Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013

Ở trọ; Ô Quan Chưởng - Đỗ Ngọc Thạch

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch - Trích: Ở Trọ; Ô Quan Chưởng


Nhà báo Đỗ Ngọc Thạch 

 

 

 

 Đỗ Ngọc Thạch (SG- 1993) 

  


Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch 

profile picture

2. ĐỊA LINH NHÂN KIỆT

7.TRẠNG ME ĐÈ TRẠNG NGỌT 8.KÝ ỨC HÀ NỘI
9.TƯỢNG NHÀ MỒ      10.CHUYỆN MỘT NHÀ BÁO


Trích: Ở Trọ; Ô Quan Chưởng


Ở TRỌ - Đỗ Ngọc Thạch




Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch 



Ở  TRỌ 
 

Có hai cửa ải quan trọng đối với “dân ngoại tỉnh” khi đến những thành phố lớn là ở trọ và đi làm thuê kiếm sống. Hai cửa ải này “liên thông” với nhau nên cùng lúc vượt qua cả hai cửa ải không hề đơn giản. Phải là người đã từng “Nếm mật nằm gai” như Việt Vương Câu Tiễn mới có thể  đồng cảm với điều tôi vừa nói. Có lẽ tôi là người có “Quý nhân phù trợ” cho nên việc vượt qua hai cửa ải nói trên tuy cũng trần ai như ai nhưng cũng không đến nỗi nào, công việc thì cũng “sạch sẽ”, vừa sức và cả năm chỗ mà tôi đã từng ở trọ thì đều thuộc loại một, hai sao – tức có đầy đủ tiện nghi tối thiểu chứ không phải dạng “một mình một chiếu” trong một lán trại đông đúc như dân công hỏa tuyến thời chiến tranh! 
*
Nhà đầu tiên tôi ở trọ là nhà ông Hòa, ở trong một ngõ hẻm rộng của đường N.T. Lựu thuộc Quận 3. Đây là một khu vực đẹp cả về nhà cửa và đường phố của Quận 3. Chủ nhà, tức ông Hòa là một cựu chiến binh, đã về hưu được dăm ba năm. Hồi chiến tranh, ông là lính cảnh vệ, bảo vệ an toàn cho căn cứ và thủ trưởng nào cần đi đâu thì đều muốn ông đi bảo vệ. Vì thế, khi hết chiến tranh, ông Hòa về thành phố, được các thủ trưởng cũ quan tâm đặc biệt, phân cho một căn nhà khá rộng rãi (4mx25m).  

Căn nhà của ông Hòa thuộc loại “trung lưu”, tức không phải vi-la biệt thự nhưng khá đẹp: một trệt một lầu, sân trước 3 mét, sân sau bảy mét, tức diện tích căn nhà chỉ còn 4mx15m=60m2, nhưng với gia đình chỉ có 4 người, hai vợ chồng ông Hòa và hai đứa con (từ 10 đến 15 tuổi) thì quá ư rộng rãi. Vợ ông Hòa khi ở trong cứ làm chị nuôi, được các thủ trưởng rất quý (và đã đứng ra làm chủ hôn cho đám cưới với anh lính cảnh vệ Hòa) nên khi về thành phố, được biên chế vào ngành thương nghiệp rồi giao cho phụ trách hẳn một cửa hàng bách hóa. Vì thế, khi về hưu, bà Hòa làm một cái tủ “Bách hóa” nho nhỏ, bán tại nhà, cũng đủ tiền chợ cho cả nhà. Song, khi hai đứa con lớn dần lên thì lương hưu của hai vợ chồng và cả cái tủ “Bách hóa” cũng không đủ chi tiêu tối thiểu nữa, vì thế ông Hòa quyết định cho thuê toàn bộ phần trên gác sau khi đã mở rộng thêm diện tích trên phần sân trước và sân sau, cũng được 4mx10m=40m2. Như vậy, toàn bộ diện tích cho thuê tổng cộng là 100m2, chia là năm ô, mỗi ô 20m2, tức ngang 4 m, sâu 5 m, cho một hộ “tiểu gia đình” (hai vợ chồng và một đứa con – mô hình “tiểu gia đình” này là khách ở trọ khá phổ biến bởi bất kỳ chàng trai cô gái nào yêu nhau mà chỉ có “hai trái tim vàng” thì đi ở trọ là cách tốt nhất để bảo vệ Tình yêu!) thuê là quá đẹp! Tôi đi ở trọ cũng không ngoài cái công thức khá phổ biến là “Một căn phòng trọ, hai trái tim vàng!”… 

Khi tôi đến nhà ông Hòa hỏi thuê nhà thì chỉ còn một phòng ở trên chỗ sân sau, nó ở ngay trên chỗ nhà bếp và khu nhà vệ sinh (sàn lát gỗ) nên khá ồn và nhiều mùi xú uế, nhưng nó lại liền kề với con hẻm nhỏ phía sau nhà (có cổng sau) nên cũng khá thoáng mát…Công việc tôi làm lúc này chỉ là nhận đánh máy bản thảo cho mấy nhà xuất bản, được đồng nào hay đồng ấy bởi người chủ cái “tiểu gia đình” của chúng tôi là vợ tôi, đang làm y tá ở Bệnh viện, tạm thời có thể “nuôi sống” cái “tiểu gia đình” này! Vì thế, những khi hết việc, tức hết bản thảo, tôi thường đem cái máy chữ xách tay Olympia ra chỗ rẽ ở cầu thang, ngồi gõ tí tách đủ các thể loại (tùy hứng) và bao giờ cũng vậy, vừa gõ xong một trang, đang thay giấy thì nghe vọng tới tiếng hát đến nao lòng: 

Con chim ở đậu cành tre  
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn  
Cành tre ... í ... a  
Dòng sông ... í ... a  
Tôi nay ở trọ trần gian  
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời ...
 
 
*
Tôi ở trọ được hai ngày thì người hát những câu hát trên xuất hiện: đó là một cô gái có dáng hiền thục thôn nữ, nhưng thoắt cái đã tỏ ra rất tinh ranh, nghịch ngợm. Cô gái ở ngay nhà kế bên. Mỗi khi phơi đồ, cô gái đều hát một bài gì đó. Khi thấy tôi ngừng đánh máy và nghểnh tai lên để nghe thì cô gái cười khanh khách và nói: “Cho anh kia nghe miễn phí nhưng nhớ là khi nào tôi cần đánh máy đơn từ gì đó thì làm giùm nghe không?”. Nghe cô gái nói vậy, tôi nghĩ bụng: cô gái này có giọng hát mê đắm lòng người, thế nào cũng trở thành ngôi sao ca nhạc nếu thời cơ đến!”. Quả nhiên, ngày hôm sau, cô gái sang nhờ tôi đánh máy tờ đơn xin dự tuyển vào Đoàn ca múa nhạc Bông Sen. Tất nhiên là mấy tờ nữa gồm tóm tắt lý lịch, giấy chứng nhận sức khỏe, bản sao học bạ - cô gái tên Hoa, đang học năm cuối trung học phổ thông, v.v…Trong khi ngồi chờ tôi đánh máy, cô gái nói: “Thực ra, em cũng không muốn bỏ học giữa chừng thế này nhưng không hiểu sao, hai năm nay em cứ học trước quên sau, các công thức, định lý chẳng nhớ được cái nào nên khi làm bài tập không biết xoay trở ra sao? Nói chuyện với mẹ, mẹ em bảo em không thích hợp với việc học hành nữa mà nên phát huy sở trường ca múa của mình. Con người ta làm gì cũng đều cao quý miễn làm tốt và được mọi người ủng hộ!”. Tôi nói ngay: “Mẹ cô nói đúng đấy. Cô có giọng hát rất lạ, rất quyến rũ, thế nào cô cũng thành công! Khi nào biểu diễn ở đâu nhớ cho tôi biết nghe!”. Cô gái cười rất hồn nhiên, nói “Nhất định rồi!” rồi cất tiếng hát: 

Xưa kia ở đậu miền xa  Cơn gió ở trọ bao la đất trời  
Miền xa ... í ... a  
Trời đất ... í ... a  
Nhân gian về trọ nhiều nơi  
Bâng khuâng vì những đôi môi rất hồng
 … 

 
Cô gái đột ngột ngừng hát rồi lại cười khanh khách, nói: “Em chỉ làm ca sĩ khoảng dăm năm, kiếm được ít tiền thì tu sửa cái nhà thành nhà cho thuê! Mẹ em nói đúng lắm, mọi chuyện đều sẽ trôi đi theo thời gian nhưng chuyện ở trọ thì muôn đời không bao giờ mất đi, bao giờ cũng có người cần ở trọ!”. Tôi đã đánh máy xong, cô gái cầm lấy và cám ơn rối rít rồi lại hát: 
 
Mây kia ở đậu từng không  
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người  
Từng không ... í ... a  
Người xinh ... í ... a  
Tim em người trọ là tôi  
Mai kia dù có xa xôi cũng gần
  
*
Năm năm trôi qua thật nhanh…Tôi chỉ ở trọ nhà ông Hòa hai tháng thì một người quen vợ tôi tới nói: “Tôi có một phòng mạch ở quận 5, định tu sửa lại cho khang trang nhưng chưa đủ tiền. Vậy nếu hai người không chê thì đến ở tạm, coi như trông nhà giùm cho tôi!”. Căn nhà đang làm phòng mạch của ông Bác sĩ này cũng khá rộng, ngang 4 mét, sâu 25 mét, gác gỗ nửa sau, điện nước đầy đủ. Ông bác sĩ và phòng mạch chỉ hoạt động từ 4 giờ chiều đến 8 giờ tối, cũng như bao phòng mạch khác. Còn ngoài thời gian đó ra, chỉ có “tiểu gia đình” của tôi. Đúng là cái số tôi có “quý nhân phò trợ”, bởi chỉ mấy tháng sau, “tiểu gia đình” của tôi có thêm một thành viên là cô bé “Tí xíu” – nếu như còn ở trọ (như nhà trọ của ông Hòa chẳng hạn) thì quả là sẽ rất khó khăn! 

 
Khi cô bé “Tí  Xíu” của “Tiểu gia đình” chúng tôi được năm tuổi thì vợ tôi được Bệnh viện phân cho một “suất nhà”: cùng một người nữa cũng mới cưới nhau, ở chung trong nửa căn hộ 4mx8m bổ dọc thành 2mx8m. “Tiểu gia đình” của tôi (3 người) ở phía trên (gác gỗ), còn 2 người mới cưới ở phần dưới. Tôi phải làm cái cầu thang ở phía trước để vào nhà và một cầu thang ở phía sau để xuống khu vực vệ sinh, giặt rũ! Tuy nhà là của mình, không phải ở trọ nhưng lại quá chật chội và bất tiện! Và điều bất tiện lớn nhất là từ chỗ ở (trên đường Lò Siêu) đến chỗ làm việc của vợ tôi ở Bệnh viện quá xa, phải đi mất gần sáu mươi phút xe đạp!  Vì thế,  khi tôi có việc làm ở một tờ báo thì “tiểu gia đình” chúng tôi lại đi ở trọ, không phải nhà ông Hòa mà một nhà ở trong hẻm trên đường Sư Vạn Hạnh, vợ tôi chỉ bước vài bước là tới nơi làm việc ở Bệnh viện Nhi đồng 1, còn tôi chỉ đạp xe 10 phút là tới tòa báo trên đường Phạm Ngọc Thạch. Thế mới biết, ở trọ vẫn là giải pháp tốt nhất đối với những hoàn cảnh luôn có nhiều khó khăn như “tiểu gia đình” của tôi! 

Một hôm, có việc phải đi qua chỗ nhà trọ của ông Hòa, tôi tạt vào chơi thì cả nhà đi đâu cả, cửa khóa im ỉm. Tôi tính bước ra thì từ trên lầu nhà bên cạnh có tiếng hát vang lên: 
Môi xinh ở đậu người xinh  
Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều  
Người xinh ... í ... a  
Kiều xinh ... í ... a  
Xin cho về trọ gần nhau  
Mai sau dù có ra sao cũng đành …
 

Tiếng hát vừa ngừng lại thì từ trên ban-công, một cô gái hiện ra, tươi cười dơ tay vẫy vẫy. Mới nhìn thoáng qua, tôi nhận ra ngay cô bé Hoa năm năm trước, không thay đổi mấy, chỉ có điều rực rỡ hơn, quyến rũ hơn mà thôi! Thì ra cái lần ấy, cách nay năm năm, Hoa đã trúng tuyển vào Ðoàn ca múa Bông Sen nhưng cô chỉ xuất hiện trong những tiết mục tốp ca, tốp múa mà không đứng riêng như một “Ngôi sao”!...Cô gái tỏ vẻ hơi buồn vì gặp lại tôi mà chưa thành “Ngôi sao”. Tôi bảo: “Nếu Hoa mà thành Ngôi sao rồi thì tôi làm sao mà gặp được? Thôi, cứ là bông hoa đẹp trong vườn hoa đẹp là tốt rồi, như thế lại lâu bền !” Cô gái nghe tôi nói vậy thì vui hẳn lên, nói: “Mẹ em cũng thường nói như vậy! Bây giờ em không còn quan tâm chuyện thành Ngôi sao nữa mà tập trung vào việc kinh doanh!”. Hoa mời tôi lên tham quan khách sạn bình dân mới hoàn tất, ngày mai là sẽ khai trương. Tôi quan sát một lượt rồi nói: “Cũng được đấy, nhưng sao không nâng cấp lên thành ba, bốn sao có phải là hái ra tiền không? Khu vực này thuộc trung tâm thànhphố, sẽ rất đắt khách!”. Hoa cười rất tươi, nói chuyện kinh doanh mà như bàn về ca từ của một bài ca trữ tình: “Em cần tiền nhưng không thuộc loại kiếm tiền bằng mọi giá, càng nhiều càng ít. Em sửa nhà cho thuê là có ý muốn giúp đỡ phần nào những người “Sảy nhà ra thất nghiệp” vượt qua giai đoạn khó khăn mà vươn lên! Chẳng hạn như anh đó, anh bây giờ có còn phải ở trọ không? Nếu có khó khăn thì đến đây em cho ở trọ miễn phí tháng đầu, từ tháng thứ hai chỉ lấy nửa tiền!”. Quả là buồn ngủ gặp chiếu …hoa, “tiểu gia đình” của tôi đến dãy nhà trọ của Hoa ngay ngày hôm sau và sau đó, chúng tôi ở đây gần một năm nữa! 
 
*
Dãy phòng trọ ở nhà cô bé Hoa cũng gồm 5 phòng, diện tích cũng 20 m2 một phòng nhưng được trang trí đẹp hơn nhà ông Hòa một chút. Song điều đặc biệt là thành phần người thuê có khác nhau cơ bản: bên nhà ông Hòa toàn những người làm ăn buôn bán ở các tỉnh khác về thành phố để móc nối mối buôn bán, còn bên nhà cô bé Hoa đều là viên chức nhà nước “sa cơ lỡ vận”, hoặc sinh viên mới ra trường nhưng còn đang thất nghiệp! 

Ngay sát phòng tôi  ở trọ là một cô gái  học trường Sư phạm, đã tốt nghiệp, nhưng bị phân đi miền núi nên không đến nhiệm sở. Ngày ngày cô gái đi dạy học (làm gia sư) và tối về thì ngồi viết tiểu thuyết. Cô gái làm gia sư kiếm sống này có gương mặt khá xinh xắn và cương nghị, xem chừng cô sẽ “thi gan” với số phận đến cùng! Đối với những cô gái như thế, khi tiếp xúc nên tránh nói đến chuyện bị phân đi miền núi của cô! Tuy nhiên, thi thoảng mới gặp tôi trong thời gian ngắn ngủi, vậy mà cô gái Gia sư đều nói với tôi chuyện về mấy đứa bạn cùng lớp bây giờ đang ở trên Tây Nguyên dạy học và sống ra sao: “Anh biết không, con Lan bạn em nó nói, giờ lên lớp coi như bằng không bởi vì những đứa trẻ người dân tộc ấy chúng nó nghe và nói tiếng Kinh mình còn chưa được thì học hành cái gì? Chúng nói với nhau bằng tiếng dân tộc, còn nói với cô giáo bằng thứ tiếng lơ lớ như người nước ngoài nói tiếng Việt ấy! Được vài ngày lại có hai ba đứa bỏ học, chẳng lẽ cứ phải đến từng nhà để van nài chúng đi học mà lên lớp thì như vịt nghe sấm? Có mấy thằng con trai lớn tướng thì không lo học mà chỉ tìm cách dụ cô giáo đến nhà để bắt làm vợ! Con Lan nó đã thành vợ của thằng học trò nó tên là Ksor Nhú, cuối năm nay thế nào cũng đẻ ra một thằng “oẳn-tà-roằn”!”. Tôi nói: “Vậy những người bạn của cô đã bị “Tây Nguyên hóa” rồi đó! Đến thế hệ sau thì sẽ có một lớp người nửa Kinh nửa Tây nguyên, rất phù hợp! Lúc ấy chắc sẽ không phải bắt buộc những người không thích đi xa như bạn đến Tây Nguyên nữa! Có lẽ bạn sẽ phải chờ đến lúc ấy mới có thể hy vọng người ta đổi quyết định!”. Cô gái làm Gia sư không hề tỏ ra buồn nản mà lại rất vui: “Em đã quen với cách sống tự do này rồi! Mình vẫn được làm cô giáo mà lại được tự do hoàn toàn! Tự do muôn năm!...À, em có việc này tính bàn với anh, có thể kiếm bộn tiền mà rất dễ dàng: Có khoảng gần mười người đang học hệ Tại chức của Khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp phải viết Luận văn tốt nghiệp. Rất tiếc là đề tài của họ toàn là văn học Việt Nam, mà sở trường của em lại là văn học nước ngoài, nhất là văn học Trung Quốc. Vì thế, nếu anh đồng ý thì em sẽ nhận “đấu thầu” hết “cả gói”, tiền công viết tám cái  Luận văn này anh cứ nhận hết, nhưng em cần là cần cái tiếng “Viết Luận văn thuê” vào loại cao thủ, để làm ăn về sau!”. Quả nhiên, sau khi tôi hoàn thành tám cái Luận văn, tiếng tăm viết Luận văn thuê của cô gái Gia sư nổi như cồn cát, đến nỗi năm nào tôi cũng phải bỏ ra chục ngày lẫn đêm để tiếp sức cho cô Gia sư giải quyết những Luận văn tại chức không thuộc sở trường của cô!  
 
Tuy việc bán chất xám làm cho tôi khá mệt mỏi nhưng không hiểu sao, đúng vào lúc mệt mỏi nhất, tôi lại nghe thấy tiếng hát của cô gái ca sĩ – chủ nhà ngân vang, khiến cho tôi quên hết mệt mỏi và “như người bỗng lênh đênh giữa đời”: 
Trăm năm  ở đậu ngàn năm  
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn  
Ngàn năm ... í ... a  
Buồn như ... í ... a  
Ô hay là một vòng xinh  
Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời … 
*
Lẽ ra, những kỷ niệm ở trọ của tôi toàn những chuyện vui nếu như không có một vụ “tự thiêu” xảy ra ở bên dãy phòng trọ nhà ông Hòa. Song, cũng rất may là vụ “tự thiêu” bị phát hiện ngay nên được khống chế ngay! Sự phát hiện vụ “tự thiêu” hoàn toàn tình cờ: sáng hôm ấy, tôi dậy muộn do phải “viết thuê” đến ba giờ sáng. Khi ra ngoài đầu hẻm ăn sáng thì đã chín giờ. Tôi đang ngồi ăn tô phở thì có một người đàn bà ngồi xuống bàn, phía đối diện và nói ngay: “Tôi là bồ của ông Tám Cá Tra, đang ở trọ bên nhà ông Hòa, cạnh chỗ anh cũng đang ở trọ. Tôi phải nói thật với anh là sáng nay, ông Tám Cá Tra có hẹn tôi đến là để cùng “tự thiêu”, vì chúng tôi nợ nần chồng chất, tới tiền tỷ mà xem ra không có khả năng chi trả! Nhưng tôi không muốn chết chung với ông ta và cũng không muốn ông ta chết mà làm liên lụy tới người khác, bởi ông ta sẽ chọn cách tự thiêu! Vì vậy, anh hãy vào nói ngay với ông Hòa, bắt ông Cá Tra giao cho cảnh sát ngay kẻo sẽ xảy ra hỏa hoạn!”. Nghe tới đó, tôi chạy ngay vào nhà ông Hòa, nói với ông Hòa rồi cùng chạy lên phòng của ông Tám Cá Tra. Quả nhiên, ông Tám Cá Tra đang ngồi uống rượu (chắc là đợi cô bồ), sau lưng là hai can xăng đầy!... 

Sau vụ ông Tám Cá Tra, tôi mới nói với ông Hòa: “Khi cho ai ở trọ, ông phải nhìn kỹ mặt người ở trọ sẽ thấy rõ ngay đó là người muốn sống hay muốn chết!”. Ông Hòa ngớ người: “Làm sao mà biết được ai là người muốn sống, ai là người muốn chết?”. Tôi nói ngay: “Người muốn sống thì trên trán có chữ Sinh, người muốn chết thì trên trán có chữ Tử. Đơn giản vậy mà ông không biết hay sao?”. Tôi tưởng nói giỡn chơi ông Hòa vậy rồi thôi nhưng không ngờ hai hôm sau, ông Hòa ăn mặc rất chỉnh tề, qua mời tôi sang làm lễ Bái sư, tức ông sẽ học tôi môn Tướng mạo học, bởi theo ông thì muốn làm chủ nhà trọ, phải biết nhìn người, trông mặt phải bắt được hình dong !... 
Sài Gòn, tháng 4-2010 
Đỗ Ngọc Thạch



Gửi email trang này cho bạn bè Mở cửa sổ in bài viết này

Đường Văn :: 

PHONGDIEP.NET :: - Ô QUAN CHƯỞNG



Ô QUAN CHƯỞNG - Đỗ Ngọc Thạch


Truyện ngắn của  Đỗ Ngọc Thạch 



Ô  QUAN  CHƯỞNG 
 
Có bốn người thường xuất hiện ở Ô Quan Chưởng, khá đều đặn, ngày ngày, có khi vào buổi sáng, có khi vào lúc xế chiều. Đó là một ông già, khoảng ngoài sáu mươi tuổi, tóc đã bạc trắng nhưng từ khuôn mặt đến dáng người đều thấy rõ sự rắn chắc của người đã kinh qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian. Ông già thường đem theo một cái giá vẽ, kẹp giấy và trong cái túi bằng vải chàm có thêu hoa văn của người vùng cao, là đủ các loại hộp màu và bút vẽ. Còn có một cái máy ảnh Canon đã cũ. Ông già thường vẽ cái cửa ô Quan Chưởng, vẽ từ nhiều phía từ đằng trước cái cửa ô. Thỉnh thoảng ông lại lấy cái máy ảnh Canon ra chụp vài kiểu. Không biết ông đã vẽ bao nhiêu bức tranh cái cửa Ô Quan Chưởng này, chỉ biết việc làm của ông đều đặn, bền bỉ, kiên nhẫn như chính cái cửa Ô Quan Chưởng hơn hai trăm năm nay vẫn đứng đó thi gan cùng tuế nguyệt! 

Người thứ hai là một bà già, chưa tới sáu mươi tuổi nhưng tóc đã bạc trắng. Tuy nhiên, cũng giống như ông già, từ khuôn mặt đến dáng người đều thể hiện một thể lực còn mạnh mẽ, như là sự thách thức với tuổi già, với thời gian. Bà già thường đem theo một tấm gỗ bằng cái mặt bàn nhỏ và một cái giá đỡ cũng bằng gỗ. Khi bà già dựng cái giá đỡ bằng gỗ ấy lên, đặt tấm ván gỗ lên trên thì nó thành một cái bàn bán vé xổ số. Những xếp vé số nhỏ được ghim vào mặt tấm ván thành hàng lối như một đội quân nhỏ! Việc bán vé số của bà già đều đặn hàng ngày, sáng từ bảy giờ sáng đến khoảng mười giờ, chiều từ bốn giờ đến giờ quay số. Bán vào buổi chiều có khi còn được nhiều hơn cả buổi sáng bởi vào lúc giờ tan tầm, những viên chức Nhà nước muốn cầu may vào “phút thứ 89” cho nên không tiếc tiền! Tuy nhiên, việc bán được nhiều hay ít cũng đều không có ý nghĩa gì đối với bà già bởi cứ hai hoặc ba ngày, bà lại bị kẻ gian lừa (đổi vé giả hoặc lấy trộm vé trên bàn). Tổng kết hàng tuần, chưa tuần nào bà có lãi mà chỉ từ hòa vốn xuống lỗ vốn! Tuy thế, bà không thể bỏ công việc bán vé số này bởi việc bà có mặt ở trước cửa Ô Quan Chưởng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khác! 

Người thứ ba là một thiếu phụ khoảng năm mươi tuổi, nhưng khuôn mặt còn tròn trịa, nhuận sắc như khuôn mặt của một thôn nữ. Người thiếu phụ này thường xuất hiện vào buổi sáng, từ sáu giờ tới hơn tám giờ với một thúng xôi gấc đo đỏ và thơm ngậy, khiến ai đã chót ngó nhìn thúng xôi thì không thể không ăn một gói! 

Người thứ tư là một người đàn ông, rất khó đoán tuổi, áng chừng trên dưới sáu mươi, có khuôn mặt và thân hình xương xương, gày guộc nhưng rắn chắc như một pho tượng. Và Người thứ tư này xuất hiện ở Ô Quan Chưởng rồi đứng ở trên vọng lâu, trên nóc cửa chính của Ô Quan Chưởng như một bức tượng: một tay dơ cao như vẫy chào ai, một tay che ngang mày như muốn dõi nhìn ai? Mỗi ngày “Người – Tượng” xuất hiện khoảng bốn giờ đồng hồ, chỉ vắng mặt khi trời mưa to gió lớn. 

Người thứ năm, khi thì là một bé trai, khi thì là một bé gái, chưa tới hai mươi tuổi, thường đi theo “Người – Tượng” như một vệ sĩ. Hẳn đó là những đứa cháu của “Người – Tượng”. 
 
Người thứ sáu và thứ bảy là hai bố con người hát xẩm. Người bố, nhìn hao hao giống như Người-Tượng, chỉ khác là đã bị mù cả hai mắt, luôn đeo cái kính râm đã cũ, “hành lý” chỉ có cây đàn nhị cũng cũ kỹ. Người con gái khoảng hơn hai mươi tuổi, rõ là một cô gái xinh đẹp với nét u buồn thăm thẳm luôn phảng phất trên gương mặt phúc hậu. Cô gái cầm cái song loan nhỏ, vai đeo một cái túi vải bạt. Hai cha con thường xuất hiện ở Ô Quan Chưởng cùng thời điểm với bà bán vé số. Thường là người cha vừa kéo nhị vừa hát, cô con gái điểm nhịp bằng tiếng song loan. Thi thoảng người cha mới để cho cô gái hát thay… 
Ông già “Người-Tượng” mỗi khi tới trước cửa Ô Quan Chưởng thường đứng ngắm nhìn cái cửa ô cũ kỹ, già nua này một lúc rồi nói với người cháu:
- “Ô Quan Chưởng hay còn gọi là Ô Đông Hà, tên chữ là Đông Hà môn (東河門, tức cửa Đông Hà), là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm ở phía Đông của toà thành đất bao quanh Kinh thành Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Longthứ ba (1817) được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay. Đây là một trong 21 cửa ô còn sót lại của thành Thăng Long cũ:

    Long Thành bao quản nắng mưa
    Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây (*). 
Người cháu bao giờ cũng nói:
-Ông nói về Ô Quan Chưởng như kể chuyện cổ tích… 

 
Người ông, tức ông già “Người -Tượng” mỉm cười phúc hậu nhìn cháu rồi lại nói:
-Hiện nay, cửa ô còn nguyên một cửa chính và hai cửa con hai bên. Trên nóc cửa chính là một vọng lâu. Ngày xưa có lính tuần canh gác ở đây. Bên tường phía trái có gắn một tấm bia khắc năm 1882 ghi lệnh của Tổng đốc Hoàng Diệu cấm bọn lính sách nhiễu những đám tang qua lại cửa ô.Từ phố Ô Quan Chưởng có thể dẫn ra 4 phố Hàng ChiếuĐào Duy TừThanh Hà và Trần Nhật Duật. Thời xưa, ô Quan Chưởng nằm trên đường từ trong thành phố đi ra bờ sông, thuộc địa phận thôn Thanh Hà tổng Hậu Túc (sau đổi là Đồng Xuân), huyện Thọ Xương cũ, cho nên gọi là cửa ô Thanh Hà. Từ cửa ô ra đến bờ sông Hồng là con đường dài tám chục mét. Phía ngoài cửa ô trước kia coi như đất ngoại thành. Phố Ô Quan Chưởng được tính từ đường Trần Nhật Duật đến cửa ô Đông Hà, nối với phố Hàng Chiếu và nối ra phía đê sông Hồng. Phố được hình thành từ thời Pháp thuộc, có tên là Rue des Nattes en joncs (nghĩa là phố Chiếu Cói), chuyên buôn các loại chiếu cói từ Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình chở lên.
-Tại sao chỉ còn sót lại một cửa ô và tên gọi lại có tên là Ô Quan Chưởng vậy ông? – Người cháu lại hỏi.

 - SAU KHI CHIẾM HÀ NỘI, NGƯỜI PHÁP CHO PHÁ HẾT CÁC CỬA Ô CÙNG VỚI MỘT PHẦN CÁC CON ĐÊ ĐỂ MỞ RỘNG HÀ NỘI. CÒN RIÊNG Ô ĐÔNG HÀ, NHỜ CÓ SỰ ĐẤU TRANH KIÊN TRÌ CỦA NHÂN DÂN VÀ CỦA ÔNG CAI TỔNG ĐỒNG XUÂN ĐÀO ĐĂNG CHIỂU (1845 – 1916), NGƯỜI LÀNG KHÚC THỦY (HÀ ĐÔNG), NÊN CHỦ TRƯƠNG ĐÓ KHÔNG THỰC HIỆN ĐƯỢC. VÌ ÔNG CAI TỔNG CÙNG VỚI DÂN CHÚNG NHẤT ĐỊNH KHÔNG CHỊU KÝ TÊN VÀO TỜ TRÌNH XIN PHÉP PHÁ CỬA Ô NÊN CUỐI CÙNG NGƯỜI PHÁP PHẢI NHƯỢNG BỘ. NHỜ VẬY MÀ ĐẾN NAY Ô QUAN CHƯỞNG VẪN CÒN GIỮ NGUYÊN VẸN NHƯ KIẾN TRÚC XƯA.


Còn tại sao Ô Thanh Hà lại được gọi là Ô Quan Chưởng? Theo những điều còn ghi lại trong gia phả của họ Đào thì năm 1873, có một viên quan Chưởng cơ người Bắc Ninh nổi tiếng đánh Pháp, chẳng may bị bắt ở Gia Lâm, quân Pháp giải về Hà Nội chém đầu và đem bêu bên bờ sông Cái phía trước cửa ô Thanh Hà, giao cho Cai tổng Đồng Xuân canh giữ.

Ngay đêm đầu tiên, ông Cai tổng nghe tiếng chó sủa ngoài sông vọng về, cho tuần đinh ra tra xét thì thấy có hai chiếc đò cứ lởn vởn ở khúc sông gần chỗ bêu đầu quan Chưởng cơ. Sợ có người đến lấy đầu của quan Chưởng cơ, ông Cai tổng bèn cho đem thủ cấp vào treo trong cửa ô Thanh Hà.

Hôm sau người nhà quan Chưởng cơ đến thương lượng, xin ông Cai tổng cho chuộc lại thủ cấp. Biết đây là một nghĩa cử phải làm, nhưng để khỏi mang tội với quan trên, ông Cai tổng bèn lên bẩm báo với quan Đốc lý thành phố, xin cho ðem thủ cấp trôi sông để giữ vệ sinh trong khu dân cư và được chấp thuận.

Đêm hôm đó, ông Cai tổng trao trả thủ cấp cho gia đình quan Chưởng cơ, rồi sáng sớm hôm sau sai tuần đinh tin cẩn lấy một hòn đất to bọc vải cho vào một cái rọ đem ra giữa sông. Trước khi ném cái rọ xuống sông phải hô to cho mọi người trong bờ nghe rõ: “Theo lệnh quan trên, thủ cấp này phải trầm hà!”. Câu chuyện quan Chưởng cơ bị bêu đầu được lan truyền trong tổng Đồng Xuân, từ đấy ai đi qua cửa ô cũng gọi là ô Quan Chưởng, dần dần về sau cái tên cũ Thanh Hà không được nhắc đến nữa.

-Vậy tại sao trong bài hát Tiến về Hà Nội của nhạc sĩ Văn Cao lại có câu: "Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về, như đài hoa đón mừng nở năm cánh vàng...". Cho nên khi hỏi Hà Nội có bao nhiêu cửa ô, nhiều người đã trả lời 5 và  cũng dễ dàng gọi tên 5 cửa ô đó là: ô Cầu Dền, Cầu Giấy, Yên Phụ, Đông Mác, Quan Chưởng …- Người cháu định nói gì nữa nhưng khi thấy người ông đứng lặng thì cũng ngừng lại. Đúng lúc đó, có tiếng đàn nhị réo rắt, nỉ non cất lên rồi vang lên giọng hát trầm buồn của người hát xẩm: đó là những lời thơ đầy cảm khái và bi tráng của bài “Hà Thành chính khí ca”(**), như đoạn nói về cái chết bi hùng của Tổng đốc Hoàng Diệu

           ...Một cơn gió thảm mưa sầu,
    Đốt nung gan sắt, giãi dầu lòng son,
    Chữ trung còn chút con con,
    Quyết đem gởi cái tàn hồn gốc cây.
    Trời cao biển rộng đất dày,
    Non Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi!
    Thương thay trong buổi gian nguy,
    Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung!
    Rủ nhau tiền góp của chung,
    Rước người ra táng ở trong học đường.
    Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường,
    Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa... 
Khi cha con người hát xẩm hát hết một lượt bài “Hà Thành chính khí ca” thì đã thấy “Người-Tượng” đứng trên vọng lâu… 

Thông thường, vào những ngày thời tiết bình thường, thì vào khoảng sáu giờ sáng, người thiếu phụ bán xôi gấc xuất hiện và đến bảy giờ thì lần lượt là bà bán vé số, ông họa sĩ, hai ông cháu Người-Tượng và cuối cùng là hai cha con người hát xẩm. Tất cả sáu người kia, khi đến cửa Ô Quan Chưởng thì chỗ đầu tiên họ tới là thúng xôi gấc của bà bán xôi. Như là có sự chuẩn bị từ trước, có sáu cái ghế con được đặt xung quanh thúng xôi. Song, sáu người kia ngồi ăn xôi như những khách hàng bình thường khác, họ không hề biết nhau. Nhưng người thiếu phụ bán xôi thì biết rõ cả sáu người kia và hiện nay, thúng xôi gấc là nguồn “kinh phí” chủ yếu để nuôi cả sáu người kia!... 

Vào một buổi sáng mùa đông năm 2009, vào lúc bảy giờ, như thường lệ, người thiếu phụ bới xôi gấc cho sáu người kia ăn xong thì nói: “Chúng ta vốn là những người thân thiết mà giờ như những người xa lạ, số phận thật khéo đùa dai. Ông họa sĩ, bà bán vé số và ông “Người – Tượng” vốn là ba người bạn thân cùng học lớp Mười thời Trung học, là bộ ba “Xe Pháo Mã” rất tuyệt vời. Vậy mà mười năm nay, vẫn ngày ngày nhìn thấy nhau mà không nhận ra nhau, coi nhau như người xa lạ…Hôm nay, nhân kỷ niệm mười năm ngày chúng ta hội ngộ, tôi muốn mời tất cả đến gặp một vị bác sĩ thần kinh lừng danh, sẽ có thể giúp chúng ta chữa được cái bệnh quên quái ác này!”.

Người thiếu phụ bán xôi vừa dứt lời thì có một người gần bảy mươi tuổi, dáng vẻ như một vị giáo sư xuất hiện. Đó chính là vị Bác sĩ thần kinh lừng danh mà người thiếu phụ bán xôi vừa nói, và đó cũng chính là Bác sĩ phụ trách Đội điều trị dã chiến hồi chiến tranh mà cô Y tá Hiền, giờ là người bán xôi từng phục vụ. Vị Giáo sư, Bác sĩ thần kinh ấy nói: “Tôi đã tới rồi đây. Gặp mọi người ở đây mới thật đúng người đúng cảnh. Có phải vậy không?”. Tức thì ông họa sĩ già nói: “Phải rồi! Chính nơi đây, bốn mươi năm trước, tức năm 1969, ba người bạn chúng tôi đã chia tay nhau, tiễn đưa tôi vào chiến trường, khi chưa kịp bảo vệ Luận văn Tốt nghiệp Đại học. Lúc chia tay, tôi và Hoa đã có đính ước và hẹn nhau sẽ gặp lại nhau tại đây, ngày trở về!”. Ông họa sĩ già như chưa nói hết, thì bà bán vé số đã nói át đi: “Ông có biết tôi đã đợi ông suốt ba mươi năm qua ở đây không? Đến lúc gặp lại thì ông lại không nhận ra tôi! Ông có biết cả Hải cũng đã tới đợi cùng tôi vì anh ấy lo sợ cho sự an toàn của tôi đó! Giờ thì anh ấy thành “Người-Tượng” rồi, không biết đến bao giờ mới nhận ra chúng ta?”. Người thiếu phụ bán xôi gấc định nói gì thì vị Giáo sư Bác sĩ Thần kinh ra hiệu xin nói trước: “Bây giờ tôi có thể tuyên bố với mọi người: Chỉ có ông Người -Tượng là chưa có biến chuyển. Bà Hoa bán vé số đã hồi phục trí nhớ tới 99%, coi như là khỏi. Còn ông Hà họa sĩ thì đã hồi phục trí nhớ được 80% đến 90%, có dấu hiệu rất tốt. Tôi có thể kiểm tra lại ngay bây giờ”, và quay sang hỏi ông Họa sĩ: “Ông Hà, ông có biết người kéo nhị hát xẩm kia là ai không?”. Ông họa sĩ nhìn người kéo nhị khoảng hai, ba phút thì reo lên: “Thằng Cao Sơn, cây ghi-ta của Đại đội tôi chứ còn ai nữa!”. Hai người bạn lính ôm chầm lấy nhau mà không nói nên lời. Hồi lâu, ông họa sĩ Hà mới nói: “Tại sao lại phải đi hát xẩm, tội nghiệp quá trời?”. “Thì để được gặp lại thằng bạn khói lửa là mày mà thôi!”- Người hát xẩm không nói gì nữa mà lấy cây nhị ra kéo một bản nhạc “Ngày trở về”. 

Nghe xong bản nhạc, ông họa sĩ già nói: “Mười năm nay, tôi loay hoay vẽ chưa xong bức tranh Ô Quan Chưởng vì bức tranh của tôi luôn thiếu một cái gì đó rất hệ trọng mà tôi không nhận ra. Giờ thì tôi đã nhận ra rồi. Đó chính là bà Hoa, người ngồi đợi tôi suốt bốn mươi năm qua ở cái cửa Ô Quan Chưởng này!”. Và chỉ trong khoảng thời gian hai mươi phút, một bức tranh Ô Quan Chưởng mới đã hình thành: trên hình nền là cái cửa Ô Quan Chưởng, có một cô gái lúc ẩn lúc hiện, lúc già lúc trẻ, đó chính là bà Hoa bán vé số của bốn mươi năm trước cho đến ngày hôm nay!... 

Mãi cho tới lúc mọi người ra về để chuẩn bị cho buổi gặp mặt vào buổi tối, vừa là để kỷ niệm 40 năm ngày xa nhau, mười năm ngày gặp lại và 60 năm ngày sinh nhật của ba người, người kéo nhị hát xẩm mới níu vị Giáo sư – Bác sĩ Thần kinh lại mà hỏi: “Vậy trong mười năm qua, ông đã dùng phương pháp gì, thuốc gì để chữa bệnh mất trí nhớ của bộ ba ấy?”. Vị Giáo sư-Bác sĩ Thần kinh cười phúc hậu, nói hồn nhiên như trẻ nhỏ: “Rất đơn giản: Phương pháp là ghi khắc lại những hình ảnh đẹp của quá khứ và thuốc duy nhất là xôi gấc đó!”… 
Sài Gòn, 2009-2010
Đỗ Ngọc Thạch 
 
------------
(*) ca dao.
(**) tác giả là Ba Giai – Nguyễn Văn Giai. 



Gửi email trang này cho bạn bè Mở cửa sổ in bài viết này


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét