tìm đỗ ngọc thạch với Google (5 trang đầu)
- Đỗ Ngọc Thạch . Sinh ngày l9-5-1948, tại Phú Thọ. Tốt nghiệp Khoa Ngữ Văn Đại họcTổng hợp Hà Nội năm l976; đã tham gia quân đội ...trieuxuan.info/?pg=tgdetail&id=495 - Bộ nhớ cache
- Hóa Thạch . Chi tiết Chuyên mục: Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch Lượt xem: 62 1. Hóa thạch. Có nhà khảo cổ học nọ sau khi làm xong ...www.vannghechunhat.net/truyen/do-ngoc-
thach.html - Bộ nhớ cache - Đỗ Ngọc Thạch . Sinh ngày l9-5-1948, tại Phú Thọ. Tốt nghiệp ĐH Tổng hợp (Khoa Ngữ Văn) năm l976; Làm việc tại các cơ quan: ...vanchuongviet.org/
index.php?comp=tacgia&action=detail&id=1831 - Bộ nhớ cache - 4phuong.net/
index.php?action=search&mode=author&query=Đỗ%20... - Bộ nhớ cache - phongdiep.net/
default.asp?action=article&ID=6455 - Bộ nhớ cache - nhân ngày giỗ Mẹ: Lê Thị Thành (1924-1984) BS Đỗ Ngọc Thuận (1924-1988) Bà Lê Thị Thành và các con...(ảnh chụp tại nhà trong khu Tập ...blog.zing.vn/jb/dt/dongocthach18/
6966963?from=friend - Bộ nhớ cache - KÝ ỨC HÀ NỘI - Đỗ Ngọc Thạch. Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch. KÝ ỨC HÀ NỘI (Tuổi thơ đi rồi mãi mãi lìa xablog.zing.vn/jb/dt/dongocthach18/
7057189?from=friend - Bộ nhớ cache
Search Shortcut
Kết quả tìm kiếm khác
- blog.tamtay.vn/entry/view/730406/Truyen-
ngan-Dac-Trung-The-Loai-Do... - Bộ nhớ cache
Thêm kết quả từ blog.tamtay.vn » - nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/
nhat-ky-co-giao-dỗ-ngoc... - Bộ nhớ cache - Phê bình: Về một lối viết hiện thực huyền ảo Việt tính: Trường hợp Đỗ Ngọc Thạchwww.vanchuongviet.org/
index.php?comp=tacpham&action=detail&id=9855 - Bộ nhớ cache - Đỗ Ngọc Thạch----Chú thích: (*) Các buổi đấu tố thường được tổ chức vào ban đêm.phongdiep.net/
default.asp?action=article&ID=12714 - Bộ nhớ cache - nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/
truyen-ngan/do-ngoc-thach-am... - Bộ nhớ cache - ĐỖ NGỌC THẠCH . Tập sách Cây bút, đời người của Vương Trí Nhàn (*), NXB Hội Nhànewvietart.com/index567.html - Bộ nhớ cache
- Tản Đà - Thi sĩ của hai thế kỷ - Đỗ Ngọc Thạch. 16/02/2012 16:44 | 29 lượt xemyume.vn/dongocthach18/article/tan-da-
thi-si-cua-hai-the-ky-do-ngoc... - Bộ nhớ cache
Thêm kết quả từ yume.vn » - YuMe.vn - Hóa Thạch - Chùm truyện mini của Đỗ Ngọc Thạch Đỗ Ngọc Thạch 1.Hóa thạchyume.vn/dongocthach18/article/hoa-thach-
chum-truyen-mini-cua-do... - Bộ nhớ cache - Chùm thơ về Hà Nội của Đỗ Ngọc Thạch.bichkhe.org/home.php?cat_
id=147&id=2015 - Bộ nhớ cache
- Sân Khấu Tuồng... - Đỗ Ngọc Thạch (1/1) ngocthach34: SÂN KHẤU TUỒNG NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐỖ NGỌC THẠCHsachxua.net/forum/
index.php?topic=12102.0;wap2 - Bộ nhớ cache - songvangproduction.com.vn/index.php/tin-
tuc-lien-quan-dt100/69-u... - Bộ nhớ cache - 2 truyện ngắn về Bạn học của Đỗ Ngọc Thạch. 12/11/2011 21:27 | 48 lượt xemblog.yume.vn/xem-blog/2-truyen-ngan-ve-
ban-hoc-cua-do-ngoc-thach... - Bộ nhớ cache
Thêm kết quả từ blog.yume.vn » - 1.Hóa thạch Có nhà khảo cổ học nọ ...trannhuong.com/tin-tuc-14624/hoa-thach--
-chum-truyen-mini-cua-do... - Bộ nhớ cache - 05.03.2009: Đỗ Ngọc Thạch: Chùm thơ về chiến tranh của Đỗ Ngọc Thạch: BÀN TAY . Sau chiến tranh tôi gặp lại em. Bàn tay mềm của em ...trieuxuan.info/
?pg=tpdetail&id=1783&catid=4 - Bộ nhớ cache - 1. Kiến ba khoang. Nhà côn trùng học nọ vốn là bạn học với bác sĩ sản khoa kia, vừa gặp bạn đã chộp lấy nói một tràng như bắn ...trannhuong.com/tin-tuc-14645/kien-ba-
khoang---chum-truyen-mini-cua... - Bộ nhớ cache
- www.nguoibanduong.net/
index.php?nv=News&at=article&sid=5625 - Bộ nhớ cache - 4phuong.net/ebook/38965607/truyen-ngan-
ngan-1.html - Bộ nhớ cache - Lấy chồng ngoại - Truyện kí Đỗ Ngọc Thạch (TP.HCM) Thứ năm - 30/08/2012vandanvn.net/vi/news/Tieu-thuyet-Truyen-
Ki/Lay-chong-ngoai-Truyen... - Bộ nhớ cache TRANG THƠ BÍCH KHÊ - NƠI GẶP GỠ CỦA
NHỮNG NGƯỜI YÊU ...12 TRUYỆN MINI CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH. ban gui...di truyen...dongoc 1. Di truyền .www.bichkhe.org/home.php?cat_ id=147&id=2842 - Bộ nhớ cache - 1.Ông Trùm Được giao nhiệm vụ đi viết phóng sự điều tra về "Xã hội đen”, nhà báo nọ chuẩn bị sẵn rượu ngon thịt thơm để ...vandanvn.net/vi/news/Tieu-pham-Cuoi/
Chum-tieu-pham-cuoi-cua-Do... - Bộ nhớ cache - Lý luận phê bình Về truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch . Chuyên mục: Lý luận-Phê bình Lượt xem: 473 Đỗ Ngọc Thạch và lối viết hiện ...www.vannghechunhat.net/tin-van-hoc/ly-
luan-phe-binh/10537-về... - Bộ nhớ cache - Đỗ Ngọc Thạch Siêu mẫu chân dài 1. Những trận thi đấu bóng chuyền bây giờ thường được tổ chức trong những Nhà thi đấu rất ...sachxua.net/forum/
index.php?topic=12103.0 - Bộ nhớ cache
- Truyện Ngắn - Đỗ Ngọc Thạch - Nhật Ký của Một Cô Giáo Trường Huyệnelib.quancoconline.com/ui/
viewcontent.aspx?g=45792 - Bộ nhớ cache - Chúc mừng Năm Mới Nhâm Thìn 2012 H A P P Y N E W Y E A R ĐỖ NGỌC THẠCH Thứ hai, 31 Tháng 10 2011 02:35 ĐỜI SỐNG ...viettruyen.vn/dvcamthach/vu-dinh-lien-
ong-do-van-ngoi-day-do-ngoc... - Bộ nhớ cache - Truyện Ngắn - Đỗ Ngọc Thạch - Tứ Đại Đồng Đường -elib.quancoconline.com/ui/
viewcontent.aspx?g=46179 - Bộ nhớ cache - "VỤ ÁN ĐÊM GIAO THỪA " -Truyện của Đỗ Ngọc Thạch. 15/04/2010 10:47 | 455 lượt xemblog.yume.vn/xem-blog/-vu-an-dem-giao-
thua-truyen-cua-do-ngoc... - Bộ nhớ cache
Thêm kết quả từ blog.yume.vn »(Kết quả tìm 5 trang đầu đỗ ngọc thạch với Google)
Trích đăng:
Vũ Đình Liên - Ông Đồ vẫn ngồi đấy - Đỗ Ngọc Thạch
Chúc mừng Năm Mới
H A P P Y N E W Y E A R
ĐỖ NGỌC THẠCH
Vũ Đình Liên - Ông đồ vẫn ngồi đấy
Vũ Đình LiênĐọc thêm... Thêm bình luận mới
(1913 -1996): là một nhà thơ, nhà giáo, được phong tặng danh hiệu Nhà
giáo Nhân dân năm 1991.
Vũ Đình Liên - Ông đồ vẫn ngồi đấy
Thứ hai, 31 Tháng 10 2011 02:35 0 Comments ĐỜI SỐNG VĂN HỌC -
Năm 1936 Vũ Đình Liên nổi danh với bài thơ Ông đồ đăng trên báo Tinh Hoa. Thơ Vũ Đình Liên được đăng rải rác trên các báo : Loa , Tinh Hoa, Phong Hóa, Phụ nữ Thời đàm. Có một thời đảm nhiệm việc quản lí cho báo Tinh Hoa.
Ông từng chủ trương Revue pédagogique và làm tham tá Sở Thương chánh
Hà Nội. Ông tham gia giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa
tiếng Pháp trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài thơ ông còn hoạt động
trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật, thành viên
“Nhóm Lê Quý Đôn” (1). Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt nam.Tác phẩm chính:Một số bài thơ: Ông đồ, Lòng ta là những hàng thành quách cũ, Lũy tre xanh, Người kỹ nữ Cầu Trò (1973), Người đàn bà điên ga Lưu Xá (1977), Gặp lại người đàn bà điên (1987), Người điên - Nàng Tiên (1992)…Sách đã xuất bản: Đôi mắt (thơ - 1957); Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (cùng Nhóm Lê Quý Đôn -1957) ; Nguyễn Đình Chiểu - Nhà chí sĩ yêu nước (1957); Thơ Baudelaire (2) (dịch-1995); Thơ Vũ Đình Liên (NXB Văn hóa, 1996).Tập thơ Les fleurs du Mal (Những bông hoa ác)*
của Baudelaire, một công trình nghiên cứu và dịch sau gần 40 năm của
Vũ Đình Liên đã được tặng giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm
1996, nhưng ông đã ra đi mà không kịp nhận giải thưởng...
Mặc dù đã nổi danh trong phong trào Thơ mới nhưng cho đến khi được Hoài Thanh - Hoài Chân chọn thơ giới thiệu trên cuốn Thi nhân Việt Nam ,Vũ Đình Liên chưa xuất bản một tập thơ nào. Đầu năm 1941, trong một bức thư gửi Hoài Thanh, lúc Hoài Thanh làm cuốn Thi nhân Việt Nam , Vũ Đình Liên viết
"Tôi bao giờ cũng có cái cảm tưởng là không đạt được ý thơ của mình.
Cũng vì không tin thơ tôi có chút giá trị gì nên đã lâu tôi không làm
thơ nữa". Hoài Thanh nhận xét Vũ Đình Liên hạ mình quá đáng, nhưng
ông cũng hiểu nỗi đau của Vũ Đình Liên. Những bài thơ hiếm hoi được
biết đến của ông đều mang nặng nỗi niềm hoài cổ, về lũy tre xưa, về
thành quách cũ và "những người muôn năm cũ". Hoài niệm của ông cũng là
nỗi niềm của nhiều người và bức tranh bằng thơ về Ông Đồ vẫn sẽ còn mãi với thời gian:- ...Ông đồ vẫn ngồi đấy
- Qua đường không ai hay
- Lá vàng rơi trên giấy
- Ngoài trời mưa bụi bay
- Năm nay đào lại nở
- Không thấy ông đồ xưa
- Những người muôn năm cũ
- Hồn ở đâu bây giờ?
Lời giới thiệu Vũ Đình Liên của Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi Nhân Việt Nam thật là trân trọng và đã chỉ ra đúng cái “nguồn thi cảm” của thơ Vũ Đình Liên là “Lòng thương người và tình hoài cổ”, mà mãi cho đến những ngày tháng cuối đời, vẫn thủy chung như nhất:“Có những nhà thơ không bao giờ có thể làm được một câu thơ - tôi muốn nói một câu đáng gọi là thơ. Những người ấy hẳn là những người đáng thương nhất trong thiên hạ. Sao người ta thương hại những kẻ bị tình phụ nuôi một giấc mộng ái ân không thành, mà không ai thương lấy những kẻ mang một mối tình thơ u uất chịu để tan tành giấc mộng quý nhất và lớn nhất ở đời: giấc mộng thơ?Hôm nay trong khi viết quyển sách này, một quyển sách họ sẽ xem như một sự mỉa mai đau đớn, thơ Vũ Đình Liên bỗng nhắc tôi nghĩ đến những con người xấu số kia. Tôi có cần phải nói ngay rằng Vũ Đình Liên không phải một người xấu số? Trong làng Thơ Mới, Vũ Đình Liên là một người cũ. Từ khi phong trào Thơ Mới ra đời, ta thấy có thơ Vũ Đình Liên trên các báo. Người cũng ca tình yêu như hầu hết mọi nhà thơ hồi bấy giờ. Nhưng hai nguồn thi cảm chính của người là lòng thương người và tình hoài cổ. Người thương những kẻ thân tàn ma dại, người nhớ những cảnh cũ người xưa. Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: Ông đồ.
Ông đồ năm năm đến mùa hoa đào, lại ngồi viết thuê bên đường phố. “Ông chính là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”(3).
Ít khi có một bài thơ bình dị mà cảm động như vậy. Tôi tưởng như đọc
lời sám hối của cả một bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đương
đi về cõi chết. Đã lâu lắm chúng ta chỉ xúm nhau lại chế giễu họ quê
mùa, mạt sát họ hủ lậu... Cái cảnh thương tâm của nền học Nho lúc mạt
vận chúng ta vô tình như không lưu ý. Trong bọn họ, chúng ta vẫn có một
hai người ca tụng đạo Nho và các nhà nho. Nhưng chế giễu mạt sát không
nên, mà ca tụng cũng không được. Phần đông các nhà nho còn sót lại
chỉ đáng thương. Không nghiên cứu, không lý luận, Vũ Đình Liên với một
tấm lòng dễ cảm nhận ra sự thực ấy và gián tiếp chỉ cho ta cái thái độ
hợp lý hơn cả đối với các bực phụ huynh của ta. Bài thơ của người có
thể xem là một nghĩa cử.Theo đuổi nghề văn mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với người đời. Còn riêng đối với thi nhân thực chưa đủ. Tôi thấy Vũ Đình Liên còn bao nhiêu điều muốn nói, cần nói mà nghẹn ngào không nói được.
“Tôi bao giờ - Lời Vũ Đình Liên - cũng có cái cảm tưởng là không đạt ý
thơ của mình. Cũng vì không tin thơ tôi có một chút giá trị nên đã lâu
tôi không làm thơ nữa”(4). Vũ Đình Liên đã hạ mình quá đáng,
chúng ta đều thấy. Nhưng chúng ta cũng thấy trong lời nói của người một
nỗi đau lòng kín đáo. Người đau lòng thấy ý thơ không thoát được lời
thơ như linh hồn bị giam giữ trong nhà tù xác thịt. Có phải vì thế mà
hồi 1937, trước khi từ giã thi đàn, người đã gửi lại đôi vần thơ u uất:Nặng mang mãi khối hình hài ô nhục.
Tâm hồn ta đã nhọc tự lâu rồi!
Bao nhiêu xanh thăm thẳm trên bầu trời;
Bao bóng tối trong lòng ta vẩn đục!Nghĩ cũng tức! Từ hồi 1935 tả cảnh thu, Vũ Đình Liên viết:Làn gió heo may xa hiu hắt,Lạng lùng chẳng biết tiễn đưa ai!Hai câu thơ cũng sạch sẽ, dễ thương. Nhưng làm sao người ta còn nhớ được Vũ Đình Liên khi người ta đã đọc, bốn năm sau mấy câu thơ Huy Cận cùng một tứ:- Ôi! nắng vàng sao nhớ nhung!
- Có ai đàn lẻ để tơ chùng?
- Có ai tiễn biệt nơi xa ấy
- Xui bước chân đây cũng ngại ngùng...
Cũng may những câu thơ hoài cổ của Huy Cận:Bờ tre rung động trống trầu,
Tưởng chừng còn vọng trên lầu ải quan,
Đêm mơ lay ánh trăng tàn,
Hồn xưa gửi tiếng thời gian, trống dồn.Những câu thơ tình nhẹ nhàng, từ xa vắng chưa đến nỗi làm ta quên cái lòng hoài cổ âm thầm, u tịch của Vũ Đình Liên:Lòng ta là những hàng thành quách cũ,
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa.
Septembre 1941
Ông Đồ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng.
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy:
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?Bài Lòng ta là những hàng thành quách cũ cùng giới thiệu trong Thi Nhân Việt Nam với bài Ông Đồ của Vũ Đình Liên tuy chưa đủ tầm xếp vào hàng “Kiệt tác” như Ông Đồ nhưng cũng khá đặc sắc. Khi các thi sĩ đắm mình vào đề tài hoài cổ, thường là khóc than cho những số phận bi tráng cùng những cuộc tình đẫm lệ của anh hùng và mỹ nhân, chẳng hạn như Tiếng địch sông Ô, Tây Thi, Huyền Trân công chúa… của Huy Thông; Nhưng Vũ Đình Liên đã nghe thấy một âm thanh khác từ ngàn xưa vọng về: đó là tiếng loa xưa! Lòng ta là những hàng thành quách cũ là hình ảnh tĩnh, nhưng trong cái tĩnh lại có cái động, là tiếng loa xưa, nhờ thế bài thơ tạo nên một dư âm đặc biệt. Đó chính là nguồn thi hứngvề lịch sử, về dân tộc - điều này thường chỉ thấy ở những nhà thơ yêu nước cỡ như Phan Bội Châu…Lòng ta là những hàng thành quách cũ
- 1. Dậy đi thôi con thuyền nằm dưới bến,
- 2. Vì đêm nay ta lại căng buồm đi…
- 3. Mái chèo mơ để bâng khuâng trôi đến
- 4. Một phương giời mây lọc lóng giăng khuya.
- 5. Gió không thổi, nước sông trôi giá lạnh
- 6. Thuyền đi trong bóng tối lũy thành xưa.
- 7. Trên chòi cao, tự ngàn năm sực tỉnh
- 8. Trong giăng khuya bỗng vang tiếng loa mơ.
- 9. Tự ngàn năm cả hồn xưa sực tỉnh,
- 10. Tiếng loa vang giây lát động giăng khuya.
- 11. Nhưng giây lát lại rơi im, hiu quạnh,
- 12. Cả hồn xưa yên lặng trong giăng khuya.
- 13. Trôi đi thuyền! cứ trôi đi xa nữa!
- 14. Vỗ giăng khuya bơi mãi! Cánh chèo mơ!
- 15. Lòng ta là những hàng thành quách cũ,
- 16. Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa.
*Bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên gợi nhớ Phong tục viết câu đối Tết ngày xưa, một nét đẹp của truyền thống văn hóa:"... Những ông đồ nghèo đã thuê mướn từ 10 ngày trước tết, một dãy vỉa hè
hay mặt tiền của một căn nhà, một góc phố - viết trên những tờ giấy màu
đỏ những nét chữ vàng hay bạc... để nhận lấy một số tiền nhỏ nhoi. Nếu
trong năm, nhà có tang chế, ông đồ dùng loại giấy màu vàng hay xanh lá
cây. Cái tác dụng thần bí ấy đã thúc đẩy người ta phải chi phí một số
tiền để mua sắm, trang hoàng ở cửa, ở cột, ở sàn nhà... hoặc trên
tường, trên vách... những loại xuân liễn, những câu đối. Mặc dù nền nho
học đã cáo chung, nhưng những thầy đồ vẫn xuất hiện trong lớp áo xơ
bông, ngồi run lập cập trên manh chiếu để nắn nót những con chữ Nho
cuối cùng và câm lặng ấy”. Đó là một đoạn mô tả của một người Pháp viết trên tuần báo Ðông Dương năm 1942.Còn ở những phiên chợt Tết các vùng quê, các Ông Đồ dựng một cái lều nhỏ.Trước cửa lều, ông đồ viết hai chữ đại tự "xuân liễn" vào giấy hồng điều cho khách hàng đến nhận. "Ðồ nghề" của ông chỉ có cái tráp, mấy ngòi bút lông lớn nhỏ, một nghiên mực mài sẵn, một tập giấy hồng điều hay giấy gạch cua đã rọc và chép sẵn.
Người đi chợ cứ việc ghé vào lều xem câu đối ăn vào cảnh nào? Ðể thờ ai? Và dán ở đâu?Ông đồ không cần phải nghĩ ngợi mà cầm bút chấm vào nghiên mực, rồi viết ngay, tính tiền độ hai hào một câu đối. Nếu là câu đối dán ngoài cửa ngõ, ông đồ có thể viết:- Vạn lý dương hòa xuân hữu cước
- Nhất niên quang cảnh nguyệt đương đầu.
- (Muôn dặm khí dương hòa xuân đã đến nơi
- Quang cảnh suốt cả năm không bao giờ đẹp bằng tháng đầu năm).
Ðinh tiền trúc báo bình an tự
Môn ngoại mai truyền phú quý hoa.
(Trước sân trúc báo chữ bình yên
Ngoài cửa mai truyền hoa phú quý).Nếu là câu đối dán trong nhà, ông viết vào một câu quen thuộc:- Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ
- Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường.
- (Trời thêm năm tháng, người thêm tuổi thọ.
- Xuân đầy cả trời đất, phúc đầy nhà).
Nếu dán ở hai bên bàn thờ tổ tiên thì hầu hết các câu đối đều ca tụng công ơn tổ tông, con cháu sẽ tiếp nối muôn đời:Tổ tông công đức thiên niên thịnh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương.
(Công đức của tổ tiên ngàn năm thịnh
Cháu hiền, con hiếu muôn đời tốt đẹp).Ở Thủ đô Hà Nội, hình ảnh Ông Đồ ngồi viết câu đối Tết dường như không bao giờ mất đi. Có một dạo, trên đường Bà Triệu, chỗ số nhà 62 là cơ quan của Trung ương Đoàn (trong đó có Nhà xuất bản Thanh niên, NXB Kim Đồng, Tạp chí Thanh niên, là những cơ quan trực thuộc TƯ Đoàn), là một địa điểm viết câu đối Tết rất nổi tiếng. Lề đường khá rộng, các Ông đồ ngồi viết thoải mái, tường ngăn khu nhà với mặt đường lại có hàng cọc sắt, có thể treo những câu đối đã viết sẵn thoải mái! Đường phố Bà Triệu này cũng gần
nhà Vũ Đình Liên - “Cha đẻ” của Ông Đồ xưa, nên Vũ Tiên sinh
cũng thường tới thăm các ông đồ thời nay. Và điều lý thú nữa là “thủ
lĩnh” của địa điểm viết câu đối Tết này lại là nhà thơ Tú Sót (5) - một
đệ tử trung thành của Ông Đồ xưa!.. Và một địa chỉ viết câu
đối của các ông đồ thời nay cũng nhiều người biết là ở Văn Miếu Quốc Tử
Giám. Lúc thưa vắng, lúc tấp nập nhưng những ông đồ thời nay ở Văn
Miếu không bao giờ bỏ cuộc! Nhìn họ viết câu đối chẳng khác như bài thơ
Ông Đồ đã miêu tả:“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.*Như đã nói ở trên, trong lời bình thơ Vũ Đình Liên, Hoài Thanh có viết “hai nguồn thi cảm chính của người là lòng thương người và tình hoài cổ. Người thương những kẻ thân tàn ma dại, người nhớ những cảnh cũ người xưa”. Và có thể nói thêm, hai nguồn thi cảm ấy không bao giờ vơi cạn cho đến khi Vũ
Đình Liên trở thành người của muôn năm cũ. Không phải như Hoài Thanh đã viết là Vũ Đình Liên đã từ giã Thi đàn từ năm 1937, mà ông đã luôn
luôn tràn đầy thi hứng cho đến lúc Trái Tim nhân ái ngừng đập! Vì thế,
những bạn bè, học trò, người quen biết ông đều gọi ông là Nhà thơ của
tình thương, hoặc có khi gọi vắn tắt là “Ông già Thơ”…Nỗi ưu tư về bản thân, cha bị mù lòa, mẹ sống trong cảnh nghèo khó phải nuôi chồng con cùng với nỗi đau buồn về thời cuộc và thế thái nhân tình đã luôn xâm chiếm tâm hồn nhà thơ. Khi gặp những cảnh ngộ buồn đau, Trái tim nhà thơ lại đập gấp… Một hôm, vào năm 1973, khi từ Sơn Tây về Hà Nội, nhà thơ dừng chân lại tại Cầu Trò để thăm hỏi sự tích cây cầu. Nguyên ngàyxưa có cô nhà trò (còn gọi là ả đào, cô đầu) đi hát thâu đêm, sáng sớm
về qua lạch nước con thì gặp mưa gió, bị cảm lạnh và chết. Dân làng đem
chôn trên bờ ngòi và lập miếu thờ. Do cảm xúc cuộc đời của cô gái hát ả
đào nghèo (người xứ Ðoài gọi là hát nhà trò) đã chết tại cây cầu này
(vì bị nhiễm lạnh khi đi hát về khuya) mà ông đã cảm tác bài thơ Người kỹ nữ cầu Trò để lại nơi dân làng đã lập miếu Trò để thờ hồn thiêng của cô:- "Ðường về Hà Nội, cầu Trò qua
- Nghe chuyện người xưa dạ xót xa
- Ðêm tiệc ai say làm phách đổ
- Mai sương người thấm lớp mưa sa
- Hai mảnh áo xiêm khôn ngàn giá
- Một kiếp phong trần luống rụng hoa
- Ví phỏng Nguyễn Du còn bút lệ
- Ðoạn trường thêm mấy khúc bi ca"
Bạn bè thân thuộc ai cũng không quên được hình ảnh: hàng năm, mỗi khi đến giao thừa, Vũ Ðình Liên lại khoác cái túi nhỏ lên vai đựng tiêu chuẩn Tết đã được phân chia thành nhiều phần để du xuân tại các bến tàu, bến xe - nơi có nhiều cụ già, cháu bé lang thang, cơ nhỡ đang cần đến những chút bánh trái để đón xuân…Ở Hà Nội có ba địa chỉ gắn bó sâu sắc với Vũ Đình Liên. Đó là Chùa Bộc, ngôi nhà 156B Bà Triệu và 11 phố Hàng Bông. Có thời gian ông sống từ bi, ẩn dật trong Chùa Bộc. Thời gian sống ở đây đã khiến ông suy ngẫm rất nhiều về đạo Phật. Vốn là người hướng nội, gần gũi với thập loại chúng sinh, hồn thơ ông càng thấm đẫm tinh thần bác ái của nhà chùa. Ông viết về Phật Bà Quan Âm:
Nghìn mắt không nhìn hết khổ đau,
Nghìn tay nâng chẳng nhẹ u sầu.
Triết lý về đời sống theo cảm nhận của riêng ông:
Đời người là đau khổ,tình người là xót thương.Ngôi nhà ở phố Bà Triệu là nơi ông sống những năm cuối đời. Trên hè phố Bà Triệu, nhiều người thường gặp ông nhẩn nha đi bộ, gương mặt phúc hậu, mái tóc bạc, vầng trán mênh mông, bên hông lúc nào cũng đè nặng chiếc cặp da đen sờn cũ, đầy ắp sách vở, tư liệu, bản nháp thơ và chắc chắn trong đó không thể thiếu toàn tập thơ Baudelaire bằng tiếng Pháp và bản dịch của ông.Vũ Đình Liên rất mê Baudelaire. Ông đã dịch "Những bông hoa ác" và
hàng trăm bài thơ của tác giả này. Ông say mê đến mức mọi người gọi
ông là Bôđơ… Liên. Và có nhà thơ Pháp đã gọi ông là "Baudelaire
Vietnamien".Ngôi nhà 11 phố Hàng Bông thường được gọi là Gác Lưu xá, là một nơi chốn đầy ý nghĩa trong đời sống tinh thần của Vũ Đình Liên. Đây là nhà riêng của nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Văn Lưu, một người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ Thủ đô.
Ông đã lưu giữ được nhiều tấm ảnh, bức tranh và tư liệu văn học nghệ
thuật quý hiếm. Ngôi nhà này là nơi gặp gỡ và đàm đạo văn chương của ba
nghệ sĩ: nhà thơ Vũ Đình Liên, họa sĩ Bùi Xuân Phái (6) và nhà nhiếp
ảnh Trần Văn Lưu. Do đó căn gác này còn những tên gọi khác nữa là "Lầu
Tình bạn" hay "Bảo tàng Lưu - Liên - Phái". Tại đây có treo đôi câu
đối: Nhân loại xây Đền Văn hóa mới - Hòa bình dựng Tháp Đại đồng xưa,
do Vũ Đình Liên làm và Bùi Xuân Phái viết. Tại ngôi Đền Văn hóa này,
vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày giỗ của Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Nguyễn
Đình Chiểu, Hugo, Baudlaire… trầm hương trên bàn thờ lại thành kính tỏa
khói nghi ngút để tưởng nhớ những bậc tài danh của đất nước và nhân
loại. Nhắc đến Vũ Đình Liên, người ta thường nghĩ đến Ông đồ màít người biết tới một chùm thơ về người đàn bà điên khá độc đáo. Có
thể nói chùm thơ này biểu hiện khá đậm nét phong cách thơ Vũ Đình Liên
sau 1945, thể hiện rõ nét sự ảnh hưởng sâu sắc thơ Baudelaire, từ nghệ
thuật cấu tứ cho đến hình ảnh, ngôn từ, âm điệu.Tết Bính Thìn (1977),1. "Người đàn bà điên ga Lưu Xá
nhà thơ lên Thái Nguyên. Khi tàu hỏa đến ga Lưu Xá, cách thị xã Thái
Nguyên khoảng 10 km, ông gặp một người đàn bà điên áo quần tả tơi, ngồi
bệt dưới sàn tàu. Người điên và nhà thơ nhìn nhau xót đau, thương cảm
mà không nói nên lời. Nhà thơ lấy trong túi xách ra một góc bánh chưng,
một gói mứt sen nhỏ, hai tay nâng món quà Tết trao cho người đàn bà
điên. Ngay đêm hôm đó bài thơ Người đàn bà điên ga Lưu Xá hình thành. Hãy đọc đoạn mở đầu khi mới thoạt nhìn thấy người đàn bà điên:
2. Ngồi ngay trước mặt dưới chân tôi
3. Ai vẽ được thiên tài hội họa
4. Chân dung kia kinh tởm tuyệt vời
5. Công chúa điên rồ và rách rưới
6. Hình ảnh lạ lùng chửa có hai
7. Cả tưởng tượng Đông Tây cộng lại
8. Khôn dựng nên dù một phần mười
9. Bao tải xơ, ni lông nát vụn
10. Sợi dây thừng buộc mũ rách bông
11. … Tôi ngồi ngắm mắt không hề mỏi
12. Đống rác kia xưa đã là hoa…
13. Ai dun dủi và ai sắp đặt
14. Một nhà thơ với một người điên
15. Tôi bắt gặp ba lần cặp mắt
16. Nhẹ căm thù như muốn làm duyên"…
Và đoạn tặng người đàn bà điên món quà Tết:
- 1. "Người nhận quà đưa tay đón tay
- 2. Chẳng rằng chẳng nói mặt như ngây
- 3. Chia tay không một lời hò hẹn
- 4. Hai mặt ảnh hình bốn mắt ghi…
- 5. Tôi đi tìm đến những người thân
- 6. Bè bạn cháu con xa với gần
- 7. Ngày Tết cổ truyền vui thiếu đủ
- 8. Nhìn mặt người như ngắm hoa xuân
- 9. Còn tôi biết cuộc đời đã trút
- 10. Lên hoa kia sương tuyết nặng dày
- 11. Đời độc ác lòng người bội bạc
- 12. Làm hoa kia thành đống rác này
- 13. Đời sẽ đổi lòng người sẽ đổi
- 14. Sẽ trở về tình xót nghĩa thương
- 15. Hăy trút hết áo quần hôi thối/
- 16. Cho thịt da lại tỏa hương thơm
- 17. Người em Lưu Xá ở đâu đây
- 18. Có thấy ấm lòng xuân nắng hây
- 19. Một đóa hoa tàn nay nở lại
- 20. Thắm hồng trong buổi mới xuân nay".
Mười năm sau, 1987 cũng ở ga Lưu Xá, nhà thơ gặp lại người đàn bà đó, tuy vẫn còn hoang dại nhưng đã bớt phần rách rưới điên loạn. Dưới bóng trăng mờ, người đàn bà nắm tay nhà thơ và đưa tiễn ông đến hai ga sau. Ngay sau đó ông sáng tác bài thơ Gặp lại người đàn bà điên ghi lại cảm xúc của mình.
Năm năm sau, 1992 người đàn bà đến tìm nhà thơ ở nhà riêng tại phố Bà
Triệu. Bây giờ người điên ấy đã là một cô gái đẹp. Một mối tình huyền
thoại. Và ông viết tiếp bài thơ Người điên - Nàng tiên:"Đông Tây, Thi Họa tương phùng
Cổ kim nghệ thuật tình thương thần kỳ…
Thịt da trầm tỏa hương bay
Như hồi đôi tám thơ ngây má hồng".Trong lần gặp gỡ đầu tiên, nhà thơ của tình thương đã nhìn thấy ở "cái xác thối tha ấy" một bông hoa tỏa hương, một mối tình xưa tinh khiết. Có lẽ đó là cảm hứng bắt nguồn từ nhiều bài thơ của Baudelaire mà ông đã dịch và ngấm vào trong máu thịt:Hãy yêu họ, vì dưới những manh quần rách tã
Những tấm áo mong manh vẫn là những tâm hồn.
(Baudelaire - Vũ Đình Liên dịch).
Cũng như Ông đồ, xung quanh bài thơ này lại có bao lời bình luận và đối thoại. Họa sĩ Bùi Xuân Phái đã minh họa người đàn bà điên trong một bức tranh kỳ dị và Trần Văn Lưu là người đã cất giữ bức tranh này .Vũ Đình Liên đã hoàn thành xong bản thảo tập thơ Người đàn bà điên ga Lưu Xá, Bùi
Xuân Phái đã vẽ bìa và nhiều tranh minh họa nhưng sau khi Vũ Đình Liên
ra đi thì toàn bộ tư liệu về tập bản thảo này đã bị thất lạc.*Một lần, Bùi Xuân Phái vừa hoàn thành bức tranh Ông Ðồ được ghép bằng giấy màu tại nhà Trần Văn Lưu. Bức tranh này ông Phái tặng Trần Văn Lưu, Vũ Ðình Liên tới chơi, thấy bức tranh Ông Đồ, liền đề thơ ở dưới. Đó là bài Ngắm tranh (1974):NGẮM TRANH- Tranh ngắm lòng càng rộn ý thơ,
- Cả hồn quá khứ xót ông đồ.
- Ba vần thơ đã khơi nguồn nhớ,
- Mấy mảnh giấy còn chắp cánh mơ.
- Thanh sắc chưa phai màu lệ cũ
- Ảnh hình thẫm đượm mối thương xưa
- Hồn người nghiên bút nghìn năm trước
- Khối hận đến giờ đã nhẹ chưa …
Nhà thơ Vũ Đình Liên có làm một bài thơ về Bùi Xuân Phái. Một lần nhà thơ hỏi Bùi Xuân Phái:- Anh Phái ơi, lý tưởng sống của anh là gì ?Bùi Xuân Phái cười, đáp :
- Lý tưởng sống của tôi là làm cho mọi người vui.
Nghe họa sĩ trả lời, nhà thơ lấy làm tâm đắc và làm bài Gửi Bùi Xuân Phái:
Người bảo tranh anh vốn sẵn buồn*
Như thơ tôi vẫn cứ thương thương
Anh, tôi đâu phải không vui lắm
Nhân thế vì rằng chửa sướng luôn
Còn lẽ loài người da bọc thịt
Há như giống sói mõm phanh sườn
Thiêu thân nghệ thuật là duyên nghiệp
Đốt trái tim trầm gửi gió hương.
Đến năm 1975, lúc đó Vũ Đình Liên đã 63 tuổi, về hưu và ở tạm căn nhà 3 gian thuộc thônTiền, cách Trường Đại học Sư phạm Hà Nội khoảng 300m.Ông vẫn cặm cụi làm thơ, dịch thơ tiếng Pháp, đọc sách báo mặc dầu đôi mắt thầy đã mờ, thị lực giảm sút. Mỗi khi có học trò, bạn bè đến thăm, đều thấy ông vui vẻ, thân mật, vồn vã trò chuyện và khoe những vần thơ mới sáng tác ngay trên bàn án thư kê ở góc sân. Ông thường cho mấy học trò xem tập thơ văn khá dày dặn được chuẩn bị công phu Người kỹ nữ cầu Trò vẫn chưa có dịp ra mắt độc giả. Rồi ông xúc động trình bày quá trình hình thành tập thơ Đôi mắt đã được xuất bản năm 1975 cùng với 2 công trình nghiên cứu văn học: Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (đồng tác giả với nhóm Lê Quý Đôn) và Nguyễn Đình Chiểu - nhà chí sĩ yêu nước.Ông thường thổ lộ với học trò: “Hạnh phúc lớn nhất cuộc đời nhà thơ, nhà giáo của tôi là được chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với tất cả mọi người”. Trong bài thơ Gửi Bùi Xuân Phái, Nhà họa sĩ từ cảm hứng mà bài thơ Ông đồ mang lại đã có bức tranh độc đáo về ông đồ, Vũ Đình Liên có hai câu thơ kết thể hiện lý tưởng làm thơ, làm nghệ thuật của mình:Thiêu thân nghệ thuật là duyên nghiệpĐốt trái tim trầm gửi gió hương!Trong khoảng hơn 1000 bài thơ viết tay của Vũ Đình Liên để lại cho con cháu, có rất nhiều bài thơ biểu lộ tình thương đồng loại một cách huyền thoại đối với những kẻ "Thân tàn ma dại" đối với "Người đàn bà điên", "Người kỹ nữ cầu Trò", đối với những "Đứa trẻ ăn mày"…Đạo lý quên mình vì người khác và gương sáng hiếu học của Vũ Đình Liên đã được truyền lại cho các con, các cháu noi theo. Hai người con trai của Vũ Đình Liên đã nối nghiệp người cha kính yêu. Anh Vũ Đình Quỳ là giảng viên Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, anh Vũ Đình Dương là giảng viên Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc. Năm cháu nội của ông đã theo gương ông mà học tập thànhđạt trở thành cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, trong đó có cháu Vũ Thị Hiền là giảng viên Ngôn ngữ ở một trường đại học ở Tiệp Khắc, cháu Vũ Hương Giang tốt nghiệp thạc sĩ ở Australia, cháu Vũ Thị Hằng, tiến sĩ khoa học, giảng viên Đại học Quốc gia Australia.Thơ của Vũ Đình Liên chan chứa tâm hồn vị tha, đạo lý quên mình vì người khác. Nhân dân và bà con nhiều địa phương đã nói về ông: "Anh là thi sĩ của những người thân tàn ma dại, của những người bất hạnh".
*Hồn vía Ông đồ nhập vào Vũ Đình Liên từ năm 13 tuổi. Nói về sự tiếp nối nề nếp nhà nho, để có những bài thơ hay nhắc đến một thời đã qua, ông từng viết: “Năm 13 tuổi, tôi đã làm thơ hoài cổ. Bài Hồn xưa đã được một NXB ở Hải Dương đăng trong tập Những áng thơ hay … Bản thân tôi đã được kế thừa tinh thần của người mẹ, mẹ tôi là con một ông đồ. Tuy ở Hàng Bạc, làm nghề thợ bạc, nhưng gia đình luôn giữ nền nếp gia phong. Ngày nhỏ, tôi sống ở Hải Dương. Bởi vậy, nên cảnh sắc quê hương in đậm trong tâm trí, có tác động nhiều đến tâm tư tình cảm…”…. Nhận xét về Vũ Đình Liên, cố giáo sư Đỗ Đức Hiểu, một người bạn cùng “Nhóm Lê Quý Đôn”, rất quý rất hiểu ông, đã viết :
“Vũ Đình Liên là một trong những nhà Thơ Mới, thuộc lớp đầu, tôi tạm gọi là “Làn sóng thứ nhất”. Làn sóng thứ nhất Thơ Mới bao gồm những bài thơ lỗi lạc chịu ảnh hưởng chủ yếu của thơ lãng mạn Pháp nửa đầu thế kỷ 19 như Lamartine (7), Musset (8), Vigny (9), nhất là Victor Hugo (10)…”
“Vũ Đình Liên là một trường hợp đặc biệt, ông làm thơ suốt trên 60 năm nay … Chỉ xét về một phương diện - sự tương hợp giữa Thơ Mới và Thơ Pháp, ông chịu nhiều ảnh hưởng của thơ lãng mạn Pháp …
. Đúng vậy, ngoài việc xót xa, thương cảm một lớp người đã
bị thời thế bỏ quên - ông đồ, ông còn thương : “Những trẻ thơ côi cút …
Suốt đêm khuya đợi mẹ mãi không về”. Ông khẽ bảo mọi người hãy “nương
nhẹ” những bông hoa úa “bị ném vào trong xó”; ông không muốn một ngày
kia “Thiên hạ có nhiều bông hơn tuyết trời để ủ lòng muôn trẻ nhỏ cho
môi hồng thắm tươi”.
Viết Lời tựa cho tập Thơ Baudelaire do Vũ Đình Liên dịch, giáo sư Đỗ Đức Hiểu viết : “Vẫn với đề tài tình thương, thơ Vũ Đình Liên sau 1945 gợi nhớ Baudelaire. Trong cặp sách ông thường mang hàng ngày , có toàn tập Baudelaire, bản thảo ông dịch Hoa ác, ông làm một bài thơ tiếng Pháp Đề ảnh Baudelaire (ông đã dịch ra tiếng Việt). Bùi Xuân Phái vẽ một biếm họa Baudelaire và Vũ Ðình Liên cầm tay nhau. Một nhà văn Pháp đến Hà Nội, biết chuyện Vũ Đình Liên say mê Baudelaire, gọi đùa ông là Baudelien (Bô đơ Liên) …”.
*
Trong dịp Khai bút đầu xuân Nhâm Tuất 1982, Vũ Đình Liên có viết bài Bóng Ông Đồ, như là muốn họa lại bài thơ cũ Ông Đồ:
Bóng ông đồ
- Mỗi năm hoa đào nở
- Lại thấy ông đồ già
- Bút nghiên và giấy đỏ
- Ngồi đúng chỗ ngồi xưa
Tô điểm cho cuộc đời
Người chết nghiệp không chết
Nợ tiền kiếp luân hồi
- Trải trăm ngàn dâu bể
- Giấy mực màu không thay
- Chữ Nhân và chữ Nghĩa
- Vẫn những nét thẳng ngay
Khăn áo bạc màu dưa
Nhắc cho người qua thấy
Lẽ Nhân đạo, Thiên cơ
Cách Mạng là nhân nghĩa
Ông Đồ là thi thư
Chữ tuôn dòng Thiện Mỹ
Từ ngón tay ông Đồ.
Bài Bóng Ông Đồ còn được Vũ Đình Liên gọi là Ông Đồ 2, để cùng với Ông Đồ 1 là bài Ông Đồ năm 1936 làm thành đôi câu đối! … Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, bài Bóng Ông Đồ, tức Ông Đồ 2 không thể đứng song song với Ông Đồ năm 1936 được! Điều này dễ hiểu bởi Ông Đồ đã là kiệt tác, đã là “Độc nhất vô nhị” thì rõ ràng là không thể có Ông Đồ 2
ngang tầm! Riêng chuyện này thì Vũ Đình Liên dù có thông kim bác cổ cỡ
nào cũng không thể nào hiểu nổi! Bởi như Viên Mai (11) đã nói : Oanh già không nên hót, người già không nên làm thơ! (12) Câu nói này cốt để nói với những con chim Oanh trẻ, còn Oanh già thì đâu có chịu nghe bao giờ!...Sài Gòn, tháng 9-2010Chú thích:(1) Nhóm Lê Quý Đôn:
“Nhóm Lê Quý Đôn” gồm Vũ Đình Liên, Đỗ Đức Hiểu (1*), Lê Thước (1**),
Trương Chính (?), Lê Trí Viễn (1***), cùng nhau viết lịch sử văn học
Việt Nam và dịch các tác phẩm văn học Pháp. Bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam dày hơn 1.000 trang, gồm 3 tập (1958).(1*) Đỗ Đức Hiểu: Xin
xem: Đỗ Ngọc Thạch: GS Đỗ Đức Hiểu và tác phẩm Đổi mới phê bình văn
học.(trieuxuan.info). Giáo sư Đỗ Đức Hiểu có bài Phê bình về thơ Vũ
Đình Liên rất đặc sắc: Vũ Đình Liên - nhà thơ tình thương. Tạp chí Văn
học, số 4-1993.(1**) Lê Thước (1891-1976): Hiệu
là Tĩnh Lạc, sinh ra trong một gia đình khoa bảng ở xã Trung Lễ, huyện
Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 27 tuổi ông đậu Giải nguyên Hán học trường
Nghệ nhưng không ra làm quan mà xin học thêm, đến năm 30 tuổi (1921)
ông tốt nghiệp thủ khoa trường Cao Đẳng sư phạm Hà Nội, Ban Văn học.
Được nhìn nhận là một bậc trí giả uyên bác cổ kim đông tây, một trí
thức cỡ lớn đầu thế kỷ 20.(1***) Lê Trí Viễn:
sinh năm 1919, quê Điện Bàn, Quảng Nam . Nhà giáo dục, nhà thơ, nhà
nghiên cứu văn học Việt Nam. (....). Nhà nghèo, chỉ được học hết cao
đẳng tiểu học. Bắt đầu gắn bó với sự nghiệp giáo dục từ 1939, dạy
trường tiểu học Bảo An (Điện Bàn, Quảng Nam ). Tự học và đỗ tú tài
Triết học (1945). Suốt đời ông là một quá trình công phu tự học cần
mẫn, nghiêm túc. Ông lần lượt giảng dạy trung học thời kháng chiến
chống Pháp (ở Huế, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi), đại học (từ 1958)
và trên đại học (từ 1973). Ông làm chủ nhiệm khoa Ngữ văn trường ĐH Sư
phạm Hà Nội trong 15 năm (1963 - 1978), sau đó chuyển vào giảng dạy tại
ĐHSP TP.HCM, được Nhà nước phong chức danh Giáo sư (1980) và danh hiệu
cao quý Nhà giáo nhân dân (1990) . (Từ điển Văn học bộ mới, trang 838 -
839, NXB Thế giới, 2004).(2) Charles Pierre Baudelaire
(1821 -1867) là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất ở Pháp
trong thế kỷ 19. Ông đã viết nhiều bài tiểu luận phê bình nghệ thuật,
dịch thơ Edgar Allan Poe (2*), xuất bản tập thơ Les Fleurs du Mal (đã
xuất bản ở Việt Nam dưới tên Những bông hoa ác). Sau cái chết của ông,
một số tác phẩm như Journaux intimes (Nhật ký riêng tư) và Petits poème
en prose (Những bài thơ nhỏ viết theo thể văn xuôi) mới được xuất bản.(2*) Edgar Allan Poe (1809-1849)
là nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình, nhà thơ Mỹ. Poe là ông tổ của
thể loại truyện trinh thám và hình sự, ông có sự ảnh hưởng đến Charles
Pierr Baudelaire, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (2*1), Sir Arthur
Conan Doyle (2*2)...(2*1) Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821-1881):Cùng(2*1*) Bá tước Lev Nikolayevich Tolstoy (1828 -1910)
với Lev Tolstoy (2*1*), Dostoevsky được xem là một trong hai nhà văn
Nga vĩ đại thế kỷ 19. Các tác phẩm của ông, như Anh em nhà Karamazov
hay Tội ác và hình phạt đã khai thác tâm lí con người trong bối cảnh
chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội Nga thế kỷ 19. Ông được giới
phê bình đánh giá rất cao, phần lớn xem ông là người sáng lập hay là
người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tuy nhiên ở Liên Xô,
sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, người ta hầu như phủ nhận toàn bộ
các sáng tác của Dostoevsky. Từ 1972, tác phẩm của Dostoevsky mới được
nhìn nhận lại và đánh giá đúng mức ở quê hương của mình.
là một tiểu thuyết gia người Nga. Tolstoy được yêu mến ở khắp mọi nơi
như một tiểu thuyết gia vĩ đại nhất trong tất cả các nhà viết tiểu
thuyết, đặc biệt nổi tiếng với kiệt tác Chiến tranh và hòa bình và Anna Karenina: miêu tả sự phóng khoáng và hiện thực của cuộc sống Nga, hai tác phẩm là đỉnh cao của tiểu thuyết hiện thực.
(2*2) Sir Arthur Conan Doyle (1859 -1930) là một nhà văn người Scotland nổi tiếng với tiểu thuyết trinh thám Sherlock Holmes,
tác phẩm được cho là một sáng kiến lớn trong lĩnh vực tiểu thuyết
trinh thám. Các tác phẩm của ông bao gồm nhiều truyện khoa học giả
tưởng, tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử, tiểu thuyết, thơ và bút ký.
(3), (4): Lời Vũ Đình Liên trong một bức thư gửi cho Hoài Thanh đề ngày 9-1-1941. Chú thích của Hoài Thanh trong Thi Nhân Việt Nam.
(5) Tú Sót Chu Thành (1930-2006):
Tú Sót tên thật là Chu Thành, sinh năm Canh Ngọ (1930), quê ở Diễn
Tường, Diễn Châu, Nghệ An. Đây là một vùng quê “có tiếng” về nói trạng
của xứ Nghệ. Chu Thành là con út trong gia đình, ngay từ khi lên 6, 7
tuổi đã được tiếp xúc với chữ nho, rồi được học chữ quốc ngữ. Lớn lên,
Chu Thành vào bộ đội chống Pháp. Khi Thủ đô hoàn toàn giải phóng, ông
về làm việc ở NXB Thanh Niên đến lúc nghỉ hưu (1989).
Cũng bắt đầu từ khi “cầm sổ hưu”,
Chu Thành - Tú Sót mới chính thức bắt đầu cầm bút lông, và học thêm ở
các bậc túc nho đi trước như cụ Lê Xuân Hòa rồi gắn những năm cuối đời
của mình với nhóm “Cảo thơm thư hiên” ở góc phố Bà Triệu. Ông đã mãi
mãi trở thành “người muôn năm cũ” từ mùa xuân 2006.
(6) Bùi Xuân Phái (1920 -
1988): Quê gốc ở Vân Canh, Hoài Đức Hà Đông. Ông tốt nghiệp khoa Hội
họa trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khoá 1941 - 1946, tham gia
kháng chiến, đồng thời tham dự nhiều triển lãm chung với các họa sĩ
khác. Năm 1952 ông về Hà nội, sống và sáng tác tại nhà (số 87 Phố Thuốc
Bắc) cho đến khi mất. Từ năm 1956 đến năm 1957, Bùi Xuân Phái giảng
dạy tại Trường Mỹ thuật Hà Nội, khi xảy ra phong trào Nhân văn Giai
phẩm, họa sĩ phải đi lao động, học tập trong một xưởng mộc tại Nam Định
và ban giám hiệu nhà trường đã đề nghị ông viết đơn xin ngưng giảng
dậy tại trường Mỹ thuật.
Bùi Xuân Phái là một trong những họa
sĩ thuộc thế hệ cuối cùng của sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương. Ông chuyên về chất liệu sơn dầu, đam mê mảng đề tài phố cổ Hà
Nội. Từ lúc sinh thời, sáng tạo của ông đã được quần chúng mến mộ gọi
dòng tranh này là Phố Phái.
(7) Alphonse Marie Louis de Prat de Lamartine (1790-1869)
là một nhà thơ, nhà văn theo trường phái lãng mạn nổi tiếng của nước
Pháp. Ông còn là sử gia, một chính trị gia với chức Bộ trưởng bộ ngoại
giao trong chính phủ Pháp.
Tên tuổi của Lamartine gắn liền với
tập thơ "Méditations" (Trầm tư), tập 1 ra đời năm 1820, tập 2 ra đời
năm 1823 (còn gọi là tập "Nouvelles Méditations"(Trầm tư mới), đều được
coi là những tác phẩm giá trị nhất của ông. Song những sáng tác đáng
chú ý còn phải kể đến tập thơ "Harmonies poétiques et religieuses" (Hoà
âm thi tứ và đạo lý, 1829), "Recueillements" (Mặc tưởng, 1839), tiểu
thuyết "Jocelyn" (1836) và "Graziella" (1952).
(8) Alfred de Musset (1810-1857)
là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng của nước Pháp thế kỷ XIX.
Ông là người có số phận vinh quang và cay đắng. Đa tài và thành danh
từ khi còn rất trẻ, song khi mất, chỉ lèo tèo người đưa tiễn.
Tuy cuộc tình giữa Alfred de Musset
và George Sand (8*) không được thi vị như nhiều người trông đợi, song
không thể phủ nhận một thực tế, chính nhờ mối tình này mà Musset đã
viết nên những bài thơ tình tuyệt diệu (như chùm bài "Đêm tháng năm",
"Đêm tháng chạp", "Đêm tháng tám", "Đêm tháng mười"...) đưa Musset lên
hàng những thi sĩ được thanh niên Pháp ưa thích nhất cho tận tới hôm
nay.
(8*) George Sand (1804-1876):
là một nữ tiểu thuyết gia người Pháp. Bà sinh tại Paris với cái tên
Amantine Aurore Lucile Dupin. Cha của bà, Maurice Dupin là một người
dòng dõi quý tộc, còn mẹ của Sand, Sophie-Victoire Delaborde xuất thân
từ tầng lớp bình dân. Cha mất sớm, George Sand sống với bà, rồi sau đó
vào tu viện. Năm 1821, vào tuổi 17, bà kết hôn với Nam tước Casimir
Dudevant. Cuộc hôn nhân này tan vỡ và George Sand có nhiều mối tình
khác, trong đó không ít với những nhân vật nổi tiếng.Bút danh George Sand, một cái tên nam giới, được bà sử dụng lần đầu tiên vào năm 1829 trên tạp chí Le Figaro. Bà viết tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, phê bình văn học và một tự truyện, trong đó có những tác phẩm nổi tiếng như La Mare au diable (Cái đầm ma), La Petite Fadette (Cô bé Fadette), v.v…George Sand mất tại Nohant. Tưởng nhớ Sand, Victor Hugo viết: Tôi khóc một người đã khuất, tôi chào một người bất tử.(9) Alfred Victor de Vigny (1797-1863): Nhà thơ Pháp.
(10)Victor Hugo
(1802-1885) là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng của Pháp.
Các tác phẩm của ông rất đa dạng như: tiểu thuyết, thơ, kịch, các bài
diễn văn chính trị,... Tiêu biểu cho các tác phẩm của ông là hai tác
phẩm mang đậm tính nhân bản: Những người khốn khổ (Les Misérables) và Nhà thờ Đức bà Paris (Notre-Dame de Paris).(11) Viên Mai (1716-1797):
thi nhân và tản văn gia đời Thanh, tự Tử Tài, hiệu Giản Tề, biệt hiệu
Tuỳ Viên lão nhân, người đất Tiền Đường, Triết Giang (Hàng Châu).Viên Mai là tập đại thành của nền phê bình lý luận thơ ca cổ điển Trung Quốc, tác phẩm Tuỳ Viên thi thoại của(12) Chim Oanh: Có câu chuyện nhà Phật về chim Oanh như sau:
ông được đánh giá là đỉnh cao của nền thi thoại Trung Quốc. Viên Mai
bàn về thơ, lấy “tính linh” làm gốc, theo ông, tính linh là cái phong
thú tự nhiên mà nhà thơ bỗng cảm nhận được, không cần cảnh giới lớn hay
nhỏ, cách điệu cao hay thấp, chỉ cần có tính linh thì là thơ hay.
Thuyết “tính linh” của Viên Mai, ảnh hưởng đến đời sau là rất lớn, lan
cả đến Việt Nam, như là một sự khai mở, phát triển lý luận của loại
hình văn học nhà nho tài tử ở Việt Nam. Vấn đề cốt lõi trong lý luận của
thuyết tính linh xuất phát từ những điều kiện chủ quan trong sáng tác
thi ca, nó nhấn mạnh ba yếu tố ba phương diện của chủ thể sáng tạo cần
phải có là: chân tình (tình cảm chân thật), cá tính và thi tài (tài làm
thơ).
Ngày xưa có một ông
vua tính tình nóng nảy, lấy sự săn bắn, chém giết làm thích thú. Một
hôm nhà vua vào rừng săn bắn, thấy một con chồn lanh lẹ né tránh mũi
tên của nhà vua, chạy trốn vào bụi rậm, vua sai lính tìm kiếm nhưng
không tìm thấy.Nhà vua quá tức giận
ra lệnh đốt rừng làm cho thú vật và cây cối bị cháy. Lúc bấy giờ nhà
vua nhìn đám cháy nghe tiếng thú vật rên la mà thích thú.Bỗng trên đám lửa có
một con chim Oanh Vũ màu trắng đang hăng hái chữa cháy. Chim bay xuống
sông gần đấy nhúng ướt thân rồi bay lại đám lửa rũ nước xuống đám cháy
mong dập tắt lửa để cứu các con vật bị nạn.Thấy vậy, mọi người
theo dõi việc làm của chim Oanh Vũ. Nhà vua bỗng động lòng trắc ẩn, cảm
thấy xấu hổ liền ra lệnh dập tắt lửa và từ đó cấm không cho ai được
vào rừng săn bắn nữa.Chim Oanh Vũ là một trong những kiếp trước của Ðức Phật Thích Ca.Đỗ Ngọc Thạch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét