Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2011

Thư Đình , 3 bài thơ

 
THƯ ĐÌNH
(1952~)


Tiếng kêu của một thế hệ
 
Tôi không ta thán
về chuyện rủi ro của mình
Tuổi thanh xuân đã mất,
Sự dị dạng của tâm hồn.
Vô số những đêm không ngủ
 
đã để lại cho tôi những hoài niệm đắng cay.
Tôi đã vứt bỏ tất cả những sự thật tiếp nhận được,
tôi đã lìa xa mọi xiềng xích,
Và những gì còn lại trong tim tôi
 
lúc này đổ nát, tới hút mắt...
Thế tuy nhiên, tôi đã đứng dậy!
Tôi đứng trên giải bao la của chân trời.
Không bao giờ còn có ai, bằng bất cứ cách nào,
 
có thể xô tôi xuống.
 
Nếu như ấy là tôi, đang nằm trong nấm mộ của kẻ đã hy sinh
rêu xanh đang gặm mòn hàng chữ trên bia mộ,
Nếu như ấy là tôi, đang nhâm nhi vị đời sau song sắt,
 
đang tranh luận những khoản luật pháp với chuỗi xích sắt;
Nếu như ấy là tôi, khuôn mặt mỏi mệt âu lo và tái mét
 
đang đền bù tội ác bằng lao động triền miên;
Nếu như ấy là tôi thì ấy cũng chỉ là
 
tấn thảm kịch của riêng tôi
Có lẽ tôi rất có thể đã tha thứ
Có lẽ nỗi đau buồn và căm hận của tôi
 
rất có thể lúc này đã nghỉ yên.
 
Nhưng,
Vì những người cha của những người con,
Vì những người con của những người cha,
Để chúng tôi không cần phải run rẩy nữa
 
trước những lời trách móc không nói ra
 
từ bên dưới những mộ thạch ở khắp mọi nơi;
Để chúng tôi không còn phài đối diện
 
ở bất cứ nơi nào chúng tôi xoay người lại
 
với bóng ma của những kẻ không nhà;
Để những đứa trẻ vô tội
 
sau đây một trăm năm
 
không cần phải đoán biết lịch sử mà chúng tôi bỏ lại.
Vì cái khoảng trống này trong ký ức của dân tộc chúng tôi,
Vì con đường mòn gian truân mà dòng giống chúng tôi đang phải trải qua,
Vì sự tinh khiết của các tầng trời
 
và sự thẳng thắn của con đường đi tới
 
Tôi Đòi hỏi Sự Thật!
 
                                               Tháng Hai 1980
 
 Bức tường
 
Tôi đã không thể nổi loạn chống lại bức tường này;
Tôi đã chỉ ao ước được làm như thế.
 
Tôi là ai?
Điều ấy là gì? Rất có thể
ấy chỉ là thịt da tôi đang dần dần già cỗi
không cảm thấy gió mưa hay lạnh lẽo hay sương giá;
không nhận biết mùi thơm của những đóa hoa lan.
Lại cũng có thể
tôi chỉ là một thứ cây cỏ Á châu nào đó,
một giống ký sinh trang điểm cho một lòng vụng bùn lầy.
Nếu tôi là ngẫu nhiên thì điều ấy cũng không thể tránh được.
 
Tuy nhiên, vào buổi chiều, bức tường bắt đầu chuyển động,
vươn tới cái vỏ đậu trá ngụy mềm mềm,
o ép tôi, cưỡng bức tôi
phải mang mọi thứ hình thù khác.
Tôi hoảng hốt và thoát ra ngoài đường phố
và bắt gặp cùng một thứ ác mộng mà tôi biết
đang đeo sát gót mọi người.
Lần lượt tới những mắt nhìn đột nhiên thu lại vì sợ hãi
lần lượt tới những bức tường lạnh lẽo.
 
A, lúc này tôi đã hiểu,
tôi cần phải vứt bỏ trước tiên
những chuyện mặc cả của riêng tôi với bức tường ấy
để lướt thắng những nỗi sợ của tôi ở trên đời.
 

Găp gỡ trên lối mòn cũ

 
Đột nhiên những cây phượng nghiêng một cách dị kỳ,
một hồi chuông xe đạp lơ lửng trên không,
trái đất quay hết tốc độ
và lúc này lại là một đêm mười năm trước.
 
Hàng cây phượng lúc này lại cũng đong đưa nhè nhẹ nữa;
một tiếng chuông vung mùi hoa thơm dọc theo đại lộ đang đập mạnh
Bóng tối gần lại, rồi lan ra từ khắp nơi.
Những kỷ niệm ngày hôm ấy hòa lẫn với được gặp anh lúc này.
 
Có lẽ đã chả có gì xảy ra, và
ấy chỉ là tưởng tượng của em, mà lối mòn đã dấy lên;
hay biết đâu tất cả đã thực sự xảy ra;
em đã quen với mọi chuyện có thật và không khóc nữa.
 
 DIỄM CHÂU dịch
----------------------
THƯ ĐÌNH [Shu Ting], tên thực là Cung Bội Du [Gong Peiyu], sinh năm 1952 ở Tấn Giang [Jinjiang], tỉnh Phúc Kiến [Fujian]. Phải bỏ dở trung học trong Cách mạng Văn hóa, đi lao động ở vùng quê nghèo cho tới năm 1973. Bà bắt đầu viết từ đấy. Trở lại thành phố bà tiếp tục lao động trên những công trường xây cất và trong các nhà máy, trong đó có một nhà máy làm bóng đèn. Thư Đình được thế giới bên ngoài biết tới nhiều, như một trong những người từng có thơ đăng trên tờ Kim thiên [Jintian] (cùng với Mang Khắc [Mang Ke], Bắc Đảo [Bei Dao], Cố Thành [Gu Cheng], Đa Đa [Duo Duo] và Dương Luyện [Yang Lian]...). Sau biến cố Thiên An Môn, bà là một trong hai người nổi tiếng thuộc nhóm “Mông Lung Thi” [Menglong shi] (danh hiệu do chính các thế lực nắm quyền đặt cho!) ở lại Hoa-lục. Thi phẩm đầu tay của bà xuất hiện năm 1982. Một tập khác in chung với Cố Thành cùng năm ấy. Bà nghỉ viết vào thời có “Phong trào chống Ô nhiễm Tinh thần”, vì chính bản thân và tác phẩm bị đả kích, nhưng lại xuất hiện vào khoảng giữa những năm 1980. Từ đấy đã xuất bản thêm hai tập thơ nữa và nhiều tập văn xuôi. Người đọc Anh văn có thể tìm đọc Shu Ting, Selected Poems (do Eva Hung biên tập), nxb. Renditions Paperbacks, Hongkong, 1994.
 
Các bài trên dịch theo các bản Anh văn đăng trên P.I.W. (Mạng Thơ Quốc tế), bài đầu có hai bản dịch Anh văn, tôi theo bản của Richard King, hai bài sau không rõ tên dịch giả. (DC.)
 
____________________________________________________________________________________
Tên người và địa danh bằng tiếng Hán-Việt do Hoàng Ngọc-Tuấn tra cứu từ những tài liệu Trung văn.Nguồn: tienve.org

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét