Chúc mừng Năm Mới 2013
Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch (VNCN; 39)
Trích: Ký ức Làm Báo 3
Ký ức làm báo 2
- Chi tiết
- Chuyên mục: Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
- Lượt xem: 532
Tôi
bắt đầu viết báo từ thời còn là sinh viên nhưng chỉ là nổi hứng thì
viết và chỉ mới biết báo chí ở sản phẩm “giấy trắng mực đen” chứ chưa
biết gì về nghề báo, tức để có tờ báo “giấy trắng mực đen” đó, người
ta đã phải làm những gì, tức qui trình làm báo từ A tới Z.
Ký ức làm báo 3
- Chi tiết
- Chuyên mục: Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
- Lượt xem: 509
1. “Dũng sĩ diệt Giám đốc”
Bây giờ, báo chí đều được in trên giấy tốt với màu sắc rực rỡ.
Nhưng mới đây thôi, khoảng hai chục năm trước, tức là vào những năm
1980, cho đến đầu những năm 1990, phần lớn báo chí còn phải in trên
những tờ giấy đen thui!Ký ức làm báo
- Chi tiết
- Chuyên mục: Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
- Lượt xem: 537
Trong
cuộc đời làm báo của mình, tôi đã qua nhiều chủng loại, đẳng cấp:
Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật (hai tháng một kỳ, trực thuộc Bộ Văn
hóa), Tạp chí Văn nghệ (một tháng một kỳ, trực thuộc Sở Văn hóa tỉnh
Gia Lai-Kon Tum), Báo Lao động & Xã hội (mỗi tuần một kỳ, trực
thuộc Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội…
Các bài khác...
Trang 18 / 39
Ký ức làm báo 3
- Chuyên mục: Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
- Lượt xem: 509
Bây giờ, báo chí đều được in trên giấy tốt với màu sắc rực rỡ. Nhưng mới đây thôi, khoảng hai chục năm trước, tức là vào những năm 1980, cho đến đầu những năm 1990, phần lớn báo chí còn phải in trên những tờ giấy đen thui!
Phép lạ
nào đã biến “Nàng lọ lem” báo chí thành Công chúa rực rỡ sắc màu? Một
trong những phép lạ đó chính là chuyện báo chí tham gia việc quảng
cáo đủ các loại sản phẩm cho các doanh nghiệp. Nói về chuyện quảng
cáo của báo chí thì không bao giờ hết. Vì thế, ở đây tôi chỉ nói về
một nhân vật nữ chuyên “chạy quảng cáo” cho các tờ báo mà tài năng của
cô đã được “vinh danh” là “Dũng sĩ diệt giám đốc”.
Xin nói ngay, “thuật ngữ” này là cách
nói ăn theo cụm từ “Dũng sĩ diệt Mỹ” của cánh nhà báo dùng để chỉ
những ai có tài chinh phục được các giám đốc các công ty để lấy quảng
cáo về cho tờ báo của mình. Nhân tiện cũng nói sơ qua về xuất xứ và ý
nghĩa của cụm từ “Dũng sĩ diệt Mỹ”. Trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, từ sau năm 1965, Lầu Năm Góc đổ quân ồ ạt vào miền Nam
Việt Nam, khiến cho cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Lính Mỹ được huấn
luyện kỹ càng, còn được gọi là “lính Vua” vì được trang bị rất đầy
đủ: vũ khí tối tân, áo giáp chống đạn, thiết bị nhìn đêm, mặt nạ
phòng độc. Trước khi vào trận thì có máy bay ném bom và pháo binh dọn
đường, ăn uống tốt, chỗ ở tốt, giải trí có rất nhiều hình thức,
lương cao… Với ý chí quyết chiến, quyết thắng, chúng ta đã phát động
một cuộc thi đua diệt Mỹ trong toàn quân, toàn dân. Bất cứ ai, có
tinh thần chiến đấu cao, tiêu diệt được một lính Mỹ thì được phong
danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”. Có rất nhiều chiến sĩ của chúng ta, đã
nhiều lần được phong danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”. Đặc biệt, có cô bé
Hồ Thị Thu được phong danh hiệu này khi mới 13 tuổi.
Khi mới 9 tuổi, cô bé Hồ Thị Thu đã là
giao liên hoạt động tại Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là
tỉnh Quảng Nam ) chuyển tài liệu, thư từ cho cán bộ chiến sĩ trong
vùng bí mật. Lúc 11 tuổi, Thu xung phong vào đội xung kích bí mật của
xã hoạt động tại vùng giáp danh giữa hai huyện Điện Bàn và Duy Xuyên,
vận chuyển vũ khí tham gia chống càn trên mặt trận Quảng - Đà. Năm
1967, Thu được giao nhiệm vụ canh chừng các động tĩnh của đồn bốt địch
để báo cáo. Thấy lính Mỹ - Ngụy đem rất nhiều súng ra lau chùi, cô
cùng 3 bạn nhỏ bí mật nhặt sỏi, cát nhét vào các nòng súng. Tối đó,
bộ đội ta tập kích đồn địch, đánh giáp lá cà, không có vũ khí chống
trả, địch bị ép ra mép sông, bỏ chạy tán loạn, bỏ lại những khẩu súng
toác nòng dính máu. Trận đánh đó ta thắng lớn mà không bị tổn thất.
Riêng Thu, được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ khi mới 13 tuổi!
Sau khi được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, cô bé Hồ Thị Thu
được ra miền Bắc gặp Hồ Chủ Tịch, không chỉ một lần mà tới ba lần…
Trong số rất nhiều những người được
phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, có một người tên Hoàng Dũng
Cảm, được nhận danh hiệu này tới sáu lần, nhưng có kết cục thật bất
hạnh: trận đánh cuối cùng đã lấy của Dũng Cảm cả hai cái tay và hai cái
chân!... Khi Hoàng Dũng Cảm gặp lại người vợ và đứa con gái năm
tuổi, tên là Cam, cả hai mẹ con đều ngất xỉu, khi tỉnh lại thì người
mẹ ngơ ngẩn như người tâm thần, còn cô con gái nhỏ thì gọi Dũng Cảm
là bố Sọ Dừa và cùng với mẹ ở lại trại An dưỡng chăm sóc bố Sọ Dừa.
Trại An dưỡng làm cho họ một căn nhà nhỏ ở mảnh vườn cây ăn quả của
trại, sau này có nhiều gia đình thương binh nữa đến ở, khu vườn trở
thành một xóm nhỏ rất vui. Hai mẹ con vừa chăm sóc người bố Sọ Dừa
vừa nhận thêm việc của nhà bếp trong trại. Thời gian cứ lầm lì trôi
qua, người bố Sọ Dừa của cô bé Cam không thể mọc lại tay và chân như
trong truyện cổ tích, nhưng ba năm sau, người mẹ của cô bé lại đẻ
thêm cho cô bé một đứa em gái, đặt tên là Chanh. Tuy nhiên, cô bé Cam
vẫn nuôi hy vọng người bố Sọ Dừa của cô sẽ mọc ra đủ hai tay và hai
chân như trong truyện cổ tích.
*
Tôi biết cái gia đình bốn người nhưng
chỉ có sáu cái tay và sáu cái chân này từ hồi còn là sinh viên, được
cử đến Trại An dưỡng để viết về những “Dũng sĩ diệt Mỹ” và những
chiến công của họ. Lúc đó, năm 1972, cô bé Cam đã 9 tuổi, đã có thể
làm mọi việc như người mẹ: từ việc chăm sóc người bố Sọ Dừa, chăm sóc
em bé và những công việc của nhà bếp trong trại An dưỡng. Mới thoạt
nhìn ai cũng có thể nghĩ cái gia đình nhỏ bé này thật khó mà tồn tại.
Tuy nhiên, hai mẹ con cô bé Cam lại tỏ ra rất thản nhiên chấp nhận
mọi khó khăn của cuộc sống và nếu có hai hỏi cô bé sau này sẽ làm gì
để nuôi người bố tàn tật thì cô bé thản nhiên nói: “Bố cháu đã sáu
lần được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ thì cháu cũng sẽ phải
là “Dũng sĩ kiếm tiền”. Người ta vẫn nói “Hổ phụ sinh hổ tử” đó
thôi!”. Ngay tức thời, ai nghe cũng bật cười và không thể hình dung
nổi cách nói “Dũng sĩ kiếm tiền” của cô bé có nghĩa như thế nào?
Tôi gặp lại cô bé Cam vào khoảng hơn
10 năm sau, ngay tại trước cổng của Trại An dưỡng, khi tôi đi cùng
một người bạn tới trại An dưỡng thăm người nhà. Lúc này, cô bé Cam ngày
xưa đã là một thiếu nữ tuổi đôi mươi cực kỳ xinh đẹp… Gặp lại tôi,
cô bé rất vui và líu ríu kể rất nhiều chuyện: “Bố Sọ Dừa của em vẫn
khỏe mạnh. Mẹ em thì có yếu đi nhiều nhưng không còn cái tật ngơ ngẩn
như người tâm thần nữa. Bây giờ em đã có tới hai đứa em chứ không
phải chỉ một như trước. Đứa chị đã hơn 10 tuổi, nó là “đôi chân của
bố”. Đứa em mới bảy tuổi, nhưng nó đã là “Đôi tay của bố”. Còn em là
“Dũng sĩ kiếm tiền” của bố!...”. Rồi cô gái đưa tôi về nhà: ngôi nhà
đã được “gia cố” nhìn khang trang hơn xưa, người bố Sọ Dừa đang dạy
học cho hai đứa con và ba đứa trẻ hàng xóm, anh ngồi trên một cái ghế
dựa lớn, được “cố định” vào cái ghế bằng một cái “đai xanh”, giống
như người ta ngồi trên máy bay buộc dây an toàn. Ngồi nói chuyện với
người Dũng sĩ diệt Mỹ năm xưa, tôi không thấy ở anh có một biểu hiện
gì là kêu khổ, ta thán về cuộc sống thiếu hẳn tay chân của mình.
Dường như anh đã rất quen với cái thân hình Sọ Dừa mà cô con gái đặt
cho anh (Thực ra, Sọ Dừa chỉ có cái đầu và mỗi khi di chuyển thì lăn
như quả bóng. Tuy người Dũng sĩ diệt Mỹ Dũng Cảm có thêm cái thân
người nhưng hai chân bị cưa tới bẹn nên không thể tự ngồi được và
cũng lăn quay gần như Sọ Dừa). Tôi đang định hỏi khi cần “vận động”
thì ai trợ giúp và bằng cách nào thì cô con gái tên Cam tới cởi cái
“đai xanh” cho người bố Sọ Dừa và nói với tôi: “Tới giờ bố em đi tè
rồi!”, và vừa nói cô bé Cam vừa bế người bố Sọ Dừa lên như bế một con
gấu bông! Tôi thật sự kinh ngạc về sức khỏe cử đỉnh Hạng Võ của cô
bé Cam thì đứa em mười tuổi của cô bé Cam nhìn tôi tủm tỉm cười rồi
nói: “Cháu cũng bế được bố Sọ Dừa như thế!”. Đứa chị chưa dứt lời thì
đứa em bảy tuổi nói: “Em cũng bế được bố Sọ Dừa!”. Nhìn hai đứa bé
tuy không sinh đôi nhưng rất giống nhau, tôi thoáng nghĩ nếu còn là
thời chiến thì chị em chúng nó đã thành Dũng sĩ diệt Mỹ rồi! …Cảm
giác của tôi khi chia tay là nói chung, cuộc sống của cái tiểu gia
đình thương binh này không đến nỗi khó khăn, thiếu thốn như người ta
tưởng…
Bẵng đi hai năm, một hôm cô gái tên
Cam đến tìm tôi ở tòa soạn. Có vẻ như cô gái rất bận bịu nhiều việc,
nhiều cuộc hẹn nên sau khi mời tôi chủ nhật tới đến nhà cô ở Trại An
dưỡng để ăn lễ đầy năm đứa em thứ ba, cô gái đưa tôi cái “Cạc-vi-zit”
để “nếu có gì thì gọi điện thoại” rồi cáo từ. Khi cô gái tên Cam đi
khuất bóng, tôi mới ngó tới cái mảnh giấy nhỏ có mùi thơm đặc biệt thì
giật mình khi thấy không phải là cái tên Hoàng Thị Cam như tôi nghĩ
mà là “Hoàng Đại Nương”, một cái tên khét tiếng, - một “Dũng sĩ diệt
giám đốc” trong làng báo ở khu vực quảng cáo, tiếp thị mà tôi mới
nghe nói tới khoảng hai năm nay! Nghĩ tới người bố Sọ Dừa “Dũng sĩ
diệt Mỹ” của cô gái, tôi chỉ còn biết thốt lên: Quả là Hổ phụ sinh Hổ
tử!
2. Tai biến của nghề báo
Người ta thường nói nghề báo là “Nghề
nguy hiểm”, nhà báo hay gặp “Tai nạn nghề nghiệp”. Quả là như vậy,
nhưng cũng cần mở ngoặc là chỉ những nhà báo nào “dấn thân”, “nhập
thế” thì mới phải hứng chịu sự nghiệt ngã của cái “quy luật muôn đời”,
còn những nhà báo “chuyên môn thuần túy”, thích “ẩn dật” thì vẫn có
thể bình chân như vại!
Nói về những nhà báo “bình chân như
vại” và “sống lâu lên lão làng” thì thực ra chẳng có gì để “dựng thành
chuyện”. Tuy nhiên, kiểu nhà báo này lại rất quan trọng và nó tạo ra
“mặt bằng” của đời sống báo chí. Có thể gọi kiểu nhà báo này là
“viên chức mẫn cán” và có thể nói, về bản chất, báo chí là một loại
“công cụ đặc biệt” của Nhà nước và lẽ đương nhiên nó có những qui
định, qui chế rất chặt chẽ không thể vi phạm, không thể “tự do quá
trớn” và “dân chủ bừa bãi”. Nếu nhà báo nào nhận thức sâu sắc được
điều này thì sẽ suốt đời bình chân như vại và sống lâu lên lão làng
cho đến lúc về hưu. Còn những nhà báo nông nổi và ảo tưởng với những
“sứ mạng thiêng liêng” của báo chí mà thực ra chỉ do những nhà “Lãng
mạn chủ nghĩa” hoặc “chủ nghĩa không tưởng” gán cho nó, không sớm thì
muộn cũng dính tai họa, không nặng thì nhẹ.
Nói về “tai biến của nghề báo” thì
thật thiên hình vạn trạng và có lẽ cũng chỉ có thể nói được phần nào
bằng thể loại lớn như tiểu thuyết trường thiên hoặc phim truyền hình
nhiều tập. Trường hợp “tai nạn nghề nghiệp” mà tôi nói dưới đây là
thích hợp với thể loại Truyện ngắn hơn cả.
Tôi biết anh bạn Lý Trần Tiến Công
trong một cuộc “Họp báo” của một doanh nghiệp lớn. Hôm đó, doanh
nghiệp này kỷ niệm 10 năm thành lập và chiêu đãi cánh nhà báo “không
say không về”. Lý Trần Tiến Công được bạn hữu “rút gọn” lại là A Công
và vì nó gần âm với “A Còng” nên gọi là A Còng - một cái bút danh
tuy không độc đáo nhưng hợp thời. A Còng kém tôi đúng một con giáp
nên mới quen biết đã kết bái huynh đệ và luôn mồm gọi tôi là Đại Ca. A
Còng nói lai lịch có tới ba đời làm nghề báo nhưng hoàn toàn tự thân
vận động chứ không dựa dẫm vào cha và ông nội là những nhà báo quan
chức khá lớn. Khi mới vào nghề, đúng như tên gọi mà người ông đặt
cho, A Còng được biên chế vào tổ chuyên viết về chống tham nhũng.
Nhưng chỉ sau một năm, A Còng nhận thấy người tổ trưởng của mình không
những không chống được tham nhũng mà xem ra đang bị một đường dây
tham nhũng lớn chi phối. Không thể đi theo tổ trưởng và cũng không nỡ
tố cáo tổ trưởng (và muốn tố cáo cũng không hề dễ dàng bởi người tổ
trưởng rất kín võ), A Còng xin sang một tờ báo khác, thuộc quyền quản
lý của “Đàn bà” - giống như nhà thơ Nguyễn Vỹ ngày xưa đã từng “bưng
thúng theo đàn bà / ra chợ bán văn ngày tháng qua”. Dù làm cho tờ
báo nào thì cái tên cúng cơm của A Còng luôn quy định tinh chất công
việc của A Còng: kiên quyết không ngừng thế tiến công ! (Cái tên
“Tiến Công” của A Còng được ông nội của A Còng lấy ra từ hai chữ cuối
của câu thơ này). Có nghĩa là A Còng được giao nhiệm vụ chuyên viết
về đề tài “chống mua bán dâm” trong cộng đồng dân cư! Thực ra, chuyện
mua bán dâm cũng như chuyện tham nhũng, hối lộ, đã có từ “thời
Napoleon cởi truồng”, và ai cũng phải thừa nhận chống cũng như không!
Nhưng chuyện chống luôn nằm trong danh mục nhiệm vụ của cơ quan báo
chí và không những không thể bỏ mà thi thoảng phải đem ra “hâm nóng”.
Nói cách khác, nhiệm vụ của A Còng là “hâm nóng” cái đề tài muôn
thuở đó khi có chỉ thị từ trên!...
Khi A Còng gặp tôi là đã có thâm niên
gần mười năm làm công việc “hâm nóng” cái đề tài “chống mua bán
dâm”. Lúc chia tay, A Còng nói: “Lúc nào đại ca thấy chán đời, cần có
nơi dốc bầu tâm sự, cần có một bờ vai mềm mại để tựa má kề vai thì cứ
phôn cho đệ!”. Tôi ghi nhớ lời nói đó của A Còng nhưng vì bận bịu
nhiều việc mà quên khuấy đi có đến gần một năm mới sực nhớ ra. Tôi
liền gọi điện cho A Còng thì ở bên kia có tiếng nói của một giọng nữ,
rất mềm mại và êm dịu: “Anh hỏi A Còng nhà em hả? Bị bắt hai hôm nay
rồi, bị kết tội môi giới và tổ chức mua bán dâm!... Nhưng không sao
đâu, chắc là họ bắt nhầm, em đang nhờ người bảo lãnh, có lẽ chỉ ngày
mai là về thôi! Ngày mai anh tới nha!”. Ngày mai tôi lại có việc phải
đi xa, tới tận huyện Đăc Glei, tuốt miền biên giới Việt Lào để viết
về chuyên đề Nước sạch nông thôn cho Sở Lao động, Thương binh và Xã
hội tỉnh Kon Tum, không biết bao giờ mới trở về để tới thăm A Còng?
Trên đường đi Đăc Glei, trong những giấc ngủ chập chờn trên ô tô, tôi
được thần linh báo mộng là A Còng sẽ chết vì nhiễm căn bệnh thế kỷ,
không biết có đúng không? Khi kết thúc chuyến đi Đăc Glei, tôi có tìm
đến nhà A Còng nhưng người vợ nói đã hỏa thiêu được ba ngày. Tôi hỏi
lý do chết thì người vợ nói bác sĩ pháp y kết luận là đột tử do bệnh
tim!
3. Ai mới thực sự là “Nhà nghèo”?
Người ta thường nói “Nhà văn, nhà
báo, nhà giáo - nhà nghèo”. Câu nói ấy xem ra không còn mang tính phổ
quát nữa mà chỉ đúng với những người ngây thơ, tức “không chịu xa rời
tuổi ấu thơ”, tức lúc nào cũng là trẻ thơ! Và cái từ “Nhà nghèo”
thực sự, từ ngàn xưa, là của Nhà nông, nhất là ở những nơi xa xôi,
hẻo lánh mà người ta gọi là “Vùng xa, vùng sâu”. Tôi thường nghĩ, có
hai nơi mà ai đã làm Nghề báo thì đều không thể không đến đó là những
“Điểm Nóng” (xuất hiện theo “tính thời sự” của đời sống xã hội) và
những “Vùng xa, vùng sâu”. Đến với những “điểm nóng” thì hầu như nhà
báo nào cũng hăng hái, còn đến với những “vùng xa, vùng sâu” thì hầu
như không mấy ai quan tâm và thường được cho là “chuyện của muôn năm
cũ”, nếu có đi thì phải có một cái cớ cụ thể nào đó, chẳng hạn như đi
cùng đoàn cứu trợ nhân đạo, đi thực hiện đề tài “xóa đói giảm nghèo”
khi có lệnh, hoặc muốn đi tìm cái cảm giác ẩn dật nơi thâm sơn cùng
cốc cùng vị “đạo sĩ” nào đó!
Nếu muốn có danh sách Top 10 hoặc Top
100 những tỷ phú đại gia của Việt Nam và của cả thế giới thì sẽ
nhanh chóng có ngay (tìm trong Google), nhưng muốn có danh sách Top 10
hoặc Top 100 những người (hoặc địa phương, ở Việt Nam thôi) nghèo
nhất thì không thể có ngay! Tôi có người bạn vong niên còn hành nghề
nhà báo và có quan tâm đến đề tài “Xóa đói giảm nghèo”, nhưng khi hỏi
thì cũng chịu và ngậm ngùi nói: “Tôi đã tiến hành thống kê số hộ, số
người thuộc diện đói nghèo cần Nhà nước cứu trợ, nhưng chỉ một tháng
sau, đi kiểm tra lại để “khóa sổ” thì con số cũ đã thay đổi rất
nhiều, không phải theo chiều hướng giàu có lên mà là ngược lại!”.
Tuy nhiên, người bạn này cũng cho tôi DANH SÁCH 62 HUYỆN NGHÈO NHẤT TRÊN CẢ NƯỚC (Theo tài liệu công bố năm 2008):
Hà Giang có 6 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì, Xín Mần.
Cao Bằng có 5 huyện: Bảo Lâm, Bảo Lạc, Thông Nông, Hà Quảng, Hạ Lang.
Lào Cai có 3 huyện: Si Ma Cai, Mường Khương, Bắc Hà.
Yên Bái có 2 huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu. Bắc Kạn có 2 huyện: Ba Bể, Pác Nặm.
Bắc Giang có 1 huyện là Sơn Động. Phú Thọ có 1 huyện là Tân Sơn.
Sơn La có 5 huyện: Sốp Cộp, Phù Yên, Bắc Yên, Mường La, Quỳnh Nhai.
Lai Châu có 5 huyện: Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tân Yên, Than Uyên.
Điện Biên có 4 huyện: Điện Biên Đông, Mường Nhé, Tủa Chùa, Mường Ảng.
Thanh Hóa có 7 huyện: Lang Chánh, Thường Xuân, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Như Xuân, Bá Thước. Nghệ An có 3 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong.
Quảng Bình có 1 huyện là Minh Hóa. Quảng Trị có 1 huyện là Đa Krông.
Quảng Ngãi có 6 huyện: Sơn Hà, Trà Bồng, Sơn Tây, Minh Long, Tây Trà, Ba Tơ.
Quảng Nam có 3 huyện: Nam Trà My, Tây Giang, Phước Sơn.
Bình Định có 3 huyện: An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh. Ninh Thuận có 1 huyện là Bác Ái.
Kon Tum có 2 huyện: Tu Mơ Rông, Kon Plông. Lâm Đồng có 1 huyện là Đam Rông.
Thấy tôi có vẻ như còn băn khoăn điều
gì, Người bạn này nói thêm: “Theo kết quả Tổng điều tra hộ nghèo, cận
nghèo toàn quốc, tổng số hộ nghèo cả nước là 3.055.566 hộ , tổng số
hộ cận nghèo của cả nước là 1.612.381 hộ . Tại cuộc họp diễn ra
ở Hà Nội hôm 30 tháng 5 năm 2011, đại diện Bộ Lao Ðộng-Thương binh
và Xã Hội công bố phúc trình nói rằng tỉ lệ các gia đình nghèo ở Việt
Nam đã giảm từ 22 của năm 2005 xuống còn 9.45 vào cuối năm 2010 vừa
qua. Cũng theo phúc trình này, số gia đình nghèo đến nay chỉ còn xấp
xỉ khoảng 3 triệu, chiếm tỉ lệ 14.2. Bộ này định nghĩa gia đình
nghèo khi các thành viên trong gia đình không ai có lợi tức nhiều hơn
400,000 đồng/tháng. Phúc trình này cũng nói vùng Tây Bắc là nơi có
số gia đình nghèo nhiều nhất Việt Nam : Ðiện Biên (50.01), Lai Châu
(trên 46), Lào Cai (43), Hà Giang (41.8). Phúc trình của Bộ LĐ-TB
& XH còn hứa hẹn rằng trong 9 năm tới, người nghèo sẽ được cải
thiện điều kiện sinh sống về y tế, giáo dục, văn hóa, nhà ở… và được
tiếp cận với các dịch vụ xã hội căn bản một cách thuận lợi. Trong khi
đó, một số chuyên viên trong lĩnh vực này chỉ trích “chuẩn” nghèo
của Bộ LĐ-TB & XH, cho rằng chuẩn này sai vì chưa được tính lại,
chưa cộng thêm yếu tố trượt giá. Ông viện trưởng Viện “Những vấn đề
phát triển VN” nói rằng số lượng gia đình nghèo và “cận” nghèo được
nêu trên không chính xác mà chỉ mang tính ước lệ!? Thực tế thì dư luận
Việt Nam không ngớt ồn ào chỉ trích những con số phúc trình sai
thực tế của Bộ LĐ-TB & XH. Nhiều người cho rằng cơn bão giá dồn
dập đến 3 đợt từ đầu năm đến nay đã nhấn chìm hàng triệu gia đình vào
cơn khốn khó. Một chuyên viên xã hội xin được giấu tên cho biết: “Bộ
LĐ-TB & XH nói chỉ có hơn 3 triệu gia đình ở Việt Nam thuộc
thành phần nghèo là nói ‘phét’” !?”.
*
Khi còn làm cho báo Lao động & Xã
hội, tôi (và một người nữa) có đến tỉnh Kon Tum để làm một số báo
chuyên đề về vấn đề “Nước sạch nông thôn” do Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội của tỉnh đảm nhiệm. Đích thân ông Giám đốc Sở và người Chủ
nhiệm chương trình Nước sạch đã dẫn chúng tôi đi tới tận những nơi
mà chương trình nước sạch đã triển khai. Không chỉ đến mấy huyện
quanh thị xã Kon Tum, ông Giám đốc Sở còn dẫn chúng tôi đến cả huyện
Đăc Glei là huyện xa nhất, gần đất nước Triệu Voi, có thể nghe rõ
tiếng voi gầm! Phải nói rằng những người làm dự án Chương trình nước
sạch nông thôn của tỉnh Kon Tum đã rất nỗ lực, không khác gì đi đánh
trận thời chiến tranh. Nhưng có đến gần nửa số giếng khoan được lắp
đặt rất công phu, khó nhọc đã bị hỏng hóc hoặc mạch nước không còn
nữa! Ở những nơi có nước thì không khí thật vui vẻ, người dân coi
những người của chương trình nước sạch như là ân nhân, thậm chí như
Giang Đăc (Thần nước) và tất nhiên có mời uống rượu cần, múa Soang
thâu đêm. Nhưng ở những nơi giếng khoan không có nước, bể chứa nước
đã thành thùng rác thì không khí thật ảm đạm, đau buồn đến không bút
nào tả xiết. “Đón” đoàn công tác nước sạch chỉ có dăm ba đứa trẻ đen
nhẻm, gày ốm tong teo, ruồi bu đầy mặt không thèm đuổi!...
Đúng vào một buổi chúng tôi buồn chán
nẫu ruột như thế thì thật bất ngờ, chúng tôi gặp bố con người Dũng
sĩ diệt Mỹ Hoàng Dũng Cảm và Hoàng Thị Cam. Thì ra cô con gái “Dũng sĩ
diệt giám đốc” đưa ông bố Sọ Dừa đi thăm lại chiến trường xưa. Công
việc đi thực địa với đoàn Nước sạch cũng đã xong, tôi chia tay Nước
sạch (và hẹn gặp lại ở thị xã Kon Tum để hoàn thành bản thảo cho số
báo chuyên đề) và đi cùng “đoàn Dũng sĩ” trở lại chiến trường xưa, hy
vọng có rất nhiều chuyện tha hồ mà viết. Những lúc phải luồn rừng,
trèo đèo lội suối, cô gái Cam “Dũng sĩ diệt giám đốc” cho người bố Sọ
Dừa vào cái ba lô cóc to đùng rồi đeo trên lưng, bước đi thoăn
thoắt. Còn những lúc đi trên đường quang đãng, có hai “phu kiệu” lực
lưỡng khiêng như kiểu hành quân của Quang Trung Nguyễn Huệ thời xưa!
Suốt trên những chặng đường rừng dài
dằng dặc, tôi cứ muốn hỏi cô gái tên Cam về “Bí quyết diệt giám đốc”
nhưng chưa tìm được “cơ hội” thì một lần ngồi nghỉ uống nước, Cam
nhìn tôi cười hóm hỉnh rồi nói: “Hình như anh muốn hỏi em về “Bí quyết
diệt giám đốc” phải không?”. Tôi ngạc nhiên, nói: “Làm sao mà cô
biết tôi muốn nói gì?”. Cam nói ngay: “Tự nhiên là em biết thôi. Cũng
như câu trả lời của em về bí quyết là: Bí quyết là không có bí quyết gì
cả !”. Nhìn cái dáng vẻ hồn nhiên thơ ngây nhưng ẩn chứa một sức
mạnh khác thường của cô gái, tôi lại nghĩ: đó là cái khả năng thiên
phú, hay còn gọi là “siêu năng lực”!./.
Sài Gòn, 16-6-2011
Đỗ Ngọc Thạch
nguồn; vannghechunhat.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét