Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2013

57 truyện ngắn ĐNT trên phongdiep.net - trích:

57 Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên phongdiep.net 
- Trích: Những lần về Thủ đô; Ký ức Hà Nội


profile picture

Đỗ Ngọc Thạch (SG, 2010)

2. ĐỊA LINH NHÂN KIỆT

9.TƯỢNG NHÀ MỒ      10.CHUYỆN MỘT NHÀ BÁO
 56. ĐÁM MÂY HÌNH TRÁI TIM - Đỗ Ngọc Thạch;  57. TÌNH YÊU BÃO TÁP - Đỗ Ngọc Thạch

Những lần về Thủ đô- Đỗ Ngọc Thạch

Những lần về Thủ đô 

Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch 

1.Giáo đầu 

Cứ tưởng cái đầu mình là “Của kho vô tận”, tôi thả phanh viết búa xua đủ các kiểu, bỗng một hôm ghé mắt nhìn vào cái “Kho” thấy trống trơn! Hốt hoảng, tôi thu dọn tất cả tài liệu, sách vở vào trong cái thùng giấy cứng (vốn là cái hộp giấy đựng tivi to tướng) rồi định đi “bụi đời” tìm cảm hứng! Ai dè vừa bước ra cửa, đụng ngay mấy người hàng xóm đang cãi lộn dữ dội, xem chừng muốn chuyển qua đánh lộn! Nhớ lời mẹ dặn lúc còn nhỏ rằng, thấy đám cãi lộn, đánh lộn là phải tránh xa, tôi vội quay trở lại, trèo lên gác…ngồi Thiền! Ngồi được ba phút thì Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt, râu tóc trắng như mây trắng, không khác gì Đại Tiên Thái Thượng Lão Quân. Tôi chưa kịp hỏi thì Hải Thượng Lãn Ông nhẹ nhàng nói: “Con mở thùng sách của con ra, trong đó có cuốn “Thượng Kinh Ký sự” của ta, con hãy đọc kỹ lại thì sẽ tỉnh ngộ!” Đoạn Hải Thượng Lãn Ông ghé tai tôi nói nhỏ một câu, dặn phải giữ bí mật, nên tôi không thể ghi ra đây được!
Tôi ngồi đọc lại cuốn Thượng Kinh ký sự một ngày…Những gì tôi viết dưới đây là do cuốn Thượng Kinh Ký sự gợi ý! 

2. Về Thủ đô lần thứ Nhất 

Đó là những ngày đầu giải phóng Thủ đô…Bố tôi hồi đó ở Quân Y của Sư đoàn 308, đã về Hà Nội trước cùng với đơn vị, mấy chị em chúng tôi (lúc đó chúng tôi đã có 5 chị em, 2 chị đầu) và mẹ đi sau. Tuy bố tôi đi trước nhưng mọi việc của cuộc di chuyển “bầu đoàn thê tử” bố tôi đã xếp đặt ổn thỏa: chuyến ô tô cuối cùng của Quân Y sẽ đón 6 mẹ con chúng tôi từ Phú Thọ về Hà Nội… 
Lúc đó, tôi mới có hơn sáu tuổi, chưa biết Thủ đô Hà Nội như thế nào nên rất háo hức, muốn chiếc ô tô có cái dấu “Hồng Thập Tự” chở chúng tôi phóng thật nhanh! Và quả là xe chạy rất nhanh, tôi chưa kịp nhận biết là đã tới Hà Nội chưa thì xe dừng, mấy chú Quân Y đi cùng xe nói “Tới Thủ đô rồi!”, rồi nhấc bổng mấy chị em chúng tôi xuống đường! Tôi cũng chưa kịp quan sát kỹ con phố mà chúng tôi đứng chân lần đầu tiên nó như thế nào (sau này tôi mới biết đó là đoạn đầu Phố Tràng Thi, phía gần Cửa Nam, còn đi ngược lên là tới Hồ Hoàn Kiếm), thì mẹ tôi đã dắt tay hai chị tôi và bảo tôi dắt tay hai đứa em trai đi theo ( Năm chị em chúng tôi sàn sàn tuổi nhau, sinh từ 1945 đến 1951)...Đi được khoảng chục bước thì cậu em sát tuổi tôi giằng tay ra khỏi tay tôi, có lẽ do tôi nắm tay em tôi quá chặt? Thấy người em giằng tay ra, tôi cũng thả luôn bàn tay của người em kế sau ra và đứng lại…sửa sang lại y phục! Cúi xuống chân, thấy dây giày bị tuột (tôi đang đi loại giày Ba-ta của Pháp, khá phổ biến lúc đó), tôi liền ngồi xuống buộc lại dây giày. Buộc xong, tôi đứng lên nhìn quanh thì không thấy hai cậu em trai của tôi đâu! Nhìn ra phía mẹ tôi vừa dắt hai người chị cũng không thấy ai!... 

Lúc đó là thời khắc chuyển giao giữa ban ngày và ban đêm, vào khoảng gần sáu giờ chiều. Người đi lại trên phố đang nhiều dần lên, chắc dân thành phố thích đi chơi ban đêm? Nếu như ở quê thì giờ này chúng tôi đang ăn cơm tối. Nghĩ tới hai từ “ăn cơm”, lập tức tôi thấy đói bụng, cái bụng như đang réo sôi! Tôi liền mở cái túi vải đeo bên sườn, có dòng chữ thêu trên nắp túi “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, thò tay vào đụng phải cái nắm cơm  to bằng quả bưởi. Tôi tính lấy nắm cơm nắm ra ăn thì chợt nghĩ, ai lại ăn giữa đường thế này? Vả lại, phải đi tìm Mẹ và các chị, các em chứ đứng mãi ở đây không phải là cách tốt nhất! Đi vài bước tôi lại nghĩ, nếu lát nữa mẹ quay lại tìm thì sao, với lại tôi đã biết đường phố Hà Nội như thế nào? Nghĩ vậy, tôi quyết định đứng đợi… 

Khoảng một khắc, tức mười lăm phút trôi qua, đường phố đã sáng đèn, tôi đang đứng nhìn về phía Cửa Nam có ánh đèn điện nhấp nháy rất vui mắt thì bỗng có một thằng bé trạc tuổi tôi, không biết từ đâu tới và đứng sát trước mặt tôi từ bao giờ, dùng một bàn tay xoa đầu tôi và nói một câu gì đó bằng tiếng Pháp rồi co chân phải định đá đít tôi. Không ngờ tôi lại phản ứng rất nhanh, dùng một tay hất bàn chân của thằng bé lên và tay kia đấm thẳng vào mặt, tức thì nó ngã té ngửa trên hè phố! Thằng bé kêu ối một tiếng và lập tức ngồi bật dậy, tính lao vào tấn công tôi! Nhưng nó chưa kịp hành động gì thì thì bị một cô bé cũng trạc tuổi cản lại với giọng nói rõ ràng, dứt khoát: “Bạn không được đánh nhau! Đó là bài học cho bạn đừng có thấy ai cũng bắt nạt!” Dường như tiếng nói của cô bé có uy lực đặc biệt nên cậu bé kia không nói gì mà chuồn mất tăm!... 

Nhìn thằng bé đi như chạy về phía Cửa Nam, tôi giật mình khi nghe tiếng cô bé nói: “Hình như bạn lần đầu tới Hà Nội?” Tôi gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Cô bé lại nói: “Hành động vừa rồi của đứa bạn tôi thật là mất lịch sự, tôi thay mặt Người Hà Nội xin lỗi bạn!” Tôi nói lí nhí: “Không sao!... Không dám!...” Cô bé lại nói: “Bạn đứng chờ người nhà hay là bị lạc đường?” Tôi ngạc nhiên trước cách nói năng rất nhẹ nhàng, dịu dàng của cô bé và nói: “Tôi đứng chờ mẹ tôi! Vì tôi chưa đi khỏi chỗ này nên không thể gọi là bị lạc đường được!” Cô bé bỗng bật cười, tiếng cười như tiếng chuông ngân! Vừa nghĩ như vậy, tôi liền nói với cô bé: “Bạn có tiếng cười rất hay! Tiếng cười như tiếng chuông ngân!...” Cô bé nhìn tôi bằng ánh mắt lấp lánh như hai hòn bi ve…Tôi lại nói ra ý nghĩ ấy thì cô bé lại cười và nói: “Bạn nói năng như người lớn!... Nếu bạn đồng ý thì tôi sẽ là Người Hà Nội đầu tiên để lại trong bạn ký ức đẹp về Hà Nội: Tôi sẽ dẫn bạn đi dạo vòng quanh Hồ Gươm, ăn Kem ở Nhà Thủy Tạ và tới Nhà Kèn nghe hòa nhạc!...” Câu nói ấy cứ trở đi trở lại bên tai tôi và quay như đèn kéo quân trước mắt tôi khi chúng tôi đã nghe xong buổi  hòa nhạc đặc biệt ở Nhà Kèn!... Đến khi Cô bạn gái dẫn tôi tới địa chỉ mà tôi đoán rằng bố tôi sẽ ở đó là Bệnh viện Đồn Thủy (sau là Bệnh viện Quân đội 108), tôi vẫn chưa kịp hỏi tên và bất cứ một thông tin gì về cô bé!... 

3.Về Thủ đô lần thứ Hai 

Tôi đã đi khỏi Hà Nội rồi lại trở về Hà Nội có đến gần trăm lần. Chẳng hạn như thời kỳ tại ngũ đóng quân ở mấy tỉnh xung quanh Hà Nội, thi thoảng lại được các thủ trưởng cho “tranh thủ” về Hà Nội thăm gia đình, họ hàng hoặc “công cán” gì đó cho đơn vị.Hoặc khi học Đại Học phải đi sơ tán ở Hà Bắc, Hà Nam tôi thường xuyên đạp xe đi đi về về mỗi tuần một lần, nhân lên với bốn năm thì không biết là bao nhiêu lần? Khi đi tới các tỉnh phía Bắc tôi đi qua Cửa Bắc, khi đi về phía Nam tôi đi qua Cửa Nam, qua ga Hàng Cỏ rồi xuôi xuống ga Giáp Bát, khi đi về phía Đông, tôi qua cầu Long Biên, khi đi về phía Tây, tôi đi qua Cầu Giấy…Lối đi nào cũng có nhiều điều thú vị, những kỷ niệm khó quên, nhưng vui ít buồn nhiều, không hiểu tại sao?  

Lần ấy, tôi đi cùng Trung đội trưởng, làm một cuộc hành trình dài từ Nghệ An ra Hà Nội. Đó là vào thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ đối với miền Bắc rất ác liệt. Đơn vị Ra-đa của tôi lúc đó đang hoạt động ở chiến trường Khu Bốn. Việc tôi được đi cùng Trung đội trưởng về Hà Nội, lúc đó tôi chỉ được biết là: do tôi thông thuộc Hà Nội nên có nhiệm vụ làm người dẫn đường cho Trung đội trưởng, còn Trung đội trưởng ra Hà Nội làm gì thì tôi không được biết vì đó là “Bí mật quân sự”!  

Thực ra, tuyến đường mà chúng tôi đi thẳng một mạch từ ga Vinh tới ga Hàng Cỏ là xuống tàu, vào ngay phố phường Hà Nội. Nhưng tôi thích được đi tàu qua cầu Long Biên nên khi tàu tới ga Hàng Cỏ, tôi lôi Trung đội trưởng qua tàu đi Hải Phòng. Lúc đó, Trung đội trưởng đang ngủ gà ngủ gật, không biết mô tê gì, thấy tôi nói phải chuyển tàu thì đi theo mà không hỏi han gì!... Khi con tàu đưa chúng tôi qua cầu Long Biên thì cũng là lúc bình minh hé rạng. Đằng đông, những ngón tay hồng của Nàng Bình Minh đang như mơn trớn trần gian, vạn vật! Nhìn xa xa, dòng sông Hồng uốn lượn như một dải lụa lớn, màu hồng ấm áp, còn hai bên bờ là những vạt ngô đang trổ bắp xanh rờn, như đang nhẹ trôi theo dòng sông!...Một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà không một họa sĩ tài ba nào có thể vẽ nổi! 
Song, khoảng thời gian tuyệt vời đó đã qua mau khi tàu đỗ ở ga Gia Lâm. Lúc đó, nắng vàng đã rực rỡ mà chưa có tàu Hải Phòng – Hà Nội.

Chúng tôi đành ngồi đợi trên sân ga. Trung đội trưởng dường như đã tỉnh táo, vươn vai ngáp dài một cái rồi hỏi: “Đang ở ga nào vậy? Sắp tới Hà Nội chưa?” Tôi nói: “Chúng ta đang ở ga Gia Lâm! Gia Lâm là huyện ngoại thành của Hà Nội, chỉ qua cầu Long Biên là vào ngay trong ḷng Thủ đô!” Trung đội trưởng gắt: “Thôi, đừng dài dòng nữa! Bao giờ mới có tàu vào Thủ đô!” Tôi nói: “Anh hỏi em, em biết hỏi ai? Hình như đầu máy bị hỏng, họ đang sửa, không biết đến bao giờ!” Tôi vừa dứt lời thì tiếng còi báo động vang lên, kèm theo là tiếng nói rất to từ hai cái loa trên sân ga đồng thanh phát ra: “Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội một trăm cây số về hướng Đông! Các lực lượng phòng không sẵn sàng chiến đấu! Người không có nhiệm vụ xuống ngay hầm trú ẩn!...” Tôi vừa nghe xong câu nói, ngoảnh lại không thấy Trung đội trưởng đâu cả! Tôi ngồi ôm hai cái ba lô con cóc, nhìn lên sân thượng của mấy cái nhà lầu cạnh ga, đã thấy những khẩu súng 12,7 ly  và cả súng trường của dân quân hướng nòng về phía Đông, sẵn sàng nhả đạn!...

Tôi rất thích cái hình ảnh đặc trưng này của Thủ đô Hà Nội, và cũng có ở các thành phố khác trên Miền Bắc những năm chiến tranh chống Mỹ, bởi mỗi khi có còi báo động máy bay địch như thế, là chúng tôi – những trắc thủ Ra-đa đang phải ngồi trong xe hiện sóng kín mít, và cái tin có máy bay địch kia chính là do những trắc thủ Ra-đa sinh ra!...Tôi đang mơ màng suy nghĩ về một trận bắn máy bay địch ác liệt, nòng súng 12,7 ly của tôi đã đỏ rực thì có ai đó đá vào chân tôi, hỏi: “Tại sao đồng chí không vào hầm trú ẩn?” Tôi ngẩng nhìn, thì ra là một cô nàng nhân viên nhà ga. Tôi nói ngay: “Tôi mới bị thương ở chân, không đi được! Trung đội trưởng của tôi đã đi thay xuất của tôi rồi!” Cô gái bật cười khanh khách rồi nói: “Cái anh lính binh nhất này coi thường mạng sống lại còn hài hước nữa chứ, định rỡn mặt Tử Thần hả? Tôi sẽ dìu anh vào hầm trú ẩn!” Cô gái cầm cánh tay tôi định kéo lên thì tôi nắm lấy cánh tay cô gái, thay vì đứng lên, tôi kéo mạnh, khiến cô gái bị bất ngờ, ngã đè xấp lên người tôi!...

Chúng tôi đang lúng túng trong tình huống bất ngờ thì tiếng còi “Báo an” vang lên, cùng với tiếng nói đều đều, chứ không gấp gáp như lúc báo động, của hai cái loa phóng  thanh:” Đồng bào chú ý! Máy bay địch đã đi xa!...Mọi sinh hoạt trở lại bình thường!” Cô gái nhân viên nhà ga đứng được lên thì xấu hổ chạy vút đi!... 

Khoảng năm phút sau, trung đội trưởng mới quay lại, lấy ba-lô đeo lên vai rồi nói: “Chúng ta đi ra cầu phao! Chưa có tàu thì đi cầu phao! Ngồi chờ ở đây rất nguy hiểm vì nhà ga là mục tiêu ném bom của máy bay Mỹ!” Tôi nghĩ, không hiểu sao Trung đội trưởng lại “Nhát chết” như thế? Lại còn là người rất thích chải chuốt nữa chứ! Là nông dân vùng chiêm trũng Hà Nam đã năm đời, nhưng trong hai cái túi ngực áo lính của anh ta lúc nào cũng có tới hai cái gương và hai cái lược! Hai cái gương để có thể nhìn được phía sau gáy, còn hai cái lược là để “sơ-cua”, lỡ quên ở đâu mà mất thì có cái dùng thay thế ngay, bởi cứ khoảng mười phút là anh ta phải chải đầu một lần, mỗi lần phải hơn chục nhát lược!... 

Chúng tôi đi dọc theo bờ sông Hồng… Những vạt ngô đang kỳ trổ bắp thật là ngoạn mục! Ra tới cầu phao mới biết là ban ngày thì tháo ra năm phao cho thuyền bè đi lại, đến tối mới nối cho xe pháo và người bộ hành qua lại. Chúng tôi chui vào một vạt ngô, trải tấm ni-lông dã chiến ra và ngồi ăn lương khô! Trung đội trưởng ăn xong thì lăn ra ngủ ngon lành, lại còn ngáy nữa chứ! Tôi vốn không thích nằm cạnh người ngủ ngáy nên đứng dậy, tính đi dạo một lúc trên bờ bãi Sông Hồng đẹp như mơ này thì một cô gái bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt! Tôi vừa kịp định thần nhận ra chính là cô gái nhân viên nhà ga ban nãy thì cô gái lừ lừ nhìn tôi nói: “Thì ra là anh lính ở trên sân ga!...” Tôi làm điệu bộ chào lễ phép rồi nói: “Thì làm sao ạ? Có phải chúng ta có duyên nợ hay không mà lại gặp nhau nơi phong cảnh hữu tình này?” Cô gái trợn mắt la to: “Duyên nợ cái con khỉ! Anh đừng hòng dở trò ra với tôi lần nữa! Cuốn gói đi ngay chỗ khác để tôi chăm sóc bãi ngô của tôi!” Tôi cũng lấy giọng nghiêm nghị đáp lại: “Chúng tôi, chiến sỹ lực lượng Phòng không – Không quân đang trên đường làm nhiệm vụ, không ai được gây trở ngại! Tôi đề nghị được người dân hỗ trợ, giúp đỡ, cho chúng tôi nằm ngủ trên vạt ngô chờ nối cầu phao!” Cô gái khẽ nhếch mép cười, liếc nhìn Trung đội trưởng đang ngủ ngon lành, rồi hạ giọng: “Thôi được, cho các nghỉ nhưng phải chuyển cho tôi thư và quà tới bố của tôi đang chiến đấu ở chiến trường Khu 4 ác liệt, tên là Trần Đình Hợi, hòm thư X”. Nghe xong tên và hòm thư của bố cô gái, tôi reo lên: “Trời!...Đó là Thủ trưởng Trung đoàn của tôi! Ông thường xuống đơn vị tôi mỗi khi đơn vị có nhiệm vụ đặc biệt!” Cô gái còn tỏ vẻ bất ngờ hơn tôi và thế là chúng tôi trở nên thân mật như…cá với nước! Cô gái nói đã ba năm bố cô chưa về thăm nhà, cô rất muốn gặp bố mà không biết làm sao! Tôi nhận lời chuyển thư và quà cho bố cô, cô liền chạy về nhà, chỉ mười phút sau đã quay lại, thì ra nhà cô gần đó và cô đã chuẩn bị từ trước!

Nhìn tên cô gái trên phong thư “Trần Thị Ga” tôi thoáng nghĩ, chắc là cô gái đẻ rơi trên sân ga! Khi hỏi chuyện thì quả nhiên là như vậy! Thấy tôi giỏi “đoán mò”, Ga nói: “Anh có biết xem tướng không? Em sẽ lấy chồng làm gì và bao giờ thì cưới?” Tôi làm bộ lẩm nhẩm bẩm đốt ngón tay rồi nói: “Cô có tướng vượng phu ích tử, chồng cô sẽ là người tài và thành đạt. Có lẽ chỉ hai năm nữa là cô sẽ lên kiệu hoa lấy được chồng như ý!”…Tôi vừa ngừng lời thì Trung đội trưởng ngồi bật dậy, nói: “Ai đã phá giấc ngủ của ta, sẽ bị phạt!...À, thì ra là anh chàng Binh nhất láu tôm láu cá! Đi mua ngay cho ta một chai rượu!” Tôi đã quen với  “cái vụ sai vặt” nên chạy đi ngay!...

Tôi đi dạo một vòng phố xá thị trấn Gia Lâm, ăn một bát phở gà thơm phức rồi mới xách chai rượu trở về ruộng ngô cho Trung đội trưởng, nếu tính thời gian thì phải gần một giờ đồng hồ. Về tới nơi, tưởng rằng sẽ được nghe Trung đội trưởng kể lại “chiến tích chinh phục người đẹp” ai ngờ thấy Trung đội trưởng hai tay ôm “hạ bộ” đang rên i ỉ!... 

Đến tối, cầu phao vẫn chưa được nối, hỏi ra mới biết có hai cái phao cầu do không neo buộc kỹ đã bị nước cuốn trôi mất tiêu! Người ta đang khắc phục sự cố! Trung đội trưởng sốt ruột nói: “Chờ cả ngày, giờ lại chờ cả đêm thì biết đến bao giờ? Cậu đi hỏi xem có thuyền nào nhận chở ta qua sông không?” Tôi liền đi hỏi những người dân xung quanh thì họ đều nói, hôm nay có lũ ở thượng nguồn, nước sông dâng cao và chảy xiết, không ai muốn mạo hiểm cả. Tôi bèn nghĩ bụng, mình chưa bao giờ đứng trước sự nguy hiểm thực sự, vậy lần này thử xem sao? Không đả động gì đến chuyện nước lũ kéo về, nước sông chảy siết và dâng cao, tôi nói với Trung đội trưởng: “Không có thuyền nào nhận chở người ban đêm. Tôi thấy chúng ta có thể bơi qua sông!” Trung đội trưởng tròn mắt, nói: “Bơi qua sông? Cậu có điên không đấy?” Tôi bình thản nói: “Lúc nước cạn, cát nổi lên giữa dòng sông, chúng tôi còn ra đá bóng vui lắm! Chúng ta sẽ bơi qua sông ở chỗ có cát nổi lên đó!...

Chúng ta đã cùng bơi vượt sông La ở Đức Thọ (Hà Tĩnh), rồi sông Lam ở Nam Đàn (Nghệ An), rồi sông Gianh ở Quảng Bình, chẳng lẽ lại sợ Sông Hồng của Hà Nội, như thế thì làm sao mà dám ngẩng mặt nói chuyện với Người Hà Nội? Anh có biết hồi tôi mới học lớp Một, nhà ở Quân Y viện 103, chỉ vì tôi bơi vượt qua sông Nhuệ mà đám trẻ con trong vùng gặp tôi là cúi rạp chào Đại ca đấy!” Hình như lời “khích tướng” của tôi có tác dụng tức thì, Trung đội trưởng và tôi đi ra ngay bờ sông, cởi quần áo cho vào ba-lô rồi lấy tấm vải ni-lông buộc túm lại thành một bọc lớn, đó sẽ là cái phao cho chúng tôi vượt sông. Khi chúng tôi, chỉ mặc cái quần đùi, vác bọc đồ ni-lông trên vai, bước xuống sông, trông không khác gì đặc công thủy xuất quân! Khi nước tới rốn, tôi quay lại thì thấy Trung đội trưởng vẫn đang ở chỗ nước tới đầu gối! Thấy tôi nhìn lại, Trung đội trưởng xốc lại bọc đồ trên vai rồi bước tới! Nghĩ tới câu thành ngữ “Khi nước đã tới rốn thì cho ngập luôn”, tôi nhào ra giữa dòng nước… 
4.Về Thủ đô lần thứ Ba 

Sau lần tôi và trung đội trưởng bơi vượt sông Hồng thành công, mọi việc dường như xảy ra rất tốt đẹp khiến Trung đội trưởng lại đề nghị cho tôi được đi cùng ra Hà Nội lần nữa, chỉ cách lần trước ba tháng. Lúc tàu dừng ở ga Hàng Cỏ (Ga Hà Nội), Trung đội trưởng mới nói với tôi: “Tớ cho cậu đi “Tranh thủ” lần này là để thưởng công cho cậu đã góp phần vào kết quả rất tốt đẹp của chuyến đi lần trước: Bộ Tư Lệnh Binh chủng đã quyết định điều tớ ra Phòng Tham mưu, từ Thiếu úy phong vượt cấp lên Thượng úy. Cứ cái đà này, chẳng mấy chốc mà lên tá, rồi lên tướng là cái chắc! Vì thế, tớ sẽ vào thẳng Bộ Tư Lệnh. Còn cậu, có thể tới nhà người quen hoặc về gia đình ở Hải Phòng tùy ý! Chủ nhật tới, nếu rảnh thì vào BTL kêu tớ, chúng ta lại đi dạo Hồ Gươm rồi ăn kem Nhà Thủy Tạ, sau đó đi bơi thuyền Hồ Tây!... Nhưng đừng dắt tớ vào mấy chỗ Thư viện Quốc Gia, Bảo Tàng Mỹ thuật hay Văn Miếu gì đó nữa nhé!...Mấy chỗ đó chẳng có gì thú vị cả!...” 

Không biết Trung đội trưởng còn nói gì nữa hay không mà tôi thì bàng hoàng, sửng sốt và “Chết đứng như Từ Hải” bởi,  thì ra Trung đội trưởng đang thực hiện một âm mưu “chạy chọt” để được ra Hà Nội, như ngoài đời dân sự thường xảy ra! Tôi ngạc nhiên bởi không nghĩ một người lính thời chiến, một sĩ quan – đảng viên – tấm gương cho bọn lính tráng chúng tôi noi theo hàng ngày, lại có hành động “đào ngũ” một cách tinh vi đến như thế! Tôi chỉ ước mình có được đôi cánh để bay trở vào đơn vị, lúc này đơn vị đang ở Nghi Lộc, Đô Lương (Nghệ An) hay Can Lộc, Đức Thọ (Hà Tĩnh)? Khi tôi kịp định thần thì không thấy Trung đội trưởng đâu nữa mà mấy người xích lô xúm vào lôi lôi, kéo kéo! Đúng lúc tâm trạng hỗn độn như vậy, tôi vụt nhớ đến cái lần về Hà Nội đầu tiên, gặp em ở đầu phố Tràng Thi!... Tôi liền nói với người xích lô chở tôi tới đầu phố Tràng Thi. Khi tôi và người xích lô đang cò cưa về tiền công chở tôi từ Ga về thì một cô gái xuất hiện, như một Nàng Tiên, chợt hóa thành cái cô gái bé nhỏ mà tôi đã gặp 14 năm trước!...Thật khó mà tin được đó lại là sự thật: đó chính là cô bé đã gặp tôi ở chính chỗ này khi tôi tới Hà Nội lần đầu 14 năm trước! Chỉ nhìn tôi khoảng một hay hai phút, cô gái nói: “Anh chính là cậu bé tôi đã gặp 14 năm trước ở đây!...” 

Giải quyết xong “vụ xích lô”, cô gái mời tôi vào nhà, chỉ cách “điểm dừng lịch sử” vài bước chân. “Em đã nằm mơ thấy người bạn bé nhỏ là anh của 14  năm trước hoài! Đêm qua cũng vậy, còn thấy rất rõ ràng là sẽ gặp lại ở chính chỗ này! Vì thế, suốt ngày hôm nay, em cứ ngóng nhìn ra đây và quả nhiên đã “tóm” được anh!...Em đã là cô giáo, còn anh chỉ là một anh lính Binh Nhất, vì thế anh phải nghe theo sự sắp đặt của em!...” – cô gái nói một tràng mà tôi nghe như là cô đang hát những liên khúc dài bất tận, bởi khi cô ngừng nói – thì tôi đã thấy mình đã tắm rửa sạch sẽ, ngồi bên một mâm cơm hương thơm ngào ngạt!... Hương, tên cô gái, ngồi tiếp tôi ăn cơm và kể cho tôi nghe biết bao nhiêu chuyện. Thì ra, Hương  cùng tuổi với tôi, là người Hà Nội đã ba đời, cha mẹ đều là nhà giáo từ thời Pháp thuộc, hiện vẫn còn dạy ở trường Chu Văn An. Hết lớp 10, Hương học ở Trường Sư Phạm 10+3 rồi dạy cấp 2 ở ngoại thành… 

Hôm sau, Hương dẫn tôi tới những chỗ lần đầu tiên tôi đến Hà Nội, Hương đã dẫn tôi tới: Hồ Hoàn Kiếm, rồi vào nhà Hàng Thủy Tạ, rồi Nhà Kèn, v.v.… 

Ở nhà Hương một ngày, tôi qua cầu Long Biên tới Ga Gia Lâm tìm cô gái có tên Ga để báo tin rằng bố cô đã hy sinh. Nhưng khi tới Ga thì chỉ gặp mẹ cô, cũng làm việc ở Ga. Bà nói cô đã tình nguyện vào chiến trường chiến đấu, sau khi gia đình nhận được giấy báo tử! 

Khi người ta không giải thích được nhiều nỗi buồn cùng đến một lúc thì người ta thường trở về với cái nơi người ta đang sống. Vì thế, tôi chỉ ở lại Hà Nội thêm một ngày, đi lang thang khắp nơi, rồi trở về đơn vị…Hương tiễn tôi ra ga, khi gần chia tay, Hương nói: “Nếu chúng ta có duyên thì chỉ một, hai năm nữa là sẽ gặp lại. Ông bố mình rất giỏi xem tướng, nhìn tướng bạn, ông bảo chỉ hai năm nữa là bạn sẽ trở lại con đường học hành mà thôi!” Nghe Hương nói vậy, tôi nghĩ là cô nói đùa cho vui, ai ngờ đúng hai năm sau, tôi trở lại trường cũ thật. Nghĩ tới lời nói của Hương khi chia tay, tôi tới phố Tràng Thi tìm Hương, nhưng thấy cửa nhà đóng khóa im ỉm. Người hàng xóm cho biết Hương đã đi lấy chồng được một tháng!... 
*
Được trở lại học, đó là điều không phải dễ dàng, vì thế tôi lấy đó làm vui và quyết “Làm lại từ
Đầu”. Tuy nhiên, cũng có lúc buồn chán, tôi thường thả bộ dọc con đường Nguyễn Trãi trước cổng trường (là Khu Thượng Đình – đối diện nhà máy Cao-Xà-Lá Hà Nội)… Một hôm,  đi mãi, qua Ngã Tư Sở thì tôi rẽ vào đường Sân Bay từ lúc nào không hay! Đây là con đường dẫn vào Bộ Tư Lệnh Binh chủng Ra-đa, có những ngôi nhà mới xây rất đẹp, hình như đang cùng nhau “ăn tân gia”. Và thật bất ngờ, đứng ở trước cổng một ngôi nhà hoành tráng đó là cô gái Hương Tràng Thi và bên cạnh là một viên sĩ quan đeo lon Thiếu Tá, và tôi không thể gọi một cái tên khác mà phải thốt lên: “Trung đội Trưởng của tôi!”… 

Sài Gòn, 2008-2009
Đỗ Ngọc Thạch 

Phongdiep.net 


KÝ ỨC HÀ NỘI- Đỗ Ngọc Thạch



Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch 

KÝ ỨC  HÀ NỘI

              Tuổi thơ đi rồi mãi mãi lìa xa
              Chẳng còn bao giờ mong trở lại
               Tim vẫn hát điệu vần kh ôn cưỡng lại
               Tình yêu như sao trời mọc trên đầu ta!...                                      

     Ngay sau ngày giải phóng Thủ đô,  gia đình tôi chuyển về Hà Nội, từ chiến khu. Bố tôi  làm việc ở Bệnh viện quân đội  108 (còn gọi là bệnh viện Đồn Thủy) nuôi cả nhà, gồm mẹ tôi  và năm chị em. Lúc đó, tôi chưa tới mười tuổi nên không thể nhớ lại  được  bố mẹ tôi đã xoay trở ra sao để nuôi  một đàn con chúng tôi ăn học giữa chốn thị thành này. Tôi  cũng không có ý thức gì về sự giàu nghèo vì cho tới lúc này, tôi vẫn chưa biết mặt mũi đồng tiền nó như thế nào !

      Gia đình tôi ở nhờ trong nhà một người bạn học cũ của bố tôi, ở phố Nguyễn Lai Thạch. Chủ nhà nhường toàn bộ phần lầu một , thoáng mát , rộng rãi. Tuy nhiên, chính vì ở trên lầu mà cái cầu thang  đã trở thành mối nguy hiểm thường trực đối với  tôi  : vì không quen đi cầu thang mà mỗi ngày phải lên xuống cái cầu thang ấy hàng chục lần, nên tôi thường bị té ngã đủ kiểu !  Ấy là chưa kể tôi còn thường bị bố tôi đánh lăn từ đầu cầu thang xuống tới chân cầu thang ! (Sau này, tôi không còn oán bố tôi về chuyện này nữa vì tôi  biết rằng bố tôi  là người  tính nóng, mà tôi thì hay làm hỏng việc và thường là không thực hiện đúng những quy định do bố tôi  đặt ra, chẳng hạn như làm vỡ phích nước, khi bố tôi đi làm về mà vẫn chưa nấu cơm xong…).  Nhưng tôi lại phải cảm ơn cái chuyện ngã cầu thang này vì nhờ tôi bị ngã gãy tay mà tôi  đã có một người bạn đặc biệt.
    
Năm đó (1955), tôi đang học lớp Một. Vào năm học được một tháng thì tôi bị ngã cầu thang và phải nghỉ học gần mười ngày. Tới ngày nghỉ thứ ba thì Nhung – lớp trưởng, được cô giáo giao nhiệm vụ đến giúp tôi chép bài và hướng dẫn tôi học, để khỏi bị đứt đoạn. Nhưng cả Nhung và cô giáo đều không biết rằng hồi còn ở chiến khu, tôi đã học xong toàn bộ chương trình lớp Một, vì khi đó, mẹ tôi là cô giáo tiểu học và đã cho tôi học  “dự thính” !  Khi về Hà Nội tôi mới đủ tuổi vào lớp Một nên phải xin vào học lại từ lớp Một. Thật là sự trùng hợp ngẫu nhiên, Nhung cũng đã tự học xong chương trình lớp Một, nhưng là do chị Nhung dạy tại nhà. Thế là việc học bài chuyển thành những buổi đọc truyện thật là thú vị đối với tôi. Nhung nói nhà Nhung có một tủ sách rất lớn được truyền lại từ ông nội Nhung (đã đỗ tiến sĩ dưới triều Nguyễn), đến bố Nhung, một bác sĩ đã tốt nghiệp khóa đầu của trường đại học Y – Dược Hà Nội. Chính là nhờ Nhung tôi đã biết thế giới kỳ ảo của truyện Cổ tích, Thần thoại từ Việt Nam, Trung Quốc cho đến An-đec-xen, Grim…
    
Việc Nhung dắt tôi vào thế giới kỳ ảo của Cổ tích, Thần thoại thật là thú vị đối với tôi, nhưng còn thú vị, tuyệt vời hơn là việc Nhung đã tình nguyện là hướng đạo dẫn tôi đi khắp Hà Nội 36 phố phường !   
Lần đầu tiên, Nhung dẫn tôi đến hồ Hoàn Kiếm và kể cho tôi  nghe chuyện vua Lê Thái Tổ trả gươm cho Thần Rùa. Trong khi tôi đang mải suy nghĩ xem Thần Rùa đã để thanh gươm ấy ở đâu thì Nhung nói :
      - Giá như khi giặc Pháp sang xâm lược nước ta, Thần Rùa  cũng cho mượn Gươm ấy thì nước ta đã không bị chúng đô hộ gần  một thế kỷ !...
       Tôi nói ngay : - Giặc Pháp có nhiều súng đạn, gươm thì làm sao đánh lại ?
       - Ừ nhỉ !... – Nhung nói khẽ và buông một hơi thở nhẹ.
       
Tôi thấy mình như bị một lực vô hình nhấc bổng lên cao rồi ném mạnh xuống hồ. Tôi lặn hụp một hồi thì cảm thấy như là bị chuột rút. Tôi  vẫn còn tỉnh táo để nhận ra một bàn tay nhỏ đã túm tóc tôi kéo vào bờ !...
        Nhung hỏi, sau khi tôi đã trở lại bình thường :- Sao bạn lại nhảy xuống hồ ?
        - Tôi định lặn xuống tìm thanh gươm của Thần Rùa ! – Đúng là trong đầu tôi có ý nghĩ như vậy !
        - Trời ơi ! – Nhung tròn mắt nhìn tôi – bạn không biết bơi mà sao lại liều như vậy?
        - Tôi bơi giỏi ấy chứ! – Tôi cười to và nói liền một mạch - Ở quê tôi có sông Thao, tôi đã bơi qua sông rồi bơi trở lại. Đó là chuyện bình thường. Bạn có biết câu “Sông Thao nước đục người đen – Ai lên Vũ Ẻn thì quên đường về” không?Quê tôi đẹp và nên thơ lắm. Nhưng khi được biết câu “Mịt mù khói tỏa ngàn sương – Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ” tôi lại thấy Hà Nôi của bạn chắc là đẹp hơn ?
        
 Không phải đợi lâu, Nhung dẫn tôi đến Hồ Tây. Đứng trước mặt hồ, một cảm giác kỳ lạ dâng trào trong tôi và tôi đã nhảy ào xuống hồ từ lúc nào. Sau khi lặn một hơi, tôi nổi lên và sải tay bơi ra giữa hồ. Được một lát, tôi ngoảnh lại thì thấy Nhung đang đứng yên lặng bên bờ hồ, mắt dõi theo tôi. Bơi được khoảng gần một trăm mét, tôi dừng lại và chợt nghĩ:”Thử lặn  xuống xem có báu vật gì không?”. Thế là tôi lặn một hơi dài. Quả nhiên, không lâu la gì, tôi đã tìm thấy một cái đồng hồ bỏ túi và một miếng ngọc bội. Tôi tặng Nhung  miếng  ngọc bội và giữ lại cái đồng hồ (Nhưng ngay ngày hôm sau, cái đồng hồ đã bị bố tôi tịch thu !). Chúng tôi còn trở lại hồ Tây hai lần nữa, cũng có nhiều chuyện đáng nhớ mãi nhưng chưa thể kể hết ra đây được !...
       
 Tôi ở Hà Nội chưa được một năm, chưa kịp đi xem hết những kỳ quan của Hà Nội thì gia đình tôi chuyển về  Hà Đông (bố tôi được điều động về làm việc ở quân y viện 103). Ở Hà Đông được một năm thì bố tôi lại được điều động  về quân y viện 109 ở Vĩnh Yên. Ở Vĩnh Yên cũng chưa được một năm thì gia đình tôi lại chuyển về Hà Nội (bố tôi đã  chuyển ngành và đang chờ Bộ y tế sắp xếp công tác). Lần này , gia đình tôi ở nhờ một trại chăn nuôi bò sữa vùng ngoại ô, có cái tên rất hay : Lương Yên. Đây là khu lao động, hầu hết là dân nghèo. Vì thế, phòng mạch của bố tuy đông bệnh nhân nhưng thu nhập chỉ vừa đủ sống (đa phần chữa bệnh không lấy tiền). Công việc ở phòng mạch rất nhiều (có đủ các loại bệnh, riêng công việc giải phẫu – chỉ có tiểu phẫu – thì nhiều không ngờ : ngày nào cũng ngót nghét chục ca)  nhưng người làm chỉ có ba : bố tôi, mẹ tôi (đã là y tá) và tôi. Vì tôi bận làm việc như thế cho nên thời gian để gặp Nhung thật là hiếm hoi. Chỉ đến khi Nhung xin chuyển về trường Lương Yên học cùng lớp với tôi (lớp 4), thì chúng tôi mới được gặp nhau thường xuyên – dĩ nhiên ! Những giờ kiểm tra một tiết hoặc cả buổi, chúng tôi chỉ làm bài trong mười phút là xong và nộp bài cho thầy giáo rồi dắt nhau tung tăng khắp phố phường ! Những ngày tháng đó thật là đẹp và có thật nhiều kỷ niệm nhớ đời. Tôi chỉ xin kể ra đây một kỷ niệm “đòn đau nhớ đời” !
       
Lần ấy, khi tôi và Nhung đang đứng xem giới thiệu chương trình kịch mục trước cửa Nhà hát Lớn thì thật bất ngờ, chiếc mô-bi-lét của bố tôi đỗ xịch ngay sát người tôi mới biết  ! Kết  quả là tôi bi một trận đòn “thập tử nhất sinh” cùng với bao lời kết tội của bố tôi, trong những tội đó có một từ mà lần đầu tiên tôi được nghe : luyến ái bất chính ! Khi nghe bố tôi nói như thế, tôi nghĩ : đúng là tôi và Nhung rất thân nhau, rất thích gần nhau, nhưng yêu thì chắc là từ đây tôi sẽ yêu Nhung !
      
Tôi chưa kịp nói với Nhung về những suy nghĩ của mình thì gia đình tôi chuyển lên Thái Nguyên – bố tôi được giao nhiệm vụ làm giám đốc bệnh viện Khu Gang thép Thái Nguyên. Tính lại, chúng tôi chỉ cùng được học bên nhau học kỳ 1 của lớp 4, nhưng bù vào đó, Nhung đã dẫn tôi đi khắp lượt Hà Nội 36 phố phường . Sau này, khi trở lại sống ở Hà Nội lần thứ ba, tôi đã bắt tay vào viết cuốn Hà Nội ký sự, nhưng rồi bỏ dở vì nghĩ có lẽ mình không qua nổi những văn tài đã viết rất hay về Hà Nội như Vũ Bằng, Thạch Lam, Tô Hoài…Lần ra đi này của gia đình tôi cũng thật là cập rập, dĩ nhiên là tôi không thể chia tay với Nhung.Tới Thái, tôi đã viết thư ngay cho Nhung, gửi cả về nhà và địa chỉ lớp học, nhưng dù tôi có gửi thêm gần chục lần nữa, cũng không hề có thư hồi âm của Nhung !...
      
Ở Thái Nguyên được một năm rưỡi, gia đình tôi lại chuyển chỗ ở : đi một mạch từ Thái Nguyên về thành phố biển Hải Phòng ! Bố tôi lại chuyển đổi công tác (chưa phải là lần cuối) : về làm giám đốc Viện điều dưỡng A ở Hải Phòng ! Lúc chiếc xe tải chở gia đình tôi từ Thái Nguyên về qua Hà Nội, chỉ nghỉ có một đêm, tôi muốn đi tìm gặp Nhung nhưng tôi không có một kẽ hở thời gian nào : mẹ tôi đã đẻ thêm ba cậu con trai, từ năm 1955 đến năm 1960, (lúc đó là đầu năm 1961) và việc trông coi ba đứa em nhỏ tôi phải làm gần hết, không khác gì một nhũ mẫu thực thụ ! Không thể diễn tả hết cảm giác của tôi lúc đó : thấy như là Nhung ở rất gần đâu đây mà không gọi được, không tới được !...
      
Thế là lại phải qua đi năm năm nữa tôi mới được gặp lại Nhung. Ấy là lúc tôi học xong lớp mười Phổ thông và có giấy gọi vào khoa Toán trường Đại học Tổng hợp. Nhận được  giấy gọi, tôi đi Hà Nội ngay. Đoạn đường “tang-bo” khá dài (thời gian này – l966, máy bay Mỹ đã tăng cường đánh phá miền Bắc, cầu Phú Lương trên đường số 5 bị hỏng nên tàu hỏa không thể đi qua) nhưng tôi đi như bay, như là có cánh mọc dưới chân như nhân vật Hecmet trong thần thoại Hy Lạp.!  Gặp lại Nhung sau sáu năm xa cách, tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác: Nhung đã là một thiếu nữ 18 tuổi cực kỳ xinh đẹp, không thua kém các hoa hậu thời nay bất kỳ điểm nào ; Nhung cũng tốt nghiệp phổ thông trung học như tôi nhưng với điểm cao tuyệt đối mà bây giờ gọi là Thủ khoa, đặc biệt với môn Toán, suốt 10 năm học phổ thông, Nhung luôn đạt điểm cao nhất ; điều bất ngờ thứ ba gây sốc rất mạnh đối với tôi là Nhung không được gọi vào đại học vì lí lịch : Ông nội là quan lại thời phong kiến, bố là tư sản, có một ông chú đang làm việc trong chính quyền Sài Gòn và một ông chú đang sống ở Pháp !  Tôi không nói được lời nào để an ủi Nhung hay đại loại như vậy, chỉ vò đầu bứt tai và cảm thấy như mình có lỗi ! Nhưng Nhung lại an ủi tôi và tỏ ra rất bình thản (hay đúng là Nhung chỉ tỏ ra bình thản ở bề ngoài ?). Nhung nói nhỏ nhẹ :
       - Bạn nên tới trường ngay đi. Đường xa và bom đạn không biết đâu mà lường ! Tôi sẽ đưa bạn tới tận nơi học !...
        
  Trời ơi ! Nghe Nhung nói mà tôi như sắp òa khóc ! Tôi muốn thời gian ngừng lại, trái đất ngừng quay và tốt nhất là quay ngược lại cái thời Nhung dắt tôi đi lang thang khắp 36 phố phường Hà Nội ! Trong đầu tôi vụt hiện lên nào là Hồ Gươm cổ tích, Hồ Tây bâng khuâng, hồ Thuyền Quang mơ mộng, Ô Quan Chưởng trầm mặc, Ô Đông Mác lầm bụi, Ô Chợ Dừa nhộn nhịp…, nào là những con đường ào ào lá đổ, những hàng cây đào Nhật Tân kiên nhẫn đứng đợi xuân về, nào là cây cầu Long Biên già nua nhưng vẫn cố gồng mình cho đoàn người, đoàn xe qua lại không ngớt…
      
    Cuối cùng thì tôi cũng không thể không đối diện với thực tại : tôi đi học, còn Nhung, Nhung sẽ đi đâu ? làm gì ? Nhung không trả lời tôi mà giục tôi lên đường . Quả là con đường sẽ đi rất xa : Khoa Toán của trường ĐHTH  sơ tán ở tận huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên (tôi có duyên nợ gì với Thái Nguyên đây ?). Đi tàu từ thị xã Thái Nguyên đến ga Quán Triều là hết đường sắt, phải đi bộ tiếp đến Đại Từ, và điểm cuối cùng là thôn Đầm Mây – chắc là chỗ chúng tôi học ở tít trên chín tầng mây !...
         
 Suốt quãng đường đi bộ, con đường đồi núi dài hun hút và vắng teo, Nhung hết đọc thơ, bình thơ rồi lại kể chuyện cổ kim đông tây  cho tôi nghe. Tôi không ngờ Nhung đọc thơ và bình thơ thật tuyệt vời, nhất là những bài thơ tình của  Aragon viết tặng Ensa  do  Nhung tự dịch từ nguyên bản tiếng Pháp . Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn còn thuộc những câu thơ ấy và nó hiện ra trong đầu tôi cùng với hình ảnh Nhung đang đọc lên lúc ấy : “Tất cả những gì về anh nhờ em anh mới biết – Trời đã đứng trưa, ngày cũng sắp qua rồi – hạnh phúc không phải ngọn đèn nơi quán nhỏ - anh cầm tay  em  trong cuộc đời đau khổ -  con người chưa hiểu nghĩa chung đôi…”
       
  Con đường dài hun hút và vắng teo ấy cuối cùng cũng ở sau lưng chúng tôi ! Tôi sợ phải chia tay với Nhung. Một nỗi sợ không có hình hài nhưng nó làm tim tôi như ngừng đập ! Và có lẽ Nhung biết rất rõ điều ấy nên Nhung đã đồng ý để tôi đưa Nhung trở lại thị xã Thái Nguyên. Và rồi cuối cùng, tôi đã đưa Nhung trở lại Hà Nội. Chúng tôi quyết định sẽ đi lang thang khắp Hà Nội một lần nữa, một ngày một đêm, rồi tôi sẽ đi Thái Nguyên, tới huyện Đại Từ và cuối cùng là cái làng Đầm Mây heo hút kia !
        
 Khắp Hà Nội là một không khí sẵn sàng chiến đấu đánh trả bọn “Thần Sấm”, “Con Ma” của  “Không lực Hoa Kỳ”. Trên đường Thanh Niên bên Hồ Tây, nơi có hàng ghế đá và những cây liễu rủ tóc thướt tha – nơi hẹn hò yêu đương của những đôi lứa – sừng sững những khẩu pháo phòng không  đang sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào. Trên sân thượng ở các nhà cao tầng, những khẩu súng máy 14,5 li và 12,7 li và cả súng trường CKC cũng đang vươn nòng sẵn sàng chiến đấu !... Một ý nghĩ thoáng vụt đến :tôi muốn đi chiến đấu, tôi sẽ xông pha nơi bom lửa bão đạn, chứ không thể tìm đến một nơi an toàn tít tận cái làng Đầm Mây hẻo lánh trên miền núi rừng kia để mà ngồi học, nhất là Nhung lại không được đi học nữa ! (Ý nghĩ bất chợt ấy chỉ ba tháng sau đã trở thành sự thật !...)
       
 Bấy giờ là tháng Chín – Mùa Thu. Tôi và Nhung cứ đi lòng vòng mà không định rõ rằng sẽ đi đến đâu ? Khi tôi thấy đôi chân mỏi rời thì cũng là lúc chúng tôi đang đứng trước Văn Miếu. Chúng tôi đã đến Văn Miếu nhiều lần vì ông nội Nhung có tên trong tấm bia đá tiến sĩ, mỗi khi nhớ ông nội Nhung lại đến đây…Tôi nói với Nhung :
        - Giá như bây giờ là Mùa Xuân thì hay quá, mình muốn đến nhìn hoa đào đón Mùa Xuân như thế nào ?
       - Mùa Thu Hà Nội có nhiều điều kỳ diệu lắm. Mình có cảm giác rằng chính Mùa Thu đã làm cho Hà Nội đẹp một cách huyền ảo. Vả lại riêng mình, trong bốn mùa ở Hà Nội, mình thích Mùa Thu nhất, bởi Mùa Thu dài nhất, bí ẩn nhất…-  Nhung nói nhỏ.
        - Và buồn nhất – Tôi nói chen ngang – Tiếng Thu là âm thanh buồn vô hạn : “Con nai vàng ngơ ngác – đạp trên lá vàng khô”…
         
Nhung  xác nhận :
        - Đó cũng là một biểu hiện lãng mạn của Mùa Thu, nhưng người ta chìm đắm vào đó nhiều quá, thái quá bất cập. Mình thích Mùa Thu nhất không phải vì Mùa Thu buồn mà vì lẽ khác. Bạn cứ thử nghĩ xem, tại sao chỉ có Thiên Thu mà không có thiên Xuân, thiên hạ, thiên đông ? Thiên Thu (ngàn năm) là một khái niệm thời gian không có giới hạn…Mình cứ bị ám ảnh bởi một câu thơ nói về cái chết của một chú bé lính kèn : “Hỡi người lính kèn nhỏ tuổi – Hãy nằm đây yên giấc ngàn Thu…”  Đó là cái vĩ đại, cái kỳ diệu trong cái bé nhỏ. Loài người tồn tại được là nhờ điều đó !
         
Tôi lờ mờ nhận ra điều gì đó trong suy nghĩ của Nhung, nó như đôi cánh của Thiên Thần đang bay trên thinh không kỳ ảo. Vì cứ mải đuổi theo đôi cánh Thiên Thần ấy mà tôi quên hết những gì định nói với Nhung trong ngày hôm nay. Cuối cùng, tôi lại nói một câu rất vu vơ :
          - Thiên Thu ?  Đúng rồi ! “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”, hồi ở Hải Phòng, vì đánh nhau mà mình bị giam ở đồn công an mất một ngày, đúng là dài bằng cả ngàn năm !
         
 Nhung mỉm cười rồi chợt buông một hơi thở nhẹ và nói :
         - Mình rất muốn được học ở Khoa Toán như bạn, nhưng cái số mình là nó vậy, biết làm sao. Điều mong ước duy nhất của mình lúc này là bạn sẽ học thật tốt, sẽ trở thành một nhà toán học như trước đây chúng mình đã hằng mơ ước. Bạn thắp hương cầu khấn ông nội mình đi, ông sẽ phù hộ độ trì cho bạn…
          Chúng tôi cùng cầu khấn ông nội của Nhung. Tôi nhìn tấm bia  Tiến sĩ mà như thấy cảnh tôi vinh quy bái tổ, N
hung e lệ đón tôi  trong tiếng pháo nổ vạn sắc hồng ! Nhưng, kỳ lạ thay, con Rùa dưới tấm bia như là đang bò đi, mới có vài bước chân mà đã mất hút ! Tôi giật mình nhìn sang Nhung, Nhung vẫn đang lầm rầm khấn điều gì đó ! Tôi không nghe rõ tiếng Nhung vì không hiểu sao tôi nghe thấy tiếng lá rơi rất kỳ lạ, rất to như là tiếng bom nổ ! Và điều đó không sai, máy bay Mỹ đang ném bom ở đâu đó, không xa lắm, tiếng còi báo động của Thành phố vang lên!...
       
Đoạn kết :
         Đoạn kết thật bi thương, nhưng không thể khác đi được ! Tháng Mười năm 1970 tôi được trở về tiếp tục học tại khoa Toán sau bốn năm là lính Ra-đa thuộc lực lượng Phòng không – Không quân. Lúc này, trường Đại học không phải đi sơ tán như hồi tôi mới nhập học nữa. Khoa Toán của tôi học ở khu Thượng Đình. Nói chung là rất tốt, không có gì phải phàn nàn !

        Gặp lại Nhung, chúng tôi đều rất mừng . Tôi thầm cảm phục Nhung đã có bản lĩnh vững vàng để đi qua biến cố lớn của cuộc đời. Nếu là tôi, tôi đã gào thét, đã buông thả và có lẽ sẽ trở thành một kẻ chán đời, bất lực. Trong suốt bốn năm qua, Nhung đã tham gia rất tích cực trong đội cấp cứu cơ động của Thành phố. Với tư chất thông minh bẩm sinh, với sự say mê học hỏi qua tủ sách Y học và sự hướng dẫn nhiệt tình , chu đáo của người bố, kiến thức cũng như thực hành về Y học của Nhung không thua kém bất kỳ một bác sĩ chuyên khoa giỏi nào. Nhung đã cùng đội cấp cứu cơ động cứu sống rất nhiều người trong những đợt oanh tạc liên tục từ ngày này qua ngày khác của máy bay Mỹ  trong cuộc chiến tranh phá hoại mang tính hủy diệt này…Với việc trở lại Khoa Toán của tôi, Nhung đã khiến tôi bất ngờ vô cùng : Nhung tặng tôi toàn bộ số sách giáo trình của bốn năm học của một sinh viên khoa Toán mà tôi sẽ phải dùng đến . Ngày tháng mua sách được ghi ở trang đầu từ năm 1967 đến 1970. Thì ra trong khi tôi đang mất hút ở chiến trường, Nhung đã mua sách theo chương trình và tự học xong toàn bộ. Lúc đưa sách cho tôi, Nhung chỉ nói ngắn gọn :  “Trong thời gian bạn ở chiến trường , mình đã học thay bạn. Giờ bạn đã trở về, trả lại cho bạn đó !” . Tôi không biết nói sao, chỉ biết lao vào những Ma trận kỳ ảo, những Chuỗi số dài vô tận của toán học… Song, một điều bất ngờ đến kinh hoàng , đến nỗi cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa tin là nó đã xảy ra là : trong một lần cứu hai em bé bị nước cuốn trôi ngay sát cầu Long Biên, Nhung đã bị cuốn vào một cái hút nước. Phải mất nửa ngày, hai người thợ lặn mới tìm thấy Nhung !... Đó là ngày l0-l0-1971!...

           …Nhung nằm đó, bất động…Tay Nhung đang cầm miếng ngọc bội mà tôi đã tặng Nhung ở Hồ Tây năm xưa…Tôi vụt nhớ đến  câu thơ có hai chữ “Thiên Thu” mà Nhung đã đọc cho tôi nghe rất nhiều lần: “ Hỡi người lính kèn nhỏ tuổi – Hãy nằm đây an giấc ngàn Thu “…Và tôi đã đọc lên cho Nhung nghe, một lần, hai lần, ba lần, đọc hoài !... 
      Đỗ Ngọc Thạch 

Phongdiep.net


Gửi email trang này cho bạn bè Mở cửa sổ in bài viết này

Nguồn: phongdiep.net



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét