Thứ Tư, 19 tháng 10, 2011

tác phẩm Đỗ Ngọc Thạch trên vannghechunhat.net

tác phẩm Đ.N. Thạch trên vannghechunhat.net

http://phongdiep.net/images/chandung/thu%20vien/do%20ngoc%20thach.jpgTác phẩm Đ.N.T trên vannghechunhat.net

Trang chủ – Văn Nghệ Chủ Nhật

Chủ nhật, 16 Tháng 10 2011 15:15 0 Comments BẠN ĐỌC GỬI Truyện
Email In PDF.

Sự tích chim đa đa

chimdadaTiểu Ngũ là con trai út trong một gia đình có năm anh chị em: anh cả, tên là Công Nhất, anh sinh ra lúc người bố, tên là Quan Gia, lập được công trạng đầu tiên, được thăng chức Trưởng phòng của Sở Nông nghiệp, tên anh được đặt như vậy để kỷ niệm bước khởi đầu con đường quan chức của người bố.
Chủ nhật, 16 Tháng 10 2011 15:11 0 Comments BẠN ĐỌC GỬI Truyện
Email In PDF.

Lời thề thứ hai

Duyet_binhTrong mười lời thề danh dự của người chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam thì “Lời thề thứ hai” là ngắn nhất, chỉ có 27 chữ nhưng được vận dụng thực hiện thường xuyên nhất và nhiều khi quyết định đến sinh mạng của người chiến sĩ. Vì thế tôi xin được dẫn nguyên văn lại đây:
Chủ nhật, 16 Tháng 10 2011 15:01 0 Comments BẠN ĐỌC GỬI Truyện
Email In PDF.

Cánh đồng mùa đông

10_tuyetroi04Chử Đồng Tử và người cha nghèo đến nỗi hai cha con chỉ có một cái “quần đùi”, ai có việc đi ra ngoài thì mới mặc, còn người ở nhà thì “khỏa thân”. Khi người cha sắp chết, người cha đã đã dặn giữ lấy cái “quần đùi” đó mà mặc, nhưng Hiếu Tử Chử Đồng Tử đã mặc “quần đùi” cho cha rồi mới chôn, nên không còn gì mà mặc nữa! Nếu không có chuyện gặp Công chúa Tiên Dung trong cảnh ngộ “trần như nhộng” thì có lẽ Chử Đồng Tử sẽ “khỏa thân” suốt đời!…
Đọc thêm… Thêm bình luận mới

Cánh đồng mùa đông

Chủ nhật, 16 Tháng 10 2011 15:01 0 Comments BẠN ĐỌC GỬI Truyện
10_tuyetroi04Chử Đồng Tử và người cha nghèo đến nỗi hai cha con chỉ có một cái “quần đùi”, ai có việc đi ra ngoài thì mới mặc, còn người ở nhà thì “khỏa thân”. Khi người cha sắp chết, người cha đã đã dặn giữ lấy cái “quần đùi” đó mà mặc, nhưng Hiếu Tử Chử Đồng Tử đã mặc “quần đùi” cho cha rồi mới chôn, nên không còn gì mà mặc nữa! Nếu không có chuyện gặp Công chúa Tiên Dung trong cảnh ngộ “trần như nhộng” thì có lẽ Chử Đồng Tử sẽ “khỏa thân” suốt đời!…
Khi còn nhỏ, đọc cái chuyện về Chử Đồng Tử, tôi không tin lại có người nghèo đến như thế. Nhưng sau này, có nhiều dịp sống ở những vùng nông thôn, tôi đã gặp không ít những “Cha con Chử Đồng Tử” như thế. Chỉ có điều khác là không có cái đoạn gặp Công chúa Tiên Dung đi tắm!
Tôi nhập ngũ vào Mùa Đông, tháng 12 năm 1966, được biên chế vào một Đại đội Ra-đa độc lập. Trung đội chúng tôi đặt máy Ra-đa trên một con đê của một con sông đào, vốn là thuộc hệ thống của công trình Đại Thủy Nông Bắc Hưng Hải nổi tiếng một thời. Con đê lúc này đã cây cối xanh tốt, trên mặt đê từng thảm cỏ xanh rờn. Nếu không giới thiệu thì không thể hình dung ra chỉ mấy năm trước đây còn là Đại Công trường đào sông đắp đê nhộn nhịp chấn động cả vùng đồng bằng Bắc Bộ. Phải nói sơ qua về cái Đại Công trường Thủy Nông này bởi nhân vật của truyện ngắn “Cánh đồng Mùa Đông” này chính là người đã từng được phong danh hiệu “Kiện tướng” của công trường Đại Thủy Nông này: ông Trần Phu. Song, không biết có phải cái danh hiệu “Kiện tướng” kia đã hại ông hay không mà vừa được phong danh hiệu “Kiện tướng” hôm trước thì hôm sau ông bị tai nạn: Khi đang gánh đất từ dưới hố sâu lên bờ đê thì Trần Phu bị trượt chân, lăn ngược trở lại dưới đáy hố và thật rợn người khi người xắn đất ở dưới hố vừa phóng lưỡi mai xuống đất thì bàn chân của Trần Phu lao tới, lãnh trọn nhát mai sắc lẹm và sức phóng rất mạnh của người thủ mai! Trần Phu đã bị mất gọn cả bàn chân!…
*
Những người lính Ra-đa chúng tôi dựng nhà bạt trên mặt đê, chỉ cách ụ máy phát sóng khoảng 50 mét. Ăn uống thì cử người đi vào nhà bếp của Đại đội ở đầu làng, cách bờ đê khoảng nửa cây số, gánh cơm nước về (những người tân binh chúng tôi thường được vinh dự làm việc này!). Tắm rửa, giặt rũ thì ra bờ con sông đào, nước thì thoải mái dùng không hết nhưng “phù sa” đỏ ngầu, cái khăn mặt chỉ dùng tới ngày thứ ba là đỏ màu phù sa! Điều kiện sinh hoạt ăn ở tuy có khó khăn nhưng hình như đối với những người lính trẻ, chuyện đó không quan trọng. Quan trọng nhất là mùa Đông gió lạnh, sống trên bờ đê cao là lãnh đủ mọi đợt gió mùa Đông Bắc! Song, cái lạnh của Mùa Đông sẽ tan biến hết nếu như trái tim được sưởi ấm!
Vì thế việc quan trọng nhất là lúc nào được vào Làng để gặp gỡ, tâm tình với các thôn nữ mười phần thùy mị, nết na và xinh đẹp!…
Việc vào Làng lúc đó được gọi là “Dân vận”. Mục đích của công tác Dân vận là làm sao để “Đi dân nhớ, ở dân thương”. Song, khẩu hiệu đó không cần phải hô lên vì lúc đó, người dân, mà chủ yếu là các cô gái quê, biết thương ai ngoài mấy anh lính trẻ, biết nhớ ai ngoài mấy anh lính đáng yêu! Mà thực ra, quân đội ta đã có truyền thống “Quân với dân như cá với nước” từ khi mới ra đời! …
Mỗi lần đi Dân vận là chúng tôi phải đi thành từng tổ Ba người, đây có lẽ là tổ chức nhỏ nhất trong quân đội, có từ thời kháng chiến chống Pháp, lúc đó gọi là “Tổ Tam tam”. Có lẽ việc hình thành hình thức tổ chức Tổ Ba người xuất phát từ câu ca dao cổ “Một cây làm chẳng nên non / Ba cây chụm lại nên hòn núi cao!” Nếu đúng là như thế thì công tác chính trị tư tưởng trong quân đội đã làm được một điều kỳ diệu: Tổ Ba người – Đó chính là hạt nhân tạo nên sức mạnh bách chiến bách thắng của quân đội ta! Tổ Ba người của chúng tôi gồm có ba người, gọi theo tên Khoa mà lúc người đó nhập ngũ thì là: Toán, Lý và Hóa, trong đó Lý là Tổ trưởng, Hóa Tổ phó và Tôi – Toán, tổ viên. Khi đi dân vận, Lý thường ngồi trò chuyện tâm tình với gia chủ, Hóa chăm lo việc thăm hỏi người già, Toán lo chuyện trẻ em!
Lần đi Dân vận đầu tiên, chúng tôi được giao nhiệm vụ giúp nhân dân làm vệ sinh nhà cửa, có nghĩa là nếu thấy nhà nào sống không hợp vệ sinh thì vận động sống cho hợp vệ sinh. Thời gian là cả buổi sáng ngày Chủ nhật, từ bảy giờ sáng đến 12 giờ trưa! Xin nói thêm là cho đến lúc chúng tôi đi làm công tác Dân vận vận động nhân dân sống hợp vệ sinh (những năm cuối thập niên 1960) thì về cơ bản mà nói, ở nông thôn vẫn còn nhiều nơi sống chưa hợp vệ sinh như dùng nước tắm rửa nơi Cầu ao (đó chính là nguyên nhân làm cho cả làng mắt toét), chuồng trâu, chuồng lợn liền kề với nhà ở, có nhiều nơi nhà bếp chung một chỗ với chuồng lợn (đó chính là nguyên nhân ruồi muỗi đầy nhà, cộng với việc ngủ không có màn mùng khiến các cô gái và trẻ em trên mặt luôn có vết muỗi đốt lấm tấm đỏ), đại tiểu tiện lung tung, ỉa cầu ao (gọi là “Cầu Tõm”), ỉa ngoài đồng (sướng nhất Quận Công, sướng nhì ỉa đồng), vẫn là phổ biến,v.v…
Nhà đầu tiên mà Tổ ba người chúng tôi vào là nhà ông Trần Gian, nguyên Chủ tịch Xã, Thương binh Chống Pháp. Hai vợ chồng ông Trần Gian đều đã ngoài sáu mươi tuổi, ông đi lại phải dùng nạng vì đã mất một chân, bà đi lại phải chống gậy vì lưng đã còng! Nhìn hai ông bà không còn mấy sức sống này, không ai dám nghĩ là ông bà lại có hai cô con gái xinh đẹp như Tiên nữ giáng trần! Ông Trần Gian nói ngay với Tổ Trưởng Lý: “Nhà tôi có cái việc rời chuồng Lợn ra góc vườn mà lần khân mãi vẫn chưa làm được, chỉ tại vợ chồng tôi đều già yếu, mà có hai đứa con gái lớn thì hai năm nay lại đi trực chiến bắn máy bay Mỹ hoài, không có lúc nào rảnh!…Các chú làm giúp nhà tôi được việc này thì tôi gả ngay hai cô con gái mà không thách cưới gì cả!” Tổ trưởng Lý nói ngay: “Bác nhớ giữ lời nhé!” và ra hiệu cho chúng tôi làm việc ngay! …Chỉ hơn một giờ đồng hồ, cái chuồng lợn nằm sát góc vườn đã hoàn thành giống như trong chuyện Thần Tiên! Khi chúng tôi làm xong cái chuồng Lợn thì đúng lúc hai cô con gái ông Trần Gian đi chợ đã trở về! Ông Trần Gian nói ngay: “Đó, hai đứa con gái tôi đã hứa gả cho các chú đó! Các chú hỏi em nào ưng ai thì ta làm đám cưới ngay!”. Tổ Trưởng Lý hội ý chớp nhoáng và đi đến quyết định: “Tổ trưởng Lý cô chị, Hóa cô em, còn Toán dự bị!”. Khi hai cô gái biết được quyết định đó thì cô chị nói: “Để em dẫn anh Toán sang nhà ông chú Trần Phu, cô con gái ông Trần Phu còn đẹp hơn chúng em nhiều!”. Nói rồi cô chị, tên Nụ dẫn chúng tôi sang nhà ông Trần Phu.
Nhà ông Trần Phu ở sát hàng rào nhà ông Trần Gian. Ông Trần Phu chính là người được phong danh hiệu kiện tướng rồi bị tai nạn cụt mất bàn chân đã nói ở trên. Sau khi ông Trần Phu bị tai nạn, vợ  ông cũng đột ngột qua đời, khiến cho gia cảnh trở nên vô cùng túng quẫn. Để có tiền làm đám ma cho vợ, ông Trần Phu phải cho hai thằng con trai mới hơn mười tuổi đi ở đợ cho hai nhà giàu trong vùng. Nhà chỉ còn hai cha con – ông Trần Phu và cô con gái Trần Thị Lụa đã 17 tuổi. Ông Trần Phu sau tai nạn, sức khỏe chỉ còn non nửa trước đây, giờ ông chỉ quanh quẩn ở cánh đồng gần nhà, hôm thì mò cua, hôm thì bắt ốc. Lụa có cố gắng hết sức thì cũng không thể làm thay đổi được gia cảnh nhà cô!
Khi chúng tôi sang nhà ông Trần Phu thì chỉ có ông ta đang ngồi uống rượu với …mấy quả ổi xanh lăn lóc trên hè! Cô Nụ nói: “Có mấy anh bộ đội sang thăm chú đây! Cái Lụa nhà chú nó đâu rồi?” Ông Trần Phu như không hề say rượu (thực ra mỗi lần gọi là uống rượu, ông chỉ có thể mua được một chén sành nhỏ, có khi phải mua chịu, thì làm sao mà say!), ngồi nói chuyện với chúng tôi rất cởi mở. Ông nói, khi ông chưa bị tai nạn, ông là lực điền khỏe nhất làng, vợ ông là gái đẹp nhất Huyện, anh trai ông là chủ tịch Xã, nhà ông tuy không giàu nhưng kinh tế rất vững! Giờ ông chỉ ao ước tìm chỗ tốt lành cho con gái lấy chồng rồi ông đi gặp bà vợ xinh đẹp của mình nơi Chín Suối, chứ sống mà lắt lay thế này thì chết cho nhẹ gánh! Chúng tôi xúm vào động viên ông, thấy ông ngồi co ro, khoác tấm chiếu rách như người ăn mày, tôi cởi ngay cái áo Đông Xuân cho ông mặc (Mùa đông, mỗi người lính chúng tôi được phát thêm một áo dệt kim Đông Xuân và một áo trấn thủ. Có lẽ tôi còn trẻ khỏe nên thường không thấy lạnh, chưa bao giờ phải mặc cả áo Đông Xuân và áo Trấn thủ. Chỉ mặc một áo lót cổ vuông cũng bằng vải, một áo Đông Xuân và một áo quân phục hai túi ngực là thấy đủ ấm). Ông Trần Phu nhận áo mặc ngay và cám ơn rối rít.
Đang nói chuyện vệ sinh nhà cửa, ( Thực ra nhà ông Trần Phu chẳng có gì để mà mất vệ sinh cả, chuồng lợn, chuồng gà đều không có. Nhà có ba gian thì bố ở một đầu, con gái ở một đầu, gian giữa chỉ chỏng trơ cái phản gỗ lim là có giá. Bàn không, ghế không!) thì cô Lụa, con gái ông Trần Phu đi chợ về. Theo như cô Nụ nói thì sáng sáng, cô Lụa tranh thủ ra chợ bán mớ ốc mà ông bố Trần Phu mò bắt suốt đêm ngoài đồng lấy tiền đong gạo, mua mắm muối là vừa đủ “lương thực” một ngày cho hai bố con! Nhìn thấy cô Lụa đi từ ngoài cổng vào, thật là cảm động: đầu cô đội cái nón đã bong cái vành ngoài cùng, lớp lá mất vành bờm xơm như cỏ mới mọc, như muốn che đi một khuôn mặt xinh đẹp đến ngỡ ngàng! Chiếc áo tơi ngắn có lẽ là vật gia truyền của người mẹ đã chết sớm, choàng lên con trẻ nỗi bất hạnh truyền đời! Thấy tôi nhìn Lụa với vẻ xúc động, cô Nụ nói thật: “Ai cũng bảo hai bố con nhà này như ăn mày! Mà quả là thế, con Lụa nó chưa từng bao giờ mặc áo mới! Nó bây giờ chỉ có ba cái áo vải là mặc được mà đã vá trước vá sau! Đi đâu nó cũng phải khoác cái áo tơi ra ngoài! Thật tội nghiệp!…” Nghe cô Nụ nói đến đấy, mắt tôi thấy cay xè, miệng thấy đắng ngắt! Tôi cởi ngay cái áo sơ-mi quân phục đang mặc, đưa cho Nụ và nói: “Nụ đưa cái áo này cho cô Lụa, tôi mới nhận quân trang hôm qua đấy!”. Tổ Trưởng Lý thấy tôi cởi gần hết áo (chỉ còn cái áo lót cổ vuông – khi phát quân trang, ai cũng chê và chỉ thích áo lót ba lỗ, nhưng tôi lại thích vì có thể mặc thay áo sơ-mi quân phục khi đi ra ngoài vì nó không hở nách, có tay ngắn), Tổ Trưởng Lý cởi chiếc áo Đông Xuân đang mặc đưa tôi mà nói: “Mặc ngay vào kẻo lạnh lại sưng phổi bây giờ!” Cả Lý và Hóa cùng cười (vì tôi thường nói câu “sưng phổi”) nhưng không hiểu sao tôi lại bật khóc!…
*
Lần thứ hai đi Dân vận, chúng tôi được giao nhiệm vụ làm Tổng vệ sinh những nơi công cộng: đường đi lối lại trong Làng, Bệnh xá của Xã, Trường Tiểu học của Xã và cuối cùng là Ủy ban Nhân dân Xã. Cùng làm có cả một số thanh niên của địa phương, chuyện trò râm ran như pháo cho nên trời có gió mùa Đông Bắc mà không thấy giá lạnh, rét mướt gì cả… Gần trưa thì chúng tôi làm xong, mọi con đường đi lại trong Làng như mang một bộ mặt mới, quang đãng, sạch sẽ. Chúng tôi vào chơi nhà ông Trần Gian thì thật bất ngờ khi thấy cả ông bố của Tổ Trưởng Lý và bà mẹ của Tổ phó Hóa đang ngồi nói chuyện với nhau rất vui vẻ. Thì ra họ đã bàn bạc và thống nhất với nhau là vào dịp Tết Âm lịch sắp tới sẽ tổ chức đám cưới cho hai cô con gái ông Trần Gian với Lý và Hóa!…
Một lúc sau, Nụ mới “nháy” tôi ra nói nhỏ: “Mấy ngày nay, hai cha con ông Trần Phu đi mò cua bắt ốc ở tận cánh đồng làng bên, ngày nào cũng tối mịt mới về mà cũng không được là bao! Xem chừng  mấy ngày không có gạo mà  ăn rồi!…”. Nghe Nụ nói vậy, tôi chạy ngay về đơn vị, tới nhà bếp nói với Bếp Trưởng Tỷ: “Anh Tỷ ơi, cho tôi xin suất gạo của Tổ ba người Toán Lý Hóa đến nhà ông Trần Gian nấu món cháo Lươn đãi người nhà của Lý Hóa đến hỏi cưới con gái ông Trần Gian cho Lý và Hóa!”. Bếp Trưởng Tỷ nghe nói vậy thì nói : “Chúc mừng các cậu. Con gái ở đây đẹp nổi tiếng, lấy được vợ ở đây là tốt rồi!” Bếp Trưởng Tỷ xúc cho tôi một Ký gạo, rồi lại hỏi: “Cần nữa không?”. Tôi gật đầu thì lại xúc thêm một Ký nữa. Sở dĩ Bếp Trưởng Tỷ dễ dãi với tôi như vậy vì tôi thường được cử xuống phụ giúp nhà bếp những lúc nhà bếp có người ốm đau hoặc đi lấy gạo ở kho…Xách hai Ký gạo, tôi chạy một mạch đến nhà ông Trần Phu. Vẫn chưa thấy hai bố con ông Trần Phu về! Tôi để hai Ký gạo vào trong bếp rồi chạy tới cánh đồng Tam Thiên Mẫu, nơi tôi đoán là cha con ông Trần Phu sẽ tới đó mò cua bắt ốc vì nghe nói cánh đồng này rất nhiều loài vật sống dưới nước sinh sống!…
Đáng lẽ gần trưa thì trời phải hửng nắng và ấm lên một chút nhưng vì có đợt gió mùa Đông Bắc tăng cường cho nên trời lại lất phất mưa mà gió lạnh như quất vào mặt. Cũng vậy, như mọi khi, tôi chỉ chạy bộ khoảng năm phút là người nóng dần lên, có thể cởi dần cho tới hết quần áo rồi nhảy ùm xuống con sông đào, bơi qua bơi lại hai lần, nhưng hôm nay không hiểu sao càng chạy càng thấy lạnh!…
Khi chạy tới gần khu vực cánh đồng Tam Thiên Mẫu, tôi bỗng thấy một đám hơn chục người đang xúm xít xung quanh cái gì đó. Tôi chạy lại đám đông hỏi thì có người nói: “Có hai người đi mò cua bắt ốc bị cảm lạnh đột ngột, đã tắt thở!”. Tôi giật mình, vội lách đám đông vào thì bàng hoàng khi nhìn thấy cả hai người đều mặc áo tơi, người đàn ông thì bên trong mặc chiếc áo Đông Xuân màu xanh của bộ đội, còn cô gái thì mặc chiếc áo quân phục của bộ đội bằng vải Tô Châu vẫn còn mới!…

Sài Gòn, ngày 21,22 -11-2009

Đỗ Ngọc Thạch

< Lùi Tiếp theo >
http://thach49.files.wordpress.com/2011/10/doicat1.jpg?w=300
http://phongdiep.net/images/chandung/thu%20vien/do%20ngoc%20thach.jpg
Tác phẩm Đ.N.T trên vannghechunhat.net

Núi lở

dongocthach2Đoàn khảo sát, nghiên cứu văn hóa dân gian của chúng tôi đã tiến sâu vào một vùng rừng núi ngút ngàn. Chúng tôi đi ngược theo một con suối có cái tên rất nên thơ : K’tung !
Thứ tư, 28 Tháng 9 2011 00:26 BLOG Cửa sổ Blog

Nhật ký của một cô giáo trường huyện

co_giao1. Ngày…tháng…năm…19… Câu nói cuối cùng của thầy Hiệu trưởng nói với mình khi đến trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương nhận công tác là: “Học sinh ở đây khác với học sinh các nơi khác ở hai điểm:
Thứ ba, 18 Tháng 10 2011 19:15 0 Comments BẠN ĐỌC GỬI Truyện
Email In PDF.

http://www.vp165.vn/en/images/stories/200912171034058.1.jpg

Nhật ký của một cô giáo trường làng

Truyện  ngắn  của  Đỗ Ngọc Thạch
1.Ngày…tháng…năm 19…:
Mình tốt nghiệp thì nhận được tin cô em út cũng trúng tuyển vào Đại học Sư phạm. Mình phải về nhà ăn mừng ngay. Thế là nhà có hai chị em cùng nghề Sư phạm, thật là vui.

Truyện hay

Thứ năm, 06 Tháng 10 2011 00:34 TRUYỆN Truyện hay
Email In PDF.

Đứa bé tật nguyền và nàng tiên áo trắng

“Đêm nay
Những đôi nam nữ gặp gỡ
Ngày mai
Ra đời những đứa bé mồ côi !”
( B. Brest )
Nó có tên tuổi, có bố mẹ như bất kỳ đứa trẻ nào, nhưng bây giờ người ta chẳng cần biết gốc gác, lai lịch của nó như thế nào mà chỉ cần biết nó là thằng Khoèo, bởi nó khoèo rõ ràng:  cái đầu to với khuôn mặt méo  mó dị dạng lúc thì như văng lên trời, lúc lại như muốn rơi bịch  xuống đất…
Thứ tư, 05 Tháng 10 2011 02:34 TRUYỆN Truyện hay
Email In PDF.

Mẹ Đốp

“Chiềng làng chiềng chạ / Thượng hạ Tây Đông / Con gái Phú Ông / Tên là Mầu Thị / Tư tình ngoại ý/ mãn nguyệt có thai / Già trẻ gái trai/ ra đình mà ăn khoán…”
Chủ nhật, 02 Tháng 10 2011 18:07 BẠN ĐỌC GỬI Thơ bạn đọc
Email In PDF.

Chùm thơ về Hà Nội của Đỗ Ngọc Thạch

Trước văn bia
    Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
(ca dao)

Thứ sáu, 30 Tháng 9 2011 13:52 BẠN ĐỌC GỬI Thơ bạn đọc
Email In PDF.

Chùm thơ lục bát Đỗ Ngọc Thạch

ngocthachTác giả Đỗ Ngọc Thạch sinh ngày 19-5-1948. Quê quán: Yển Khê – Bà Triệu- Thanh Ba- Phú Thọ.
Cựu sinh viên Khoa Toán trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
Cựu sinh viên Khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
  1. Từ văn miếu đến hồ Hoàn Kiếm – Trang chủ – Văn Nghệ Chủ Nhật

    www.vannghechunhat.net › Tản vănBản lưu
    Bạn +1 mục này công khai. Hoàn tác
    12 Tháng Mười 2011 – 1. Ở Hà Nội có nhiều di tích văn hóa – lịch sử lớn, song có hai nơi gắn bó với tôi rất bền chặt v. Skip to content · Trang chủ » Tản văn » Từ văn miếu đến hồ Hoàn Kiếm. Email In PDF. ….. Sài Gòn, 2008-2009. Đỗ Ngọc Thạch
  2. Chùm thơ về Hà Nội của Đỗ Ngọc Thạch – Trang chủVăn Nghệ

    www.vannghechunhat.net › ThơBản lưu
    Bạn +1 mục này công khai. Hoàn tác
    Trước văn bia Trăm năm bia đá thì mònNgàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ(ca

Từ văn miếu đến hồ Hoàn Kiếm

Thứ tư, 12 Tháng 10 2011 20:20 0 Comments BẠN ĐỌC GỬI Tản văn
vanmieu1. Ở Hà Nội có nhiều di tích văn hóa – lịch sử lớn, song có hai nơi gắn bó với tôi rất bền chặt và tôi đã gửi vào đó rất nhiều kỷ niệm không thể phai mờ, đó là Văn Miếu Quốc Tử Giám và Hồ Hoàn Kiếm. Có rất nhiều lý do để người ta gắn bó với một vùng đất, một địa danh nào đó và sự gắn bó của tôi với Văn Miếu Quốc Tử Giám và Hồ Hoàn Kiếm cũng có rất nhiều lý do, trong đó có ba lý do quan trọng nhất là:
1/ Nhà bố mẹ tôi ở đường Giảng Võ, mà tôi thì làm việc ở Viện Văn học (Từ năm 1978 đến năm l980), nên ngày ngày tôi phải đi làm (đi bộ) trên tuyến đường Giảng Võ – Cát Linh – Văn Miếu – Nguyễn Thái Học – Tràng Thi – Hồ Hoàn Kiếm – Lý Thái Tổ (Viện Văn học);
2/ Lý do thứ hai là cả hai địa danh này đều có Rùa. Tôi đã đứng ngắm hàng giờ Rùa Văn Miếu cũng như Rùa Hồ Hoàn Kiếm, bởi từ nhỏ tôi đã thích loài linh vật này, lớn lên càng thích hơn bởi nó hợp với tính cách tôi “Chậm mà chắc!”, tôi thích luôn cả những người có tướng cách “Quy bối” – Tướng Rùa, đây là quý tướng, những người có tướng Rùa làm quan ở đâu thì con dân được nhờ!
3/ Lý do thứ ba để tôi gắn bó với Văn Miếu và Hồ Hoàn Kiếm là bởi có một người con gái Hà Thành rất đặc biệt…Truyện ngắn này viết về người con gái Hà Thành đó.
2.
Như vừa nói trên, “Tuyến đường Đau khổ” của tôi có đi qua phố Tràng Thi, ở đó có Thư viện Quốc gia là nơi tôi thường vào đọc sách từ thời còn là sinh viên. Thư viện của Viện Văn học cũng khá đủ sách phục vụ công tác nghiên cứu, song đến Thư Viện Quốc gia vẫn là cái thú riêng của không ít người làm công tác nghiên cứu văn học nói riêng và văn hóa – khoa học nói chung. Tôi thuộc diện của những người “Coi thư viện là nhà”, không những ban ngày mà cả ban đêm cũng chui vào Thư viện, ăn trưa, thường là cả ăn chiều ở Thư viện thì không gọi là nhà thì gọi là gì?
Đến Thư viện Quốc gia còn có một đối tượng, tuy không nhiều nhưng bao giờ cũng có, đó là những học sinh phổ thông Hà Nội (nhà ở gần Thư viện) sắp thi vào Đại học và những người Hà Nội đi “chinh chiến” đó đây giờ được trở về muốn thi vào Đại học. Người con gái mà tôi nói rất đặc biệt tên gọi Tiểu Hà, là học sinh phổ thông nhưng kỳ thi trước vì lý do đặc biệt phải bỏ thi, nên năm sau thi lại, gọi là “Thí sinh tự do”, cũng thường vào đọc sách, ôn thi ở Thư viện. Và chính tại đây – Thư viện Quốc gia – tôi đã gặp Tiểu Hà.
3.
Bữa ăn trưa của tôi (và phần lớn những người khác thời đó – mà người ta gọi là “thời Bao cấp”) tại Thư viện thường là một cái bánh mỳ (không nhân hoặc có nhân – tùy người) hoặc cơm nắm cơm đùm đạm bạc, có vài người còn huy động cả binh chủng “ngô khoai sắn”,(và nếu ở tại Cơ quan cũng thế). Chúng tôi ăn trưa ở những băng ghế đá ngoài sân Thư viện, khá rộng và cũng đẹp như Công viên. Không biết mọi người thế nào, chứ tôi thì ăn xong chỉ thấy đói hơn lúc chưa ăn! Để giải quyết vấn đề này, tôi thường tới thùng nước công cộng của Thư viện uống cho tới lúc bụng căng như bụng cóc!
Hình như có người “theo dõi” việc sài nước của công quá trớn đó của tôi, và một lần tôi vừa uống xong gần chục ca nước thì có tiếng nói sau lưng: “Thái quá bất cập! Anh mà uống nước nhiều như thế rất có hại!”. Tôi giật mình quay lại và càng kinh ngạc hơn khi trước mặt tôi là một cô gái có khuôn mặt rất giống với nhân vật Ac-si-nha trong phim “Sông Đông êm đềm” (dựng theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Sô-lô-khôp) mà tôi rất có ấn tượng khi xem bộ phim này. Tôi chưa kịp hết ngạc nhiên thì cô gái biến mất, trước khi biến mất còn để lại cho tôi một  “nụ cười sáng lóa sau vành môi ẩm ướt”! Không biết cô gái cười vì cái gì, chắc là bộ dạng của tôi lúc đó tức cười lắm?
Cô gái có khuôn mặt rất giống nhân vật Ac-si-nha đó chính là Tiểu Hà, cô gái Hà thành rất đặc biệt mà tôi đã nói ở trên!
Tiểu Hà đặc biệt vì ba lý do: 1/ cái tên Tiểu Hà gợi cho ta một cô bé xinh xắn, nho nhỏ nhưng cô lại già trước tuổi có đến gần chục tuổi, vì thế tôi hơn Tiểu Hà gần chục tuổi nhưng tôi có cảm giác như ngang tuổi nhau! 2/ Tiểu Hà đã cùng mẹ chăm sóc người bố nằm một chỗ suốt 5 năm trời rồi lại một mình chăm sóc song thân năm năm nữa khi mẹ cô cũng không thể đi lại được! 3/ Nhà nghèo, lại phải chăm sóc bố, mẹ bệnh tật nhưng Tiểu Hà rất chăm học và có một sự hiểu biết rất sâu rộng, mặc dù cô mới tốt nghiệp Trung học, chưa thi vào đại học, nhưng thực ra cô đã tự học xong chương trình bộ môn Lịch sử của Đại học Sư phạm.
4.
Theo thói quen, trưa hôm sau, tôi lại uống căng một bụng nước! Lần này thì cô gái tới nhẹ nhàng cầm lấy cái ca khỏi tay tôi và nói: “Anh không được uống nước nhiều như thế, máu anh sẽ bị loãng và tai biến sẽ ập đến bất cứ lúc nào!”. Trời đất! Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói như vậy! Tôi thoáng hoảng sợ và chắc điều đó thể hiện rõ trên nét mặt tôi và khiến cô gái mỉm cười – lại là nụ cười sáng lóa sau vành môi ẩm ướt!…Tôi đang lúng túng không biết nói gì thì một ông thầy học của tôi ở Khoa Văn ĐHTH tới uống nước, thấy tôi đứng trước cô gái thì nói: “Cậu quen Tiểu Hà đấy à?”. Tôi ngập ngừng chưa biết trả lời ra sao thì cô gái – Tiểu Hà nói: “Dạ! Ngày nào em tới Thư viện cũng gặp anh ấy đang uống nước!”. Ông  thầy cười, nói: “Thì ra là người quen cả! Cô Hà đánh máy xong tập bản thảo ấy chưa? Có bản thảo mới , mai tới nhà tôi lấy nhé!”. Khi ông thầy đi rồi, Tiểu Hà nói: “Em vẫn thường đánh máy thuê kiếm tiền. Ông thầy của anh nhiệt tình kiếm bản thảo cho em lắm, anh có ông thầy thật là tốt bụng, tính giá cao hơn những người khác!”. Tôi lại thêm ngạc nhiên về Tiểu Hà!
Có nhiều người tới thùng nước công cộng uống nước, chúng tôi đi ra khoảng sân rộng, tiếp tục nói chuyện về đề tài đánh máy. Tôi nói với Tiểu Hà: “Kiếm tiền bằng đánh máy chữ phải siêu lắm vì tiền công rất rẻ mạt. Bà Chung đánh máy ở cơ quan tôi đánh máy cả mười ngón tay, nghe cứ như mưa rào, mà mỗi ngày cũng chưa tới ba chục trang! Tiểu Hà đánh máy kiếm tiền đã lâu chưa, mỗi ngày được bao nhiêu?”. Hà cười nhỏ nhẹ, nói: “Em đã phải đánh máy kiếm tiền năm năm rồi, từ khi mẹ em nằm liệt giường. Cả bố và mẹ em đều làm nghề dạy học, đều đánh máy thuê kiếm tiền như một nghề thứ hai!… Giờ đối với em là nghề chính!”. Lần này thì tôi ngạc nhiên hết sức bởi với tôi, tự nuôi mình mình mà cũng thấy khó khăn, trong khi Tiểu Hà lại phải gánh một gánh nặng ngoài sức tưởng tượng!
Thế là từ đó, tôi gặp những bạn học cũ đang làm việc ở các nhà xuất nhận bản thảo về đưa cho Hà đánh máy. Đánh máy cho nhà xuất bản thì tiền công rẻ hơn đánh máy cho cá nhân nhưng có đều và được đọc sách trước thiên hạ! Chính điều thú vị có màu sắc lãng mạn đó đã giúp cô gái có thêm sức mạnh và lòng kiên nhẫn để ngày ngày đêm đêm ngồi bên máy chữ ghép những con chữ vô hồn thành cuộc đời với biết bao sắc màu, âm thanh kỳ ảo!… Lúc đó, tôi cũng thường đánh máy chữ nhưng chỉ ở trình độ “mổ cò” và đánh máy bài viết của mình mà thôi. Vì thế, khi nhìn Tiểu Hà đánh máy, tôi thấy không khác gì nghệ sĩ đàn piano! Chính cái cảm giác đó đã giúp tôi “tiến bộ” rất nhanh về tốc độ đánh máy và chỉ sau một tháng “học mót” cách đánh máy của Hà, tốc độ đánh máy của tôi không thua các tay thợ chuyên nghiệp,  nghe tiếng máy chữ cũng như …mưa rào mùa hạ!
5.
Nhà Tiểu Hà ở ngay trên đường Quốc Tử Giám, phía bên phải nếu tính cho người đang đi vào Văn Miếu. Dãy phố này trước đây yên tĩnh dưới những tán cây bàng mát vào mùa hè, buồn về mùa đông, sau này người ta mới mở hàng quán buôn bán ì xèo và nhiều nhất là những đại lý vé số. Con đường qua nhà Tiểu Hà nằm trên tuyến đường tôi vẫn ngày ngày đi qua, như đã nói trên. Song, từ khi quen biết Tiểu Hà, con đường này là điểm dừng thứ hai của tôi sau Thư viện Quốc gia, và cũng là điểm dừng khá lâu. Bởi những lúc rảnh rỗi, thường là viết xong một bài nghiên cứu gì đó, tôi lại tự thưởng cho mình được đến …ngắm Tiểu Hà! Gọi là ngắm nhưng thực ra tôi thường làm một việc gì đó phụ giúp công việc đánh máy của Tiểu Hà, chẳng hạn như đọc cho Tiểu Hà đánh máy, sửa lỗi bản đã đánh máy, hoặc những lúc Tiểu Hà phải chăm sóc bố, mẹ thì ngồi vào bàn gõ máy chữ như …điên!
Tôi đến nhà Tiểu Hà càng thường xuyên hơn khi nói chuyện với ông bố của Tiểu Hà (sức khỏe ông rất kém nên rất ít nói chuyện với khách đến nhà), tôi mới được biết ông đã từng là giáo viên của trường Phổ thông cấp 2 – 3 Lương Ngọc Quyến khi còn dạy học ở Thái Nguyên. Năm 1961, gia đình tôi ở Thị xã Thái Nguyên, tôi học lớp Năm ở trường này, còn ông chỉ dạy ở khối cấp Ba. Tuy thế, từ đó tôi vẫn gọi ông là thầy và phụ với Tiểu Hà trong việc chăm sóc ông. Ông bố Tiểu Hà là một thanh niên Hà Nội gốc, học giỏi và đầy nhiệt huyết. Tốt nghiệp Khoa Sử Đại học Sư phạm, ông đã tình nguyện đi dạy ở miền Núi, một phong trào rất sôi động của Thanh niên Thủ đô lúc đó đã để lại dấu ấn trong bài thơ “Lên miền Tây” của nhà thơ Bùi Minh Quốc: Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy / Thì xa xôi gấp mấy cũng lên đường!…Ông đã đi hầu hết những huyện miền núi đầy gian khổ của tỉnh Thái Nguyên như Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai…Ai đã ở Thái Nguyên đều biết câu ca buồn: Những người lử khử, lừ khừ / Chẳng ở Đại Từ thì ở Võ Nhai – đó là nói về những người bị bệnh sốt rét! Và chàng thanh niên Hà Nội bố của Tiểu Hà bây giờ đã không thoát được căn bệnh “lưu truyền” đó, chuyển về thị xã Thái Nguyên được vài năm thì bệnh tái phát, trầm trọng hơn, suýt lấy mạng ông! Vợ ông, cũng là con gái Hà Nội, cũng là giáo viên đã đồng hành với ông “trên từng cây số”, tuy không dính bệnh sốt rét như chồng nhưng do cuộc sống kham khổ và khóc thương chồng nhiều mà sức khỏe suy kiệt dần!
Những lúc đầu óc minh mẫn, tỉnh táo, ông bố của Tiểu Hà rất thích bàn luận về các nhân vật lịch sử nổi tiếng cổ kim Đông Tây…
Nghe ông nói chuyện, lịch sử như sống lại rất sinh động, với đủ sắc màu vừa rất thực lại cũng rất kỳ ảo! Chẳng hạn như ông bảo, tại sao La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp không chịu ra giúp Tây Sơn Nguyễn Huệ? Tại vì ông đã biết Tử Vi của Nguyễn Huệ, Huệ đoản mệnh. Còn việc Huệ ra Bắc “phò Lê diệt Trịnh” thì không đánh cũng thắng bởi đối thủ đã tự hủy diệt!…Hoặc có một nhân vật lịch sử “công nhiều mà tội cũng không đáng chết” nhưng lại nhận cái chết bi thảm là Nguyễn Hữu Chỉnh! Chỉnh phò giúp Nguyễn Huệ khi mới ra Bắc, lại “mai mối mát tay” cho Huệ với công chúa Ngọc Hân, đó là một kỳ nữ của Bắc Hà, đáng lẽ phải được ghi công đầu, vậy mà…bị “thay ngựa giữa đường”!…Không chỉ hiểu sâu sắc về lịch sử, ông giáo còn là một nhà thơ chưa xuất đầu lộ diện. Ông gần như thuộc hết các nhà thơ lớn của Việt Nam và thế giới, ông đã làm rất nhiều thơ nhưng hầu như không còn giữ bản viết tay nào, bởi ông nói, những cái gì đáng nhớ thì nó sẽ ở mãi trong đầu ông! Song, những lúc ông muốn đọc thơ của ông cho tôi nghe thì sức khỏe ông lại có vấn đề! Thật đáng tiếc!
6.
Việc tôi đến nhà Tiểu Hà dày hơn đã gặp phải một “lực cản” hoàn toàn bất ngờ đối với tôi. Kề sát nhà của Tiểu Hà là một nhà Đại lý vé số. Đứng tên chủ đại lý vé số và cũng thường ngồi bán vé số là một người khó đoán tuổi, có cái lưng nổi một cục to tướng, mà người ta gọi là “Lưng gù”. Tôi thường không nhìn qua nhà Lưng gù vì chỉ muốn mau chóng vào gặp Tiểu Hà. Một hôm, tôi nhận được tờ giấy học trò, có viết mấy dòng như sau: “Kính gửi Thạch Tiên sinh! Tôi đã điều tra kỹ lý lịch Tiên sinh, biết Tiên sinh đang làm việc ở Viện Văn học, một cơ quan Nhà nước danh giá. Tiên sinh là người đọc sách Thánh hiền, vậy mong Tiên sinh xử sự như một người có văn hóa: Bông hoa Tiểu Hà đã “có chủ”, chính là Tôi – Lưng gù tật nguyền đáng thương! Xin Tiên sinh đừng lui tới nhà Tiểu Hà nữa! Chúc Tiên sinh mọi sự tốt lành! Ký tên: Lưng gù Quadimodo!”. Đọc đến chữ cuối cùng, tôi như chân tay rụng rời! Hắn tự nhận là Quadimodo có nghĩa là hắn đã yêu Tiểu Hà từ lâu, đơn phương nhưng quyết liệt! Rõ ràng là tôi không thể “đấu súng” với hắn,  “sự nghiệp” của tôi mới bắt đầu, chẳng lẽ chỉ “Bùm” một cái là tan thành mây khói!
Tôi đưa ngay lá  thư của Lưng gù cho Tiểu Hà, Tiểu Hà nhìn tôi dở khóc, dở cười, lúng túng một hồi rồi mới nói được: “Xem chừng Lưng gù này còn dữ dội, mãnh liệt hơn cả Quadimodo trong tiểu thuyết “Nhà Thờ Đức Bà Paris”! Có chuyện này là em chưa kể cho anh nghe, nhân đây em xin nói luôn: Ngay từ khi mẹ em bị bệnh nặng, Lưng gù đã cho bà Mối mai sang xin cưới em và nói sẽ phụng dưỡng bố mẹ em thật tốt cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời! Em thật bất ngờ và rất sợ, nhưng không biết làm thế nào? Bố, mẹ đều bảo khất đến khi nào em thi đỗ vào Đại học sẽ bàn tới chuyện đó. Đây chỉ là kế hoãn binh tạm thời chứ chưa có cách nào dứt khoát. Lưng gù vui vẻ nhận lời và ngày ngày “canh chừng” em như Cai ngục! Hễ ai tới nhà em nhiều và có ý tán tỉnh yêu đương là hắn gửi giấy dọa giết. Hắn cũng định dọa giết anh nhưng bố em bảo anh là học trò cũ của ông hồi ở Thái Nguyên nên hắn mới viết thư giọng điệu nhẹ nhàng, lịch sự như vậy đấy!” May mà tôi đã biết kỹ Quadimodo trong tiểu thuyết nên bình tĩnh suy nghĩ về Quadimodo có thực ở cuộc đời này. Nghĩ đến nát óc không tìm ra được một kế sách nào khả thi, trừ kế cuối cùng trong cái “cẩm nang” Tam thập lục kế: Tẩu vi thượng sách! Nhưng Tẩu như thế nào thật không đơn giản bởi tình cảm của tôi với Tiểu Hải mới ở giai đoạn “Tình trong như đã mặt ngoài còn e !” mà thôi!
Tôi buồn quá, và bỗng phát hiện ra rằng có quá nhiều chuyện thường chỉ có ở trong tiểu thuyết lại cứ đeo bám tôi hoài! …Tôi đem chuyện Quadimodo hỏi ông Đỗ Văn Hỷ, chuyên gia về văn học  Trung Quốc của Viện, cũng rất giỏi Tử vi tướng số, thì ông Hỷ nói: “Anh hùng không qua được ải Mỹ nhân! Nếu cậu tự cho mình là anh hùng thì sẽ chết vì người đẹp, còn nếu cậu là tiểu nhân thì cậu sẽ thắng cái anh chàng Quadimodo Lưng gù đó!” Tôi nói: “Anh nói thế cũng như chưa nói gì? Vấn đề là em có nên tiếp tục đeo bám cô nàng hay “nhường” cho thằng Lưng gù?” Ông Hỷ cười: “Tớ làm sao mà trả lời thay cho cậu được? Thần Tử Vi đứng trước Thần Ái tình cũng bó tay chào thua khi bị Mũi tên vàng của Thần Ái tình bắn trúng!”. Nghe ông Hỷ nói vậy, tôi chán nản hết sức, đi bách bộ từ Văn Miếu tới Hồ Hoàn Kiếm đến chục lần mà vẫn chưa nghĩ ra một ý hay nào! Khi tới trước cổng  Thư viện Quốc gia, nhìn vào trong sân, thấy Tiểu Hà đang ngồi trên một băng ghế đá như chờ đợi ai, tôi vội đi vào. Lúc tôi vừa ngồi xuống bên cạnh Tiểu Hà như mọi lần thì người nổi da gà khi thấy ở trên một băng ghế đá khác khuất sau một lùm cây, Quadimodo Lưng gù đang ngồi thu lu bất động, mắt nhìn về phía chúng tôi lạnh băng!
7.
Trưởng Ban Lý luận của tôi có người bạn làm cấp Trưởng phòng ở Sở Văn hóa – TT tỉnh Phú Khánh, bạn học của tôi cũng làm ở đó, vì thế ông muốn tổ chức cho cả Ban đi Nha Trang, theo “chính danh” là đi thực tế cơ sở. Những năm đầu giải phóng mà tổ chức được một chuyến đi dài ngày vào Miền Nam nói chung (Nha Trang nói riêng) là rất kỳ công. Lúc đó, các thành phố ở miền Nam nói chung và thành phố biển Nha Trang nói riêng vẫn là “vùng đất lạ” đối với người miền Bắc, vì thế việc đi Nha Trang một tháng trời đã giúp tôi “lùi xa mà nhìn rõ hình thế núi non”, tức nhìn lại “vấn ðề Lýng gù” một cách tỉnh táo và sáng suốt. Cuối cùng, sau ðúng một tháng ở Nha Trang, tôi ðã rút ra được cách đối nhân xử thế trong trường hợp phải đối mặt với “vấn đề Lưng gù”: cứ để sự việc phát triển, vận động một cách tự nhiên, không can thiệp thô bạo! Cụ thể hơn là chờ thời gian trả lời! Câu này cũng là một luận điểm quan trọng trong Lý luận văn học nói riêng và văn hóa – nghệ thuật nói chung: Thời gian là vị quan Tòa công minh nhất!
Và quả nhiên, Thời gian đã đưa cho tôi một đáp án thật…phũ phàng: Khi chuyến tàu Thống Nhất từ Nha Trang vừa về tới Hà Nội, tôi chưa về nhà ngay mà tới nhà Tiểu Hà (Từ Ga Hà Nội về nhà tôi ở Giảng Võ thì đi qua đường phố có nhà của Tiểu Hà) thì chỉ thấy hai người y tá mặc áo Blu trắng toát đang canh chừng bố và mẹ của Tiểu Hà! Những hình ảnh như thế quá quen thuộc đối với tôi (bố mẹ tôi đều làm nghề Y và thường là gia đình tôi ở luôn trong khu tập thể của Bệnh viện) và như báo tin cho tôi biết rằng: bệnh tình của song thân Tiểu Hà có vấn đề! Tôi chưa kịp hỏi gì thì một cô Y tá đưa cho tôi một mảnh giấy. Tôi mở ra và đọc ngay: “Gửi anh Th.!…Em không thể cưỡng lại định mệnh, tức phải cưới Lưng gù để anh ta lo hậu sự cho song thân! Chúng ta không nên gặp nhau nữa! Em: Tiểu Hà!”.  Khi thấy tôi đã đọc xong thì cô Y tá nói: “Thực ra bố mẹ của Tiểu Hà đã chết, nhưng chưa phát tang để tiến hành “Cưới chạy tang”, mọi người đang làm đám cưới ở nhà hàng Phú Gia!… Anh có vào chào hai ông bà thì vào đi rồi về ngay! Tiểu Hà có nhờ tôi nói thêm với anh như vậy!”.
Tôi không còn nhớ cảm giác của mình lúc đó như thế nào, nhưng chắc là bộ mặt vốn đã khá nhàu nát của tôi lúc đó kỳ dị lắm, khiến cho cô Y tá nói xong thì bật khóc! Không biết cô Y tá khóc vì thương cảm cho tôi hay cho Tiểu Hà?
8.
Ngay ngày hôm sau, tôi cho tất cả quần áo, đồ dùng cá nhân của tôi vào cái ba-lô Con Cóc từ thời đi lính còn giữ lại và đến thẳng phòng làm việc của tôi ở Viện Văn học, tức đêm đêm tôi sẽ ngủ ngay trên bàn làm việc. Và thế là từ đó, tôi không còn ngày ngày đi trên tuyến đường từ đường Giảng Võ qua Văn Miếu Quốc Tử Giám đến Hồ Hoàn Kiếm để tới cơ quan ở đường Lý Thái Tổ nữa! Tuyến đường vừa mới như là mạch máu trong cơ thể bỗng chốc trở thành “Con đường đau khổ”!
Thời gian lại đem đến cho tôi một đáp án mới của cuộc đời: Tôi không làm việc ở Viện Văn học nữa mà chuyển về Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật ở đường Đê La Thành (đối diện với Nhạc viện Hà Nội). Như thế tuyến đường Từ Văn Miếu đến Hồ Hoàn Kiếm có thể được xóa đi vĩnh viễn, tôi sẽ thoát khỏi sự ám ảnh vì cứ phải cố tránh “Con đường đau khổ” mỗi khi đi từ cơ quan ở Lý Thái Tổ về nhà ở Giảng Võ! Nhưng thực ra, sự ám ảnh này không hề buông tha tôi và cứ như là “ngựa quen đường cũ”, thỉnh thoảng đôi chân vạn dặm của tôi lại vô tình (hay cố ý) đưa tôi đi qua nhà Tiểu Hà. Và sự đời trớ trêu ở chỗ, lần nào tôi đi ngang qua nhà Tiểu Hà cũng đều nhìn thấy Nàng, nhưng trong những cảnh huống khiến trái tim tôi thêm tan nát, chẳng hạn như cảnh tượng sau: Tiểu Hà vừa đi làm về , còn đứng ngoài hiên, thì người chồng Lưng gù đã từ bàn vé số bật dậy, nhanh như vượn, nhào tới ôm chặt lấy Tiểu Hà rồi hôn hít lên khắp người Tiểu Hà, không chừa chỗ nào!…
Sài Gòn, 2008-2009
Đỗ Ngọc Thạch

Hanoi - VietnamHo Guom – Ha Noi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét