tập đầu: Có bài Tựa, Phàm lệ mục lục và Y nghiệp phần chương nói
về nghề y, thái độ tư cách, khái quát bộ sách và tập thơ Y Lí Thâu
Nhàn. 2- Nội Kinh Yếu Chỉ: nêu khái quát về cuốn kinh điển Nội kinh. 3. Y
Gia Quan Miện: Khái niệm về Âm dương, Ngũ hành, quẻ số, can chi, mạch
yếu. 4. Y Hải Cầu Nguyên: Soạn những lời thiết yếu của các tiên hiền,
chú giải kỹ để làm rõ những điều huyền bí. 5. Huyền Tẫn Phát Vi: Nói rõ
công dụng mở đầu của ‘Tiên thiên’, máy Âm dương, khiếu Thủy Hỏa và cách
phân biệt chứng trạng, dùng thuốc. 6. Khôn Hóa Thái Chân: gồm có công
dụng nuôi sống của ‘Hậu thiên’ nguồn gốc của khí huyết, cách luận bệnh
xử phương. 7. Đạo Lưu Dự Vận: đem các ý nghĩ còn nghi hoặc, chưa rõ
nghĩa trong các sách, cùng với những chỗ người xưa chưa nói đến để biện
luận rõ ràng mà bổ sung vào những chỗ còn thiếu sót. 8. Vận Khí Bí Điển:
chọn lấy bài phú Chiêm Vận, phong giác của họ Vương và thiên Ngọc Lịch,
ngũ hành, chia ra cách xem mây, xem gió, chủ vận, khách vận, chủ khí,
khách khí, lập thành từng cách nghiệm đoán. 9. Dược Phẩm Vận Yếu: chọn
lấy 150 vị thuốc thường dùng trong Bản thảo, chia làm 5 bộ để tiện tra
khảo. 10. Lĩnh Nam Bản Thảo: soạn các vị thuốc cây cỏ ở Lĩnh Nam (bao
gồm Việt Nam và miền Nam Trung quốc), chia thành môn loại, chú thích
tính chất, cách chữa, cách thu hái… 11.Ngoại Cảm Thông Trị bàn về nước
Nam ta không có bệnh thương hàn, mắc bệnh ngoại tà, đều là bệnh cảm mạo,
tác giả không theo hình chứng lục kinh của Thương hàn luận nhưng Lãn
Ông đã sáng chế ra 3 phương giải Biểu, 6 phương hòa Lý để chữa tất cả
các bệnh ngoại cảm. 12. Bách Bệnh Cơ Yếu: chọn lấy các bệnh, môn trong
sách kinh điển, xét nguyên nhân, cơ chế bệnh, phân biệt chứng trạng hư
thực, tiên lượng cách chữa, xử phương, dụng dược. 13. Y Trung Quan Miện:
soạn những điều hay mà tác giả đã lĩnh hội được ý nghĩa sâu sắc, những
điểm cốt yếu. 14. Phụ Đạo Xán Nhiên chọn lọc trong các sách Phụ khoa
những vấn đề về kinh nguyệt, đới hạ, thai, sản… lấy những điểm thiết
thực cốt yếu, bỏ chỗ rườm rà… đồng thời bổ sung thêm những ý kiến của
tác giả. 15. Tọa Thảo Lương Mô, tác giả thấy trong nhiều sách trước đó
về Sản khoa viết rườm rà, được điều nọ, mất điều kia nên ông soạn, sắp
xếp lại, bổ sung hoàn chỉnh hơn. 16. Ấu Ấu Tu Tri: tác giả thấy trong
nhiều sách Nhi khoa trước đó viết rời rạc, không thống nhất nên tác giả
đã soạn lại, xét nguyên nhân cơ chế bệnh sinh, phân biệt chứng trạng
cách chữa, xử phương làm chỗ cốt yếu và thêm phần tâm đắc. 17. Mộng
Trung Giác Đậu: trình bày đầy đủ các kiến thức về bệnh Đậu… và bổ sung
thêm kinh nghiệm đặc sắc phong phú. 18. Ma Chẩn Chuẩn Thằng: các phương
pháp và kinh nghiệm tâm đắc trong điều trị bệnh sởi. 19. Tâm Đắc Thần
Phương: trong khi lâm lâm sàng, tác giả đã hết sức suy nghĩ chọn ra
nhiều phương thuốc thần diệu trong Phùng Thị Cẩm Nang. 20. Hiệu Phỏng
Tân Phương: trong khi lâm sàng tác giả đã hết sức suy nghĩ lập ra nhiều
phương thuốc đáp ứng với tình thế khó khăn. 21. Bách Gia Trân Tàng: tiếp
thu bí phương của ông ngoại truyền lại cùng thu thập các phương thuốc
quý, chữa được nhiều trường hợp khó. 22. Hành Giản Trân Nhu: chọn lấy
các bài thuốc có những vị thuốc Nam, thuốc Bắc thông thường, dễ kiếm,
tiện dùng. 23. Y Phương Hải Hội: tập hợp soạn các thang tễ, hoàn tễ
trong các sách, rườm rà thì giảm đi, thiếu thì bổ sung thêm. 24. Y Án,
Dương Án: Những suy nghĩ tâm đắc về các trường hợp nguy nan mà chữa
thành công. 25. Y Án, Âm Án: tập hợp những bệnh án bệnh nặng, khó, tình
thế tuyệt vọng dù cố hết sức mà không kết quả để rút kinh nghiệm. 26.
Truyền Tâm Bí Chỉ hoặc còn gọi là Châu Ngọc Cách Ngôn, biện luận rõ ràng
đầy đủ những nghĩa lý sâu xa trong sách, những chỗ tinh hoa của y
thuật.
27.Tập Vĩ (cuối) là cuốn Thượng Kinh Ký Sự, thuật lại cuộc lên kinh
thành chữa bệnh cho Chúa Trịnh. Chỉ với giá trị sử học, văn học của
cuốn ký sự này đã làm cho sự nghiệp văn hóa của Hải Thượng Lãn Ông nổi
danh không kém gì sự nghiệp y học của tác giả. Về sau đã thu thập được
nốt 2 cuốn là Nữ Công Thắng Lãm và Vệ Sinh Yếu Quyết.
28 Tập của Pho Sách Bách Khoa Thư về Đông y “Lãn ông tâm lĩnh” là
28 viên ngọc quý, 28 vị sao (nhị thập bát tú) của bầu trời Y học phương
Đông.
*
Thượng kinh ký sự (Ký sự lên kinh) là tập ký sự bằng chữ Hán. Tác
phẩm được ông xếp vào cuối bộ (quyển 65) Hải Thượng Y tông tâm lĩnh
(Những lĩnh hội tâm huyết về ngành Y của Hải Thượng) của mình, như một
phụ lục, và được khắc in năm 1885. Đây là tác phẩm tiêu biểu nhất ở thế
kỷ 18 thuộc Thể ký (ghi việc, kể chuyện). Năm 1924, Nguyễn Trọng Thuật
dịch Thượng kinh ký sự và cho đăng trên Nam Phong tạp chí. Năm 1993, nhà
xuất bản Văn Học (Hà Nội) cho in Thượng kinh ký sự do Ứng Nhạc Vũ Văn
Đình dịch. Năm 1989, nhà xuất bản Thông Tin cho in Thượng kinh ký sự do
Phan Võ dịch, Bùi Kỷ hiệu đính.
Thượng Kinh ký sự kể chuyện một năm Lê Hữu Trác “thượng Kinh”, đáng chú ý là những trang mô tả quang cảnh kinh kỳ, nhất là trong phủ chúa Trịnh, nơi lắm xa hoa và quyền uy. Có thể nói, đây là những hình ảnh rất sống động mà ở vào thời ông sống chưa có nhà văn nào thực hiện được: đó là những ký sự đặc sắc và những sử liệu chính xác về sự sa hoa của phủ Chúa Trịnh:
Thượng Kinh ký sự kể chuyện một năm Lê Hữu Trác “thượng Kinh”, đáng chú ý là những trang mô tả quang cảnh kinh kỳ, nhất là trong phủ chúa Trịnh, nơi lắm xa hoa và quyền uy. Có thể nói, đây là những hình ảnh rất sống động mà ở vào thời ông sống chưa có nhà văn nào thực hiện được: đó là những ký sự đặc sắc và những sử liệu chính xác về sự sa hoa của phủ Chúa Trịnh:
“Tôi ngẩng đầu lên coi thì bốn phương tám mặt, nơi nào cũng cây cối
um tùm, chim kêu hoa nở, gió thoảng hương đưa. Những hành lang, những
bao lơn bước bước đều liên lu, nơi nơi đều cân đối. Kẻ gác cửa có việc
gì thì truyền báo, kẻ công dịch qua lại như mắc cửi. Tôi thầm nghĩ:
“Mình vốn là công gia tử đệ, sinh trưởng ở kinh đô, mọi chốn trong Cấm
thành đều thông thuộc; duy sự thể trong phủ chỉ được nghe nói thôi, mới
hay cái giàu sang của nhà vua chẳng phải tầm thường vậy.
Qua dẫy hành lang về phía tây thì đi dến một ngôi nhà lớn, vừa cao
vừa rộng, hai bên để hai cỗ kiệu ngự, những đồ nghi truợng đều chạm trổ
thiếp vàng; ở gian giữa kê cao một cái sập ngự cũng thiếp vàng; trên sập
treo một cái võng điều. Trước sập và hai bên sập có kê kỷ án, đồ đạc
chẳng thường thấy ở nhân gian. Tôi chỉ liếc mắt trông qua, cúi đầu mà
đi. Lại đi qua một cái cửa nách nữa thì đến một cái gác cao rộng. Trong
gác những giường cột từ trên xuống dưới đều sơn son” (Thượng Kinh Ký
sự).
Thượng kinh ký sự được tác giả viết theo thể nhật ký, không chia
chương mục. Ở bản in của nhà xuất bản Thông tin, người dịch (Phan Võ) đã
phân chia và đặt tên thành 10 tiểu mục: Giã nhà lên kinh ; Vào Trịnh
phủ ; Nhớ quê nhà ; Làm thuốc và làm thơ ; Đi lại với các công khanh ;
Tình cờ gặp người cũ ; Ngâm thơ, thưởng nguyệt ; Về thăm cố hương ;Vào
phủ chúa chữa bệnh ; Trở về quê cũ. Người đọc thời nay có thể đi theo Lê
Hữu Trác trên từng trang viết để được như là “tai nghe mắt thấy” rất
nhiều chuyện, tiếp xúc với rất nhiều người, ở nhiều nơi của xã hội Việt
Nam vào thời kỳ giữa TK18, thời kỳ có rất nhiều biến động lịch sử…
Chỉ nhìn vào những trang “ghi chép người thật, việc thật” của
Thượng Kinh ký sự, ta đã thấy đó là một cây bút “hiện thực” đặc sắc.
Song, với Lê Hữu Trác, một nhà thơ có tấm lòng ưu thời mẫn thế, có tâm
hồn đa cảm thì thiên Thượng Kinh ký sự không chỉ là “hiện thực sinh
động” mà hòa vào từng chi tiết hiện thực ta đều thấy tâm tư sâu lắng,
tình cảm tinh tế mà chan chứa, thiết tha của một nhân cách lớn. Với
những bậc đại Nho xưa, khi đã nhìn rõ sự xấu xa, thối nát của chính sự
thì thường là “thoát tục” (ở ẩn, tu Tiên…). Lê Hữu Trác đã không “thoát
tục” mà chọn cách xử thế là “cứu nhân độ thế”. Vì vậy, những ngày tháng
phải ngồi chầu chực bên Phủ Chúa để chữa bệnh cho Trịnh Cán, mà không có
hy vọng gì chữa khỏi bệnh, Lê Hữu Trác luôn đau đáu một nỗi nhớ quê
nhà, nơi đó có những người thân, những người dân nghèo đang cần ông giúp
đỡ. Cái tâm trạng này luôn thường trực trong suy nghĩ, cảm xúc của nhà
thơ:
”Đêm hôm đó, tôi ngồi ngơ ngẩn một mình lại nhớ tới quê xưa. Trăng
trong chiếu cửa sổ, mối tình thao thức chẳng chớp mắt được. Canh khuya
mỏi mệt nằm trong cửa sổ mà ngủ. Nhưng tâm hồn sầu muộn cứ quấn quít bên
gối, chợp chờn nghe tiếng chim vừa bay vừa kêu, bỗng tỉnh giấc. Một
điểm sáng đèn tàn còn nguyên trên vách, tôi gọi tiểu đồng mang đàn lại
chuyển điệu giờ lâu, lại sai pha trà, uống chừng vài ba chén trà cũng vô
vị. Tôi ra trước sân đi tản bộ miễn cưỡng ngâm vài bài thơ nhỏ để tự an
ủi:
Bài thứ nhất:
Tỉnh giấc quê đâu tá / Trước thềm nguyệt ló ra
Kêu đàn chim độc nọ / Ngắm cảnh hồ thu xa
Chơi núi thường nằm mộng / Ở Kinh vẫn thế mà
Dẫu khôn mà hóa dại / Danh nọ cứ ham a?
Kêu đàn chim độc nọ / Ngắm cảnh hồ thu xa
Chơi núi thường nằm mộng / Ở Kinh vẫn thế mà
Dẫu khôn mà hóa dại / Danh nọ cứ ham a?
Bài thứ hai:
Cảnh tối ngồi nơi vắng / Từng mây lắng nhạn bay
Hồ trong trăng chiếu sáng / Cây cối hoa nở chầy
Trà cạn lòng thơ cạn / Đàn đây nỗi khách đây
Thương gà kêu nhớn nhác / Tinh tú quan hà đầy !”.
Hồ trong trăng chiếu sáng / Cây cối hoa nở chầy
Trà cạn lòng thơ cạn / Đàn đây nỗi khách đây
Thương gà kêu nhớn nhác / Tinh tú quan hà đầy !”.
(Thượng Kinh ký sự)
Và hai bài thơ khác cũng ứng tác trong nỗi nhớ nhà:
Kỳ khách xá ngộ vũ cảm hoài thi văn
Cuồng phong sậu vũ hốt nhiên sinh / Khách xá tiêu tiêu vạn lũ tình
Viễn thụ hàm yên vân ngoại ám / Bình hồ suy lãng thủy trung minh
Qui sào mộ điểu phân quần khứ / Hà xứ sơ chung báo hiểu minh
Bất vị khổ trà năng khước thụy / Ưng tri thử dạ mộng nan thành.
Ở nhà trọ gặp mưa cảm hoài
Bỗng đâu gió táp lại mưa sa
Trăm mối u tình kẻ trọ xa
Mây cách hàng cây làn khói ám
Nước rung đợt sóng mặt hồ đưa
Chim chiều tìm tổ chia bầy tẽ
Chuông sớm ngờ nơi báo sáng mà
Trà đắng ai rằng không chợp mắt?
Đêm nay mộng mị dở dang a!
Kỳ đối nguyệt thư hoài thi văn
Nhận đắc Hương sơn nhất phiến nguyệt / Như hà dạ dạ chiếu thần kinh
/ Ỷ lâu ca quản thiên hồi túy / Cận thủy đình đài vạn sắc sinh / Đãn
giác thanh thiêm diên thượng khúc/ Ưng tri đạm bức lữ trung tình / Di
chân đường thượng kim tiêu hội / Mạc cổ dao cầm tác oán thanh.
Trông trăng tả nỗi lòng
Hương sơn vẫn một mảnh trăng thanh
Tối tối thường soi khắp đế kinh
Cai quản tựa lầu say túy lúy
Đình đài gần nước ánh long lanh
Thanh cao khúc nhạc người trong tiệc
Lạnh nhạt tình ai buổi lữ hành
Nhà mát Di chân đêm tại đó
Đàn kia ai oán gẩy sao đành!
Trông trăng tả nỗi lòng
Hương sơn vẫn một mảnh trăng thanh
Tối tối thường soi khắp đế kinh
Cai quản tựa lầu say túy lúy
Đình đài gần nước ánh long lanh
Thanh cao khúc nhạc người trong tiệc
Lạnh nhạt tình ai buổi lữ hành
Nhà mát Di chân đêm tại đó
Đàn kia ai oán gẩy sao đành!
(Thượng Kinh ký sự).
Ở Thượng Kinh ký sự, Lê Hữu Trác luôn tức cảnh
sinh tình mà ứng khẩu thành thơ, dù ở bất kỳ trường hợp nào, vui thì có
thơ vui, buồn có thơ buồn. Có thể nói, số lượng thơ trong Thượng Kinh ký
sự khá nhiều và Nhà nghiên cứu văn học Tạ Ngọc Liễn đã nhận xét rất
đúng về Thơ của Lê Hữu Trác trong tập Thượng Kinh ký sự này:
”Trong tập có những bài thơ, đã cho thấy ông có trái tim của một
thi sĩ đích thực. Thơ ông có những xúc cảm nồng nàn giàu ý vị, có những
cái đẹp thanh tú, diễm lệ của núi sông, của trăng gió. Dường như bài thơ
nào của ông cũng có câu hay, câu lạ, hoặc về hình tượng, hoặc về lối
đặt câu, đảo ngữ. Đặc biệt, ông có một bài thơ nói về mối tình lỡ dở của
mình rất hay… “.
Bài thơ đó như sau:
Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa! / Kim nhật tương khan khổ tự ta.
Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ; / Song mâu xuân tận hiện hình hoa.
Thử sinh nguyện tác càn huynh muội, / Tái thế ưng đồ tốn khất gia.
Ngã bất phụ nhân, nhân phụ ngã, / Túng thiên như thử nại chi hà?
Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ; / Song mâu xuân tận hiện hình hoa.
Thử sinh nguyện tác càn huynh muội, / Tái thế ưng đồ tốn khất gia.
Ngã bất phụ nhân, nhân phụ ngã, / Túng thiên như thử nại chi hà?
Dịch nghĩa:
Vì vô tâm thành chuyện làm nhầm lỡ cho người, / Ngày nay nhìn nhau đắng cay than thở
Một nụ cười bao tình cảm, lệ tuôn chảy, / Hai tròng mắt đã hết xuân bỗng hiện hình hoa.
Kiếp này nguyện làm anh em kết nghĩa, / Kiếp sau xin sẽ thành vợ chồng.
Ta không phụ người mà người phụ ta, / Nếu phỏng như thế thì làm thế nào đây?
Một nụ cười bao tình cảm, lệ tuôn chảy, / Hai tròng mắt đã hết xuân bỗng hiện hình hoa.
Kiếp này nguyện làm anh em kết nghĩa, / Kiếp sau xin sẽ thành vợ chồng.
Ta không phụ người mà người phụ ta, / Nếu phỏng như thế thì làm thế nào đây?
Phan Võ dịch thơ:
Lầm người, sự bởi vô tâm,
Nhìn nhau, nay những luống thầm thở than!
Một cười, giọt lệ chứa chan,
Mắt trông, xuân hết hoa tàn thương thay.
Anh em kết nghĩa kiếp này,
Kiếp sau cầm sắt bén dây họa là.
Trót vì người phụ lòng ta,
Ôi thôi, đành vậy, biết là làm sao?
Nhìn nhau, nay những luống thầm thở than!
Một cười, giọt lệ chứa chan,
Mắt trông, xuân hết hoa tàn thương thay.
Anh em kết nghĩa kiếp này,
Kiếp sau cầm sắt bén dây họa là.
Trót vì người phụ lòng ta,
Ôi thôi, đành vậy, biết là làm sao?
Xuất xứ của bài thơ đã được Lê Hữu Trác nói rõ
trong Thượng kinh ký sự: trước đây gia đình Lê Hữu Trác có dạm hỏi một
cô gái, là con quan Tả Thừa ty ở Sơn Nam, cho ông cưới làm vợ. Đã làm lễ
vấn danh và ăn hỏi rồi, nhưng có việc trở ngại, khiến ông phải từ hôn,
và về ở luôn quê ngoại Hương Sơn. Năm, sáu năm sau, ông lên kinh thì
nghe tin vị quan trên đã qua đời, còn cô gái đau khổ kia đã thề suốt đời
không lấy ai…Trong thời gian ở Kinh, tình cờ ông gặp lại người xưa, mà
giờ đây đã thành một bà sư già, khổ hạnh và cô độc.
“Từ đó thói thường qua lại hỏi thăm nhau. Bà ấy nói là ở Nghệ An có
nhiều gỗ đóng quan tài, bà xin mua cho bà một cỗ. Tôi sai người đi
kiếm, nhưng chưa được. Ngày tôi được thả cho về, tôi trao cho người lo
việc ấy năm quan tiền cổ để tìm mua bán mà tặng bà ta…” (Thượng Kinh Ký
sự). Câu chuyện thật sự cảm động đến nao lòng!
*
Khi ở Kinh thành, Lê Hữu Trác thường tiếp xúc với
các Quan Ngự Y và cũng đi chữa trị cho những người quen. Phần viết về
những chuyện “nghề Y” này thật sinh động, thật đặc sắc bởi như là “đúng
tủ” của Tác giả! Ở những trang viết này, người đọc sẽ có được những bài
học quý giá không chỉ về nghề thuốc mà cả về những đạo lý nhân sinh:
“Hồi tôi ở trong núi cứ tưởng rằng ở đế đô có các danh y, học thuật
giỏi giang, tinh diệu nhập thần. Tôi thường than là mình vô duyên nên
không được cùng nhau gặp gỡ. Khi đến kinh thì thấy thầy thuốc trị bệnh
không nói là phong hỏa thì cũng bảo là bệnh thấp đàm. Nếu cho là bệnh hư
mà chịu dùng thuốc bổ thì chỉ phô diễn khí huyết mà thôi. Còn như chân
thủy, chân hỏa là cái gốc để giữ cái mệnh, cái cốt yếu để cầu sống thì
tuyệt nhiên không một chút nào coi làm trọng. Sao cái nghề thuốc lại khó
đến như vậy! Nhớ xưa Tiên Chính có nói: “Người nước ta học nghề y mà
không tinh là vì mắc phải hai cái bệnh: một là người trong đám nho học
đọc sách thuốc từ đầu đến cuối, một lượt là xong, tuyệt nhiên không nghi
ngờ nghĩa sách, tự cho là không có gì khó, dến khi dùng thuốc thì lại
hấp tấp bất cẩn; hai là văn lý tự hoạch chỉ mới được nửa thôi, nếu có
tập nghề thuốc thì cũng không khỏi tưởng tượng mơ hồ, nghi hoặc, như thể
kẻ kéo cây cung, sức chẳng đủ thì cho là cung cứng”. Thật là lời nói
đích đáng vậy. Than ôi! Kẻ bất túc là kẻ có bệnh sẵn, kẻ có dư cũng là
kẻ có bệnh. Há chẳng phải là khó ru? Nhân đây tôi ngâm mấy câu rằng:
Cổ vân dụng dược như dụng binh / Sinh sát quan đầu hệ mi khinh
Quốc thủ do đa khuy phạp xứ / Tàm dư cô lậu lý nan minh!
Từ xưa dùng thuốc tựa dùng binh
Quốc thủ do đa khuy phạp xứ / Tàm dư cô lậu lý nan minh!
Từ xưa dùng thuốc tựa dùng binh
Sinh sát ai người dám rẻ khinh
Đầu sỏ nghề y còn yếu kém
Đầu sỏ nghề y còn yếu kém
Quê mùa ta thẹn lý chưa minh!”.
(Thượng Kinh Ký sự).
Sài Gòn, tháng 8-2010
Đỗ Ngọc Thạch
—-
Chú thích:
(*) Lê Hữu Mưu là Danh sĩ đời Lê Dụ Tông, hiệu Phác Trai, con thứ 9
Hoàng giáp Lê Hữu Danh, quê xã Liêu Xá, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương
(nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).
Năm Canh Dần 1710, ông đỗ tam giáp tiến sĩ, làm đến Bồi tụng, Hữu
thị lang bộ Công rồi giảng sách ở tòa Kinh diên. Sau được tặng Tả thị
lang, phong tước Phu Đình Bá. Ông có tiếng văn thơ, tài đức được sĩ phu
kính trọng. Người con thứ 7 của ông là Lê Hữu Trác về sau được nhân dân
xưng tụng là Tổ sư Đông y Việt Nam. Ông có soạn bản sách Văn Xá Lê tộc
thế phả, ghi chép rõ về gia tộc ông.
Văn Xá Lê tộc thế phả (1 cuốn) do ông biên soạn từ tiên tổ họ Lê là
Lê Phúc Tiến giữ chức Quốc tử giám vào đời Hồng Đức (1470-1497). Sách
chép kĩ từ đời có ông Lê Hữu Danh đậu nhị giáp Tiến sĩ khoa Canh Tuất
(1670) làm quan đến Hiến sát sứ được phong tước Văn Uyên Bá trong đó có 3
con và cháu đậu tiến sĩ là Hữu Hỷ, Hữu Mưu, Hữu Kiều, con thứ bảy của
Hữu Mưu là Lê Hữu Chẩn, Lê Hữu Chẩn húy là Trác hiệu là Hải Thượng Lãn
Ông. Lê Hữu Trác (Chẩn) đậu nho sinh khoa Quý Hợi triều Lê (1731). Sau
bỏ học khoa cử chuyên học nghề thuốc và đã thành công trong sự nghiệp y
học.
(1) Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1739 – 1782) là vị chúa Trịnh thứ 9
thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, cai trị từ năm 1767 đến 1782;
người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá..Sâm là con trưởng của
Minh Đô Vương Trịnh Doanh. Năm Ất Sửu (1745), được lập làm Thế tử. Trịnh
Doanh tỏ ra cẩn trọng việc nuôi dạy con, bổ dụng 2 tiến sĩ là Dương
Công Chú và Nguyễn Hoàn làm tư giảng cho Trịnh Sâm. Tháng 10 năm Mậu Dần
(1758), Trịnh Doanh phong cho Sâm làm Tiết chế thuỷ bộ chủ quân, Thái
uý Tĩnh Quốc Công mở phủ Lượng Quốc và hết thảy công việc triều chính
được giao cho Trịnh Sâm.
(2) Điện Đô Vương Trịnh Cán (1777 – 1782) là vị chúa Trịnh thứ mười
thời Lê trung hưng, ở ngôi từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1782; là con của
chúa Trịnh Sâm và tuyên phi Đặng Thị Huệ (2*). Sinh và mất tại Thăng
Long. Trịnh Cán, là con thứ của chúa Trịnh Sâm, lên ngôi thế tử năm 1780
sau khi anh là Trịnh Khải bị phế truất vì vụ án năm Canh tý. Trịnh Cán
là một đứa trẻ ốm yếu liên tục nên “khí lực khô kiệt”, thân hình gầy gò,
xanh xao. Tháng 9 năm 1782, Trịnh Sâm mất. Đặng Thị Huệ và Huy quận
công Hoàng Đình Bảo lập Trịnh Cán lên ngôi chúa với tước hiệu Điện Đô
vương, lúc đó Trịnh Cán mới 6 tuổi. Tuyên phi Đặng Thị Huệ trở thành
người điều khiển triều chính cùng với Huy quận công Hoàng Đình Bảo.
Tháng 10 nǎm 1782, Dự Vũ là tay chân của Trịnh Khải xúi kiêu binh
(lính Tam phủ) nổi loạn, giết chết Hoàng Đình Bảo, truất ngôi Trịnh Cán
và giáng xuống làm Cung quốc công. Tuyên phi Đặng Thị Huệ bị truất xuống
thứ dân, sau tự tử. Trịnh Cán bị đưa ra ở phủ Lượng quốc rồi ốm chết, ở
ngôi được gần hai tháng.
(2*)Đặng Thị Huệ (? - ?) là vợ chúa Trịnh Sâm. Quê ở làng Trà
Hương, huyện Phù Đổng, trấn Kinh Bắc, nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố
Hà Nội. Xuất thân nghèo khổ, vốn là cô gái hái chè, sau về với chúa
Trịnh Sâm, được lập làm Tuyên Phi, nhưng người đời vẫn quen gọi là Bà
Chúa Chè. Khi vào phủ chúa, Đặng Thị Huệ vốn chỉ là nữ tỳ. Một hôm, Tiệp
dư Trần Thị Vịnh sai Huệ bưng một khay hoa đến trước nơi chúa Trịnh Sâm
ngồi. Trịnh Sâm nhìn thấy Huệ thì rất bằng lòng, bèn ân ái. Từ đó Huệ
ngày càng được Trịnh Sâm sủng ái, ít khi rời. Năm Đinh Dậu (1777), Đặng
Thị Huệ lại sinh hạ một người con trai, tên là Trịnh Cán (1777-1782),
nên càng được chúa sủng ái, lập làm Tuyên Phi. Trước đây, một cung nhân
khác là Dương Ngọc Hoan, được vào hầu chúa Trịnh Sâm đã sinh một con
trai là Trịnh Khải (tên cũ là Tông, 1763-1786).
Được chúa yêu, Đặng Thị Huệ bèn hỏi con gái chúa là Công nữ
Ngọc Lan cho em trai mình là Đặng Mậu Lân (2*1), vốn là người có tính
hung bạo, dâm dật và càn rỡ. Nhưng chúa cũng nghe theo, khiến Sử trung
hầu bị Mậu Lân chém chết trong việc bảo vệ Ngọc Lan. Biết chúa rất sủng
ái mình, Đặng Thị Huệ ngày đêm mưu tính việc giành lấy ngôi vị Thế tử
cho con trai.
Đề cập đến chuyện này, sách Hoàng Lê nhất thống chí viết: Theo lệ
cũ, người con trai nối ngôi chúa hễ đến mười hai tuổi thì phải ra ở Đông
cung. Bấy giờ các quan cũng có tâu trình việc ấy; song chúa không cho,
chỉ cho Thế tử (Trịnh Khải) đến ở nhà riêng của Hân quận công (Nguyễn
Đĩnh). Như vậy, ngôi Đông cung vẫn bỏ trống, như có ý chờ đợi người
khác.
Đến năm Thế tử mười lăm tuổi, thì con nhỏ là vương tử Cán ra đời,
chúa hết sức yêu dấu đứa con nhỏ đó. Ba năm sau, Thế tử đúng mười tám
tuổi, đáng được mở phủ riêng; nhưng bấy giờ các quan chẳng ai dám tâu
bày, mà chúa cũng không hề nhắc tới việc ấy. Như thế là người nối ngôi
vẫn chưa định, nên lòng người rất phân vân. Hễ ai thuộc về Thế tử Tông
(tức Trịnh Khải) thì hùa theo Thế tử Tông, ai thuộc đảng Thị Huệ thì vào
phe vương tử Cán. Trong phủ chúa dần dần sinh ra bè nọ cánh kia.
Kể từ đó, một mặt Huệ bí mật sai thuộc hạ thân tín, sớm tối thêu
dệt đủ mọi chuyện xấu vu cho Trịnh Khải; mặt khác, liên kết với Huy Quận
công Hoàng Đình Bảo (2*2) để cùng mưu sự. Phía Trịnh Tông cũng có lực
lượng hậu thuẫn. Hậu quả của cuộc tranh giành quyền lực này đã gây ra
hai vụ biến động lớn là Vụ án năm Canh Tý và cuộc nổi dậy của lính Tam
phủ.
Tháng 8 năm Canh Tý (1780) lúc ấy có tin đồn rằng chúa Trịnh Sâm bị
bệnh rất nặng, Trịnh Khải bèn bàn mưu với gia thần là Đàm Xuân Thụ, Thế
Thọ, Thẩm Thọ và Vĩnh Vũ bí mật sắm sửa vũ khí, chiêu tập dũng sĩ, để
chờ thời cơ. Ngoài ra, Trịnh Khải còn ngầm liên kết với Trấn thủ Sơn Tây
là Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản, Trấn thủ Kinh Bắc là Tuân sinh hầu Nguyễn
Khắc Tuân để sẵn sàng hỗ trợ.
Việc mưu sự, bị Cấp sự trung Nguyễn Huy Bá biết được, ngầm kể với
Tuyên Phi. Chớp lấy thời cơ, Huệ liền đem việc đó bàn với Quận Huy (tức
Hoàng Đình Bảo). Quận Huy liền đến phủ chúa, kể sự tình cho Chúa Trịnh
Sâm…Kết cuộc, phe Đặng Thị Huệ thắng thế. Theo sách Hoàng Lê nhất thống
chí, thì có ba đại thần theo phe Trịnh Khải đều phải mất mạng: Khê trung
hầu, Tuân sinh hầu (Nguyễn Khắc Tuân) đều uống thuốc độc tự tử, Nguyễn
Quốc Tuấn (thuộc hạ của Khắc Tuân) bị án chém; còn Trịnh Khải bị quản
thúc ngặt trong một ngôi nhà ba gian.
Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (gọi tắt là Cương
mục) thì: Đàm Xuân Thụ bị giết, Nguyễn Lệ và Nguyễn Khắc Tuân bị tống
giam vào ngục, hoạn quan Nguyễn Phương Đĩnh (hoặc Định) bị kết tội nuôi
dưỡng Trịnh Khải không nên người, bị lột hết chức tước và đuổi về làng;
còn Trịnh Khải bị giáng xuống làm con út và bị quản thúc trong nội phủ.
Ngay trong năm này, mặc dù Trịnh Cán chỉ mới 4 tuổi vẫn được lập làm Thế
tử, Quận Huy được làm phò tá. Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm
mất, Trịnh Cán được nối ngôi chúa, hiệu là Điện Đô Vương.Thuận theo lời
tâu của Quận Huy, vua Lê Hiển Tông cho Tuyên Phi được tham dự việc quyết
đoán chính sự. Kể từ đó, liên minh Tuyên Phi – Quận Huy nắm hết mọi
việc trong ngoài.
Nạn kiêu binh: Sự kiện xảy ra vào tháng 10 năm Nhâm Dần (1782),
đúng một tháng sau khi chúa Trịnh Sâm mất, và cũng đúng một tháng sau
khi Trịnh Cán được đưa lên ngôi chúa. Lính kiêu binh ủng hộ Trịnh Tông
cùng nhau mưu đảo chính lật đổ Trịnh Cán để lập Trịnh Tông. Họ ngầm liên
hệ với mẹ Trịnh Sâm xin ý chỉ, bên ngoài dựa vào sự chi viện của Phan
quận công (Nguyễn Phan), và nhờ Nguyễn Nhưng làm bài (hịch) khích lệ
quân lính. Khi quân Tam phủ nổi dậy, quận Huy ra chống cự nhưng không
nổi, bị kiêu binh giết chết. Lính Tam phủ rước Trịnh Tông lên nối nghiệp
chúa. Các đình thần im lặng không dám chống cự.
Hôm việc biến xảy ra, Đặng Thị Huệ khiếp sợ quá, phải thay đổi quần
áo, nấp ở hậu cung. Riêng chúa Trịnh Cán, được Quận Diễm bế đi lánh
nạn. Đến đêm, bà nội Trịnh Cán (bà Sét – mẹ Trịnh Sâm) sai người tìm
rước cháu về. Hôm sau, Trịnh Cán bị giáng xuống làm Cung quốc công, rồi
hơn tháng sau thì bị bệnh qua đời.
Những ngày cuối đời của Đặng Thi Huệ, Hoàng Lê nhất thống chí chép
như sau: Khi chúa nhỏ bị bỏ, Thái phi (Dương Ngọc Hoan) liền sai người
bắt Tuyên phi hài tội, rồi buộc bà phải lạy tạ. Tuyên phi không chịu
lạy, Thái phi bèn sai hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Tuyên phi rập
đầu xuống đất, nhưng bà vẫn nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói
nửa lời. Thái phi giận quá, đánh đập một hồi, nhỏ nước bọt vào đầu vào
mặt, rồi đem giam vào nhà Hộ Tăng ở vườn sau. Tại đây, Đặng Thị Huệ bị
làm tình làm tội cực kỳ khổ sở. Một bữa, bà trốn ra khỏi cửa Tuyên Vũ,
chạy đến bến đò phố Khách thì bị quân lính đuổi kịp…Sau một thời gian
giam giữ ngặt, Thị Huệ được cho làm cung tần nội thị, vào Thanh Hóa hầu
hạ lăng tẩm chúa Trịnh Sâm. Ở đây, bà ngày đêm gào khóc xin được chết
theo chồng. Đến ngày giỗ của chúa Trịnh Sâm, Tuyên phi uống thuộc độc mà
chết, được táng cách Vọng lăng (lăng Trịnh Sâm) một dặm.
(2*2) Hoàng Đình Bảo (1743-1782) là Huy quận công (còn gọi là Quận
Huy) thời Lê-Trịnh. Trước tên là Đăng Bảo, sau đổi là Tố Lý, lại đổi là
Đình Bảo; quê ở Hoan Châu (nay thuộc huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh). HĐB đậu
hương tiến, lại đậu tạo sĩ, lấy con gái chúa Trịnh Doanh.. Năm 1774,
theo quận Việp Hoàng Ngũ Phúc đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chiếm được
kinh thành Phú Xuân. Năm 1778, HĐB được Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm cho coi
việc phủ chúa và lĩnh chức trấn thủ Sơn Nam (địa bàn của Sơn Nam thời Lê
gồm: Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình).
Bấy giờ trong họ Trịnh xảy ra tranh chấp ngôi thế tử giữa con
trưởng là Trịnh Tông và con thứ là Trịnh Cán, do người mẹ Cán là Tuyên
phi Đặng Thị Huệ làm đại diện. Quận Huy từng có ý theo Trịnh Tông nhưng
không được bèn ngả theo Đặng Thị Huệ giúp Trịnh Cán còn nhỏ. Nhân vụ án
năm Canh tý (1780), Trịnh Tông có ý làm loạn thất bại nên bị truất làm
con út, ngôi thế tử thuộc về Trịnh Cán. Sau khi Trịnh Sâm mất, Trịnh Cán
mới 5 tuổi lên thay, tức là Điện Đô vương. Quận Huy được cử giữ chức
phụ chính. Vì Tuyên phi còn trẻ tuổi, quận Huy thường ra vào bàn kế với
Tuyên phi nên mọi người dị nghị Bảo tư thông với Tuyên phi. Người đời
đồn đại câu: Trăm quan có mắt như mờ / Để cho Huy quận vào rờ chính
cung!
Lính kiêu binh ủng hộ Trịnh Tông cùng nhau mưu đảo chính lật đổ
Trịnh Cán để lập Trịnh Tông. Sách Lê quý dật sử chép vắn tắt chuyện như
sau:
Lính trong phủ ước hẹn cùng vào núi bí mật toan định ngày giờ phế
lập. Bèn bên trong theo ý quốc mẫu (mẹ Trịnh Sâm), bên ngoài dựa vào sự
chi viện của Phan quận công (Nguyễn Phan), và nhờ tiến triều Nguyễn
Nhưng làm bài (hịch) khích lệ quân lính, phù chính nghĩa. Lại có Thư lại
đội quân Tiệp Bảo là Nguyễn Bằng (Hoàng Lê nhất thống chí ghi tên Bằng
Vũ) tự xin lên gác phủ đánh trống làm hiệu.
(Nghe có biến) Quận Huy sai đội quản voi chỉnh đốn bành voi. Huy
lên voi tuần hành để răn đe quân sĩ..Quân sĩ đập phá gạch ngói ném bừa
vào Huy. Huy bị thương ngã gục trên mình voi, quân sĩ lại lấy kiếm dài
đâm lên, làm Huy bị thương tiếp. Rồi (họ) lấy câu liêm lôi (Huy) xuống,
băm ra từng khúc, tranh nhau ăn gan Huy… Khi đó, lính trong phủ đã rước
Thế tử Trịnh Tông (tức Khải) lên nối nghiệp chúa, và dời Trịnh Cán đến ở
một cung khác. Ngày hôm đó, nhà cửa dinh thự của các quan lại trong
kinh đô đều bị lính phá hủy gần hết. Đình thần im hơi lặng tiếng, đứng
yên một chỗ. Kể từ đó quyền hành lọt hết vào tay lính tam phủ.
Quận Huy bị giết, Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ bị truất, Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương.
(2*1) Đặng Lân hay Đặng Mậu Lân, tục gọi cậu Trời (? - ?) là em
ruột Tuyên phi Đặng Thị Huệ, là Quận mã của chúa Trịnh Sâm; nổi tiếng là
người càn rỡ và dâm dật trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đặng Lân,
cũng như chị là Đặng Thị Huệ, các sử sách còn lưu lại đều không ghi cha
mẹ họ là ai, chỉ cho biết rằng Thị Huệ sinh ra trong nhà nghèo khó ở
làng Phù Đổng, huyện Đông Anh, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hà Nội). Từ khi
Huệ được phong làm Tuyên phi, có quyền hành lớn, thì em là Đặng Lân cũng
có chỗ dựa để lộng hành…
Trong sách Tang thương ngẫu lục, Nguyễn Án kể: Quận mã Đặng Lân là
em bà Đặng Tuyên phi của chúa Tĩnh Vương (Trịnh Sâm), thường hay ngông
càn phạm phép. Y cưỡng gian một người đàn bà không được bèn cắt vú người
ta. Người chồng kiện đến quan, y bị bắt giam ở ngục Ngự sử đài rồi vì
có Phi xin cho mà được tha. Tĩnh vương đem nàng Quận chúa thứ hai gả cho
Lân, các đồ trang liêm và của hồi môn, so với các triều trước nhiều gấp
mười lần. Phủ đệ dựng ở phía Tây nam kinh thành Thăng Long, đồ ăn thức
dùng đàng hoàng như một vị vương giả. Lân càng làm nhiều sự càn rỡ, nuôi
trong nhà hơn trăm gia đồng, thường cho độ mũ đeo gươm, ra ngoài chợ
phố đi nhung nhăng, uống rượu say đánh người bị thương, quan Kinh doãn
không kiềm chế nổi. Mỗi khi Lân đi ra, đem theo đến hàng mấy chục con
chó săn, con nào cũng đeo nhạc vàng, khoác áo thêu, hét trước hò sau,
lấp cả đường lối. Một lần nhân cơn tức giận, Lân giết chết nội giám là
Sử thọ hầu, rồi cắm thanh gươm ở trước cửa để không ai dám vào bắt…
Sách Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ nhất, cũng mô tả tương tự:
Đặng Mậu Lân này vốn là một tên hung bạo, từ khi Thị Huệ được chúa yêu
dấu Lân lại càng ỷ vào thế chị để làm những việc càn rỡ. Hết thảy áo
quần, xe kiệu của y, nhất nhất đều rập kiểu theo đúng như của vua chúa.
Thường ngày, Lân vẫn đem theo vài chục tên tay sai, cầm gươm vác giáo đi
nghênh ngang khắp kinh ấp. Hễ gặp xe kiệu, bất kỳ là của đám quan quân
nào, Lân cũng đều cà khịa đánh nhau làm cho họ nhục nhã, rồi lấy thế làm
thích thú. Gặp đàn bà con gái giữa đường, hễ người nào trông vừa mắt,
tức thì Lân sai tay chân quây màn trướng ngay tại chỗ, rồi lôi người ấy
vào hiếp liền. Ai không chịu, Lân xẻo luôn đầu vú. Chồng hoặc cha kẻ bị
nạn, nếu dám hé răng kêu ca, lập tức Lân sai quân vặn gãy răng, hoặc
cũng có người bị đánh đến chết. Người thiên hạ sợ Lân hơn sợ beo sói.
Tác giả sách trên còn kể, một hôm Đặng Thị Huệ hỏi con gái yêu của
chúa là Ngọc Lan cho em trai mình. Chúa không bằng lòng, nhưng vì nể
Tuyên phi phải nghe theo. Thế rồi, cuộc hôn nhân được tiến hành, nhưng
chúa lấy cớ rằng công nữ chưa từng lên đậu lên sởi, để không cho phép
Đặng Lân hợp cẩn. Vậy cho nên Đặng Lân cứ mỗi lần vào với công nữ thì
lại bị nội giám Sử Trung (người được chúa cho đi theo để bảo vệ công
nữ), ngăn cản. Hết sức tức giận, Lân tuốt gươm chém chết Sử Trung… Nghe
tin dữ, chúa phải sai Quận Huy (Hoàng Đình Bảo) đem quân vây bắt Lân,
giải về phủ, giao cho triều đình xử tội. Các quan đều nói tội giết sứ
giả đáng bêu đầu. Tuyên phi nghe tin, khóc lóc xin chết thay em. Chúa
bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết và giảm xuống thành tội đi đày…
(3) Tuệ Tĩnh Thiền sư (1330-?), thường được gọi là Tuệ Tĩnh hoặc
Huệ Tĩnh , người làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ
Thượng Hồng (tỉnh Hải Dương), được suy tôn là ông tổ ngành dược Việt Nam
và là người mở đầu cho nền y dược cổ truyền Việt Nam. Các bộ sách Nam
Dược thần hiệu và Hồng Nghĩa giác tư y thư của ông không chỉ có ý nghĩa
trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học Việt Nam. Nhiều thế kỷ
qua, Tuệ Tĩnh được tôn là vị thánh thuốc Nam. Từ bao đời nay, giới y học
Việt Nam đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc xây dựng
một quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế Việt Nam. Câu nói
của ông “Nam dược trị Nam nhân” thể hiện quan điểm đầy biện chứng về mối
quan hệ mật thiết giữa con người với môi trường sống xung quanh.
Trong cuốn Hồng Nghĩa giác tư y thư, do Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
xuất bản năm1978 có hai phần: Quyển Thượng: Nam Dược Quốc Ngữ Phú ghi
590 tên vị thuốc nam và “Trực giải chỉ nam dược tính phú” gồm đặc tính
của 220 vị thuốc nam. Quyển Hạ: Y luận, là sách viết về các lý luận từ
âm dương ngũ hành sinh hóa vào con người trong tiết khí bốn mùa, sự ảnh
hưởng vào bệnh tật, cách điều trị lâm sàng. Và “Thập tam phương gia
giảm” phụ “Bổ âm đơn và dược tính phú” bằng chữ Hán. Là sách hướng dẫn
gia, giảm khi dùng thuốc chữa bệnh.
Cuốn Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh, được NXB Y học Hà Nội, in lần
thứ hai vào năm 1972. Bộ này gồm 11 quyển: Quyển đầu nói về dược tính
của 119 vị thuốc nam. Mười quyển sau, mỗi quyển nói về một khoa trị
bệnh…
Cả hai bộ sách này của Tuệ Tĩnh đều có ảnh hưởng rất sâu rộng trong
y gia Việt Nam, mà cho đến hôm nay, vấn đề lý luận và thực tiễn vẫn
luôn được thừa kế phát triển và phổ biến. Nhất là cuốn Nam Dược Thần
Hiệu của ông, nhiều thầy thuốc từ trước đến giờ, vẫn theo phương pháp
trị liệu của Tuệ Tĩnh để chữa bệnh rất hiệu quả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét